20+ Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó (điểm cao)



Đề bài: Phân tích bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" của Bác Hồ.

20+ Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó (điểm cao)

Quảng cáo

Bài giảng: Tức cảnh Pác Pó - Cô Phạm Lan Anh (Giáo viên VietJack)

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 1

   Bác Hồ về nước tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước. Khi đó, tình hình thế giới và trong nước có những biến động vô cùng to lớn (đại thế chiến thứ hai, Pháp lại khủng bố cách mạng dã man, Nhật vào Đông Dương; ở châu Âu, Pháp đầu hàng phát xít Đức..), Bác đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, vạch đường lối cách mạng trong tình hình mới, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, tranh thủ thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc.

   Bác sống ở hang Pác Bó (đúng tên là Cấn Bó, nghĩa là đầu nguồn), trong điều kiện sinh hoạt hết sức gian khổ.

   Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại: "Nơi ở đầu tiên của Bác tại Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng vẩn là nơi ở tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và rất sâu trong rừng, bên ngoài chỉ rất ít cành lau. Những khi trời mưa to, rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng, Bác thức dậy thấy một con rắn rất lớn nằm khoanh tròn ngay cạnh Người (...) Sức khoẻ của Bác có phần giảm sút. Bác sốt rét luôn. Thuốc men gần như không có gì ngoài ít lá rừng lấy về sắc uống theo cách chữa bệnh của đồng bào địa phương. Thức ăn cũng rất thiếu (...).

Quảng cáo

   Có thời gian, cơ quan chuyển vào vùng núi đá trên khu đồng bào Mán trắng, gạo cũng không có, Bác cũng như các anh em khác phải ăn toàn cháo bẹ hàng tháng ròng. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng thấy Bác thích nghi một cách rất\ tự nhiên. Chẳng hiểu Bác được rèn luyện từ bao giờ, như thế nào mà mọi biến cố đều không mảy may lay chuyển được..."

   Mặc dù sống trong điều kiện gian khổ, hiểm nghèo như vậy nhưng Bác Hồ rất vui. Bác rất vui vì sau bao năm xa nước nay được sống và trực tiếp lãnh đạo phong trào trong nước. Đặc biệt, vì với nhân quan chính trị sắc bén. Người biết rằng thời cơ giành độc lập hoàn toàn đang tới, dù cục diện trước mắt còn tất đen tối. "Đối với Nguyễn Ái Quốc và các bạn chiến đấu của Người những ngày tháng ở Pác Bó tựa như những ngày vui bất tận, rực rỡ sắc màu của cảnh chờ đợi những chuyển biến vĩ đại (...) chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc làm việc nhiệt tình như vậy, Người như trẻ ra đến hai, ba chục tuổi.

Quảng cáo

   Bài thơ với bốn câu, có giọng đùa vui hóm hỉnh, đã toát lên một cảm giác vui thích, thoải mái. Phân tích bài thơ chính là phân tích tìm hiểu niềm vui thoải mái đó, vì đằng sau niềm vui đó là vẻ đẹp của một tâm hồn bình dị mà thanh cao, hồn nhiên mà đầy bản lĩnh của Bác Hồ.

   Câu mở đầu bài thơ có giọng điệu phơi phới, thoải mái, đọc lên, ta có cảm tưởng Bác Hồ sống thật ung dung hoà hợp nhịp nhàng với điệu sông núi rừng:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

   Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, tạo thành hai vế sóng đôi toát lên cảm giác nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào... Câu thứ hai là một nét cười đùa, cho biết thức ăn của con người sống ở suối, hang ấy thậl đầy đủ, đầy đủ tới dư thừa:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Quảng cáo

   Câu thơ này, có thể hiểu là: dù chỉ có cháo bẹ, rau măng nhưng tinh thần cách mạng vẫn san sàng. Cách hiểu ấy không sai về mặt ngữ pháp, nhưng e không thích hợp lắm với giọng đùa vui thoải mái của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu là: thức ăn (cháo bẹ, rau măng) thì lúc nào cũng có sẵn đó.

   Câu thứ nhất nói về ở, câu thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về làm việc, cả ba câu đều là thuật tả sinh hoạt vật chất, chỉ đến câu kết mới phát biểu cảm xúc, ý nghĩ.

   Hiểu như vậy, sẽ phù hợp với mạch thơ, với kết câu chặt chẽ của bài thơ hơn. Ở đây ta chú ý cách gieo vần bằng (âm ang), gợi cảm giác mở ra và vang xa, đồng thời tạo nên cái thế vững vàng và cảm giác khoáng đạt của bài thơ. Câu thứ ba vần trắc làm nổi bật lên hình tượng ở trung tâm bài thơ, được đặc tả bằng những nét bút đậm, khoẻ, sinh động:

Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng.

   Hai chữ "chông chênh" là lừ láy duy nhất của bài thơ, rất tạo hình; ba chữ "dịch sử Đảng" toàn vần trắc, thật khoẻ, gân guốc như cân lại ba câu.

   Vần bằng vang xa. Đó là hình tượng nhân vật trữ tình được đặt ở trung tâm bài thơ; như vậy con người là chủ thể của thiên nhiên chứ không bị lấn át, hoà lan trong thiên nhiên. Và thật là thú vị, vị "khách lâm tuyền" sống hoà hợp nhịp nhàng với suối, với hang kia, chính là người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, đang tựa vào thiên nhiên để hoạt động cải tạo xã hội. Đằng sau cái dáng tạo hình cụ thể của Bác đang ngồi dịch sử Đảng toát lên tư thế lồng lộng của vị lãnh tụ dân tộc, nhà cách mạng vĩ đại - một hình tượng thật đẹp. Bác Hồ đang sáng tạo ra lịch sử nơi "đầu nguồn" - trên cái bối cảnh thiên nhiên, có suối, có rừng... Cảnh tượng ấy, cuộc sống ấy quả thật là đẹp "thật là sang"! Bài thơ kết thúc bằng chừ "sang", có thể gọi là chữ nhãn tự (chữ mất) đã kết tinh, bật sáng tinh thần toàn bài.

   Thơ Bác Hồ vừa rất mực giản dị, song lại rất hàm súc, gợi lên bao ý nghĩa sâu xa; vừa đậm đà màu sắc cổ điển, vừa thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài Tức cảnh Pác Bó là điển hình của hồn thơ, phong cách thơ đó.

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 2

“Bác Hồ, Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại.” Có một câu hát như thế đã đi qua biết bao những tháng năm. Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, con người “ chỉ biết quên mình cho hết thảy” không phải ngẫu nhiên được Thế giới tôn vinh là Danh nhân Văn hóa. Người không chỉ là một nhà lãnh đạo tài ba, một nhà Văn hóa lớn, một nhà tư tưởng lớn mà còn là một Nhà văn, một thi sĩ. Trong cuốn” Nhật kí trong tù” được viết trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, nhà thi sĩ ấy đã từng bộc bạch:

“Ngâm thơ ta vốn không ham”.

Con người ấy chưa một lần nhận mình là thi sĩ. Bác chỉ khẳng định tình yêu đối với văn nghệ nói chung và văn chương nói riêng. Nhưng Người cha già dân tộc chưa một lần nhận mình là thi sĩ ấy đã để lại cho nền Văn học Việt Nam cả một gia tài quý báu. Một trong số đó, bài thơ “ Tức cảnh Pác Bó” để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Tháng Hai năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Bác Hồ đã về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng của dân tộc. Người sống trong hang Pác Bó- một hang núi nhỏ sát với biên giới Việt- Trung. Trước cửa hang, có một phiến đá gồ ghề được Bác chọn làm nơi ngồi dịch sử Đảng bên một con suối trong vắt được Người đặt tên là suối Lê-nin. Tại đây, Bác Hồ viết bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” để nói về cuộc sống kham khổ những ngày đầu của cuộc kháng chiến dai dẳng đánh đuổi thực dân xâm lược, đồng thời thể hiện một tinh thần lạc quang thông qua nhãn quang của người chiến sĩ Cách mạng.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Câu thơ mở đầu gợi hình dung về cuộc sống sinh hoạt và làm việc của Bác tại hang Pác Bó (Cao Bằng):

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”

Nhịp thơ 4/3, chia câu thơ thành hai vế đối nhau rất chỉnh. Đối vế: “ Sáng ra bờ suối “/ “ tối vào hang”, đối thời gian “sáng”/ “tối”, đối hoạt động “ra”/ “vào”, đối không gian thiên nhiên rộng mở “bờ suối” với không gian nhỏ chật hẹp “hang”. Nghệ thuật đối kết hợp với các động từ được sử dụng hết sức giản dị như vẽ ra trước mắt chúng ta một cuộc sống bí mật, tuy thế mà vẫn rất có quy củ, nề nếp. Đặc biệt, giọng thơ cũng giúp ta cảm nhận được tâm trạng thoải mái, ung dung, hòa điệu cùng nhịp sống núi rừng của Bác. Phải chăng đó là bởi con người yêu thiên nhiên, luôn hòa mình với thiên nhiên, đắm say trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngay cả trong hoàn cảnh tù đày:

“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”

Nếu như câu thơ thứ nhất giới thiệu khái quát về cuộc sống tại hang Pác Bó – Cao Bằng thì câu thơ thứ hai tiếp tục làm rõ về những ngày sáng sống giản dị và có phần khó khăn ấy:

“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”

Câu thơ hoàn toàn được thêu dệt bằng bút pháp tả thực. Đó là những món ăn hàng ngày của Bác ở rừng Pác Bó. Cách diễn đạt của nhà thi sĩ ấy rất hóm hỉnh, làm cho câu thơ ánh lên nét cười. Cháo bẹ, rau măng là những món ăn nghèo đạm bạc nhưng chứa chan tình cảm bởi đó là những thức ăn do thiên nhiên ban tặng và người dân cung cấp. Thưởng thức cháo bẹ, rau măng là niềm vui của người chiến sĩ cách mạng luôn biết sống gắn bó với thiên nhiên, với nhân dân. Qua đó có thể thấy Bác Hồ là một người có tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết và coi thường mọi khó khăn gian khổ. Có phải vì thế mà sau này, Người đã răn dạy thế hệ sau:

“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”?

Câu thơ thứ nhất và câu thơ thứ hai nói về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của Người chiến sĩ cách mạng để rồi đến câu thơ thứ ba, Bác viết về những công việc trong công cuộc hoạt động cách mạng của mình:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Từ láy “chông chênh” gợi tự thế không vững chãi, không bằng phẳng, không ổn định. Bàn đá chông chênh hay cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho cuộc cách mạng của nhân dân ta thời kì đầu rất khó khăn, gian khổ. Đồng thời đó cũng là một hình ảnh có thực về hòn đá được Người chọn làm nơi làm việc bên con suối trong vắt được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Có thể thấy cuộc sống sinh hoạt đã đạm bạc, nghèo khó, cuộc sống làm việc lại càng thiếu thốn hơn. Bác Hồ hiện lên vừa như một người khách lâm tuyền, vừa là một chiến sĩ cách mạng vĩ đại.

Bài thơ kết lại với câu thơ nêu cảm nghĩ của Bác về cuộc đời Cách mạng:

“Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Câu thơ được viết bằng kiểu câu cảm thán dùng để khẳng định: cuộc đời cách mạng sang. “ Sang” là sự giàu có, là tinh thần của một tâm hồn luôn tìm thấy sự thư thái giữa thiên nhiên. “ Sang” cũng còn là sự sang trọng, giàu có của một con người luôn tự thấy mình sống có ích cho cách mạng, cho nhân dân.

Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, giọng thơ gần gũi, ngôn ngữ thơ giản dị, “ Tức cảnh Pác Bó” như một bức tranh tốc kí với những đường nét rất đỗi thanh sơ, chất phác và mộc mạc về cuộc sống sinh hoạt và làm việc của vị lãnh tụ vĩ đại nói riêng cũng như những chiến sĩ cách mạng nói riêng những năm đầu cuộc kháng chiến đầy gian nan và thử thách. Từ đó giúp cho thế hệ sau hiểu hơn về giá trị của sự sống hòa bình mà ngày nay ta đang có, biết sống và học tập để trở thành người có ích cho xã hội, góp phần dựng xây và gìn giữ quê hương đất nước.

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng vĩ đại mà còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Những tác phẩm người để lại có giá trị rất lớn đối với nền văn học Việt Nam. Tiêu biểu nhất có lẽ là bài thơ Tức cảnh Pác Pó.

Sinh thời Hồ Chí mInh không có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương, Bác cũng không nhận mình là nhà văn, nhà thơ. Chỉ đơn giản, Người thích văn, thơ, Người nhận ra rằng văn thơ cũng có thể trở thành vũ khí chiến đấu. Người từng viết:

"Ngâm thơ ta vốn không ham

Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do".

Quan điểm sáng tác của Bác rất đặc biệt, Bác xem văn nghệ là vũ khí, nghệ sĩ là vũ khí chiến đấu, văn chương cần phục vụ cách mạng. Sự nghiệp sáng tác của Bác nổi bật nhất ở ba thể loại: văn chính luận, truyện và kí, thơ ca.

Có thể nói, sự nghiệp sáng tác văn thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh chính là di sản văn hoá vô giá, rất nhiều tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng mỗi người Việt Nam. Những tác phẩm ấy chứa đựng giá trị truyền thống và hiện đại là kết tinh của dân tộc và của nhân loại.

"Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang".

Tức cảnh Pác Pó ra đời sau khi Bác Hồ trở về nước với hơn ba mươi năm bôn ba khắp năm châu bốn bể. Lúc này tình hình trong nước và thế giới rất phức tạp, Bác đã về nước và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã chọn hang Pác Pó (Cao Bằng) là nơi ở và làm việc của mình. Tuy sống trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn và khổ cực, nhưng người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn vui vẻ, lạc quan yêu đời. "Đối với Nguyễn Ái Quốc và các bạn chiến đấu của Người, những ngày tháng ở Pác Pó tựa như những ngày vui bất tận, rực rỡ sắc màu của cảnh chờ đợi những chuyển biến vĩ đại". Được sống giữa thiên nhiên đất trời, người tức cảnh sinh tình, sáng tác bài thơ Tức cảnh Pác Pó.

Ngay ở tên của tác phẩm, Bác cũng đặt tên là "Tức", ở đây có nghĩa là thấy cảnh đẹp liền nảy sinh thơ, hoàn toàn không có sự chuẩn bị, đó là những câu thơ ngẫu hứng sau những giờ làm việc. Bài thơ là một tâm thế thoải mái, ung dung tự tại.

"Sáng ra bờ suối tối vào hang"

Mở đầu tác phẩm là những hình ảnh đối lập "sáng" và tối, "ra" và "vào" "bờ suối" và "vào hang". Câu thơ đã cho ta thấy đó là nhịp sống thường ngày của Bác trong những ngày sống tại hang Pác Pó. Câu thơ cũng tái hiện nơi sống và làm việc của Người. Một nơi thật khó khăn, thiếu thốn, nhưng tâm thế của Bác coi đó là sự hưởng thụ, an nhàn.

"Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng"

Ở câu thơ thứ hai, là hình ảnh bữa cơm giản dị của Người. Chúng ta bắt gặp hình ảnh măng trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao".

Có thể thấy sự tương đồng giữa Bác và Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là những món ăn dân dã, giản dị, một cuộc sống tự cung, tự cấp. Ấy vậy mà người chiến sĩ cách mạng dùng từ "sẵn sàng", dường như đối với Bác, việc ăn những món ăn ấy là một thú vui, sự thích nghi với hoàn cảnh, khắc phục khó khăn, đó là một tư thế chủ động, tinh thần lạc quan. Người biết rằng, lúc bấy giờ đồng bào ta còn nghèo, nhiều nơi nhân dân còn đói, việc ăn cháo và măng đối với Bác cũng là điều hiển nhiên, không ca thán.

"Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng"

Những tưởng một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, nơi làm việc của Người phải là nơi văn phòng sang trọng, sạch sẽ. Ấy vậy mà nơi làm việc của một Chủ tịch nước lại là chiếc "bàn đá chông chênh". Từ láy "chông chênh" cho thấy điều kiện làm việc thiếu thốn, tạo cảm giác bấp bênh, không bằng phẳng, tạo sự khó khăn. Trái ngược với hình ảnh thiếu thốn ấy, nơi chiếc bàn đá ấy đã viết ra biết bao nhiêu quyết định, những hướng đi mới cho cách mạng Việt Nam. Câu thơ miêu tả điều kiện làm việc thiếu thốn của Bác đồng thời nói lên công việc người làm "dịch sử Đảng" - đó là một tài liệu vô cùng quan trọng đối với các cán bộ cách mạng. Tuy sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, nhưng sự lạc quan luôn luôn có trong con người Bác.

"Cuộc đời cách mạng thật là sang".

Bài thơ kết thúc bằng chữ "sang", một vị lãnh tụ ngồi giữa thiên nhiên, vạch ra những con đường đi giải cứu cả một dân tộc thoát khỏi cảnh lầm than. Được cống hiến sức mình phục vụ cho nhân dân là một niềm hạnh phúc đối với Bác. Người không quản ngại khó khăn, gian khổ mang lại độc lập cho dân tộc. Đưa ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi những kiếp người đang sống trong cảnh tăm tối. Từ "sang" phần nào bộc lộ phong thái ung dung, lạc quan, yêu đời của Bác. Người không cần một chỗ làm việc sang trọng, việc đứng trong hàng ngũ của Đảng chiến đấu là một niềm vinh dự, trên thế giới thật hiếm có ai "sang" theo kiểu của Bác.

Bài thơ là sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại, ngôn từ hàm súc, giàu sức gợi hình, nhân vật trữ tình có phong thái ung dung hoà mình vào thiên nhiên, nhưng đề tài của Bác gắn liền với tính thời sự và cách mạng. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ. Chính sự ung dung, tinh thần sẵn sàng, vững vàng tạo nên cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ với đất nước, dân tộc. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, chúng ta đã hiểu thêm về một giai đoạn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác. Vượt lên mọi khó khăn, Người tin tưởng vào sự nghiệp thắng lợi của cách mạng. Thơ của Bác vừa giản dị, lại đầy ý nghĩa sâu xa, vừa đậm chất cổ điển, vừa mang hơi hướng thời đại. Tức cảnh Pác Pó là đại diện của hồn thơ đó.

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 4

Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Hồ Chí Minh - một vị lãnh tụ vĩ đại và cũng là một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với hình ảnh của chính mình - người chiến sĩ cách mang trong cuộc kháng chiến, Bác đã mang đến cho bạn đọc góc nhìn, khía cạnh vô cùng lạc quan trong hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh cuộc sống của Bác ở Pác Bó:

“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”

“Sáng ra - tối vào” là những hành động lặp đi lặp lại, thường xuyên liên tục hằng ngày của Bác như một vòng tuần hoàn tự nhiên. Câu thơ cho ta thấy nơi ở gắn với hành động ra vào của Bác là chiếc hang. Điều kiện sống vô cùng vất vả, khó khăn, gian khổ, vì sự nghiệp cách mạng của nước nhà mà Người phải ở trong hang với nhiều mối đe dọa nguy hiểm. Vị lãnh tụ của chúng ta không ăn sơn hào hải vi, hàng ngày Bác gắn bó với cháo, măng. Đây là những món ăn giản dị, mộc mạc gắn liền với miền quê cách mạng. Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng Người vẫn luôn lạc quan, vui vẻ đón nhận.

Cuộc sống tuy có khó khăn là thế nhưng không ảnh hưởng được đến sự chuyên tâm của Bác dành cho cách mạng:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Giữa núi rừng Pác Bó có một vị lãnh tụ ngồi nghiên cứu con đường cứu nước bên bàn đá chông chênh. Chúng ta thường biết đến các cuộc họp Đảng, bàn luận chiến thuật ở nơi mặt trận hoặc ở trung tâm hội nghị, nghiêm trang, lộng lẫy. Nhưng đối với Bác Hồ, việc nghiên cứu con đường cứu nước của người được thực hiện ở nơi rừng núi, vách đá cho thấy sự khác biệt đáng trân trọng của vị lãnh tụ này. Cả cuộc đời Bác gắn liền với cách mạng, với con đường cứu nước. Dù cho điều kiện ngoại cảnh, điều kiện kháng chiến có vất vả, gian khổ, khó khăn thế nào thì lí tưởng, suy nghĩ cao đẹp của Người cũng khiến cho cuộc đời Bác trở nên cao đẹp và “sang” hơn bất cứ khi nào hết. Bài thơ cho ta cách nhìn rõ nét hơn về cuộc đời, con người cũng như những khó khăn mà Bác phải trải qua để thêm yêu thương, ngưỡng mộ Bác và trân tọng nền độc lập, tự do mà ta đang được hưởng.

Cuộc sống của Bác hiện lên vô cùng giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng tươi đẹp, lạc quan. Trong những hoàn cảnh khó khăn, éo le nhất, Bác vẫn biết cách khiến cho cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 5

Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Thơ tứ tuyệt thường ngắn gọn, hàm súc nên muốn hiểu ý thơ, trước hết chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ.

Tháng 6 – 1940, tình hình thế giới có nhiều biến động lớn. Thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lúc này, Bác đang hoạt động bí mật ở Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc). Tháng 2 năm 1941, Bác về nước và chọn Pác Bó làm căn cứ để từ đây trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Hoàn cảnh sống của Bác lúc này vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Trời rét, sức khỏe yếu nhưng Bác phải ở trong cái hang nhỏ ẩm ướt, tối tăm. Ăn uống hết sức kham khổ, thức ăn hằng ngày phần lớn là cháo bột ngô và măng rừng. Bàn làm việc của Bác là một phiến đá ven suối.

Nhưng thiếu thốn, gian khổ không làm Bác bận lòng. Bác dành trọn tâm huyết để lãnh đạo phong trào cách mạng nên quên hết mọi gian nan; một mực phấn chấn, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Ba câu đầu của bài thơ tả cảnh sống và làm việc của Bác. Câu thứ nhất nói về nơi ở, câu thứ hai nói về cái ăn, câu thứ ba nói về phương tiện làm việc. Câu thứ tư đậm chất trữ tình, nêu cảm tưởng của Bác về cuộc sống của mình lúc bấy giờ. Trong hiện thực gian khổ, khó khăn, tâm hồn Bác vẫn ngời sáng một tinh thần cách mạng.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Cái hang Bác ở có tên là hang Cốc Bó, chỉ khoảng hơn một mét vuông dưới đáy là tương đối bằng phẳng, đủ kê một tấm ván thay cho giường. Vách hang chỗ lồi cao, chỗ lõm sâu, không khí lạnh lẽo, ẩm thấp. Trước cửa hang là dòng suối nhỏ chảy sát chân ngọn núi. Bác đặt tên là suối Lênin và núi Mác. Bàn làm việc của Bác là phiến đá kê trên hai hòn đá và một hòn đá thấp hơn làm ghế cũng ở gần bờ suối.

Không gian sinh hoạt của Bác chia làm hai phần: một là hang, hai là suối. Hành động cũng chia hai: ra suối, vào hang. Thời gian biểu hằng ngày đều đặn: sáng ra, tối vào. Sáng ra bờ suối là để làm việc, tối vào hang là để nghỉ ngơi. Sự thật gần như chỉ có thế. Thực ra chất thơ giấu trong âm điệu, vẫn là nhịp 4/3 hay 2/2/1 /2 của câu thơ Đường luật bảy chữ, nhưng lồng vào trong đó là cái đều đặn, khoan thai như nhịp tuần hoàn của trời đất. Sáng rồi tối, tối rồi sáng; ra rồi vào, vào rồi ra... đơn giản, quen thuộc mà bền vững, ung dung.

Cái gian khổ của hoàn cảnh sống, sự hiểm nguy do kẻ thù luôn rình rập... tất cả đều như lặn chìm, tan biến trước phong thái an nhiên, tự tại của Bác Hồ:

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Bữa cơm đơn sơ, đạm bạc, quanh quẩn chỉ có cháo ngô và măng đắng, măng nứa, rau rừng... hết ngày này sang ngày khác, vẫn sẵn sàng nghĩa là các thứ đó luôn luôn có sẵn xung quanh. Mặt khác, cháo bẹ, rau măng còn gợi nhớ tới cảnh sống an bần lạc đạo của người xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

hoặc:

Trúc biếc, nước trong ta sẵn đó

(Nguyễn Trãi)

Sự thiếu thốn đã được thi vị hóa thành phong lưu. Xưa là ước lệ, tượng trưng, nay hoàn toàn là sự thật. Chỉ phớt qua một chút xưa là câu thơ đậm đà thêm ý vị.

Nhưng ý vị nhất vẫn là giọng điệu thơ. Cháo bẹ, rau măng cũng như Sáng ra, tối vào là nhịp điệu an nhiên, khoan hòa bên trong. Ba chữ vẫn sẵn sàng nâng câu thơ lên thành một lời bình phẩm với giọng điệu lạc quan, gần như tự hào, nghĩa là an nhiên, tự tại ở mức cao hơn.

Hai câu thơ đầu tả thực, câu thơ thứ ba vừa tả thực vừa trữ tình, ở trên chưa có bóng dáng con người thì đến đây, con người đã hiện ra sống động và có hành động rõ ràng:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Nếu trong cụm từ vẫn sẵn sàng mới thấp thoáng một chút vui thì đằng sau tính từ chông chênh đã là một nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy. Chông chênh vốn nghĩa là không vững, không có chỗ dựa chắc chắn. Chiếc bàn đá của Bác quả là chông chênh thật vì nó chỉ là một phiến đá. Đó là thứ bàn làm việc bất đắc đĩ. Nhưng hàm ý của từ chông chênh không nhằm nói tới đặc điểm của cái bàn đá cụ thể mà là ẩn dụ về tình thế muôn vàn khó khăn của cách mạng nước ta và cách mạng thế giới lúc bấy giờ. Năm ấy, phe phát xít đang thắng ở khắp các mặt trận. Vậy mà trong cái thế chông chênh đó, Bác Hồ vẫn bình tĩnh dịch sử Đảng (lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, viết bằng tiếng Nga) cho cán bộ ta nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm phong phú, quý báu để vận dụng vào thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc.

Việc làm này của Bác có tác dụng đặt nền móng về mặt lí luận cho cách mạng Việt Nam. Đấy là một điều hết sức cần thiết. Đem đối lập tính chất nghiêm túc, quan trọng của công việc với cái vẻ đơn sơ, chông chênh của bàn đá, mới nghe tưởng chừng có chút hài hước, đùa vui nhưng kì thực lại mang ý nghĩa cách mạng thật lớn lao.

Nhớ lại thời gian đó, cả thế giới đang đứng trước nguy cơ chìm đắm trong thảm họa phát xít. Vậy mà Hội nghị Trung ương Đảng ta lần thứ VIII (tháng 5 – 1941) vẫn khẳng định rằng cách mạng trong nước sẽ thắng lợi. Đó chẳng phải là trong chông chênh tình thế mà Bác vẫn khẳng định thắng lợi chắc chắn của sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc hay sao? Đó là tầm nhìn chiến lược, tầm suy nghĩ sáng suốt của một lãnh tụ tài ba.

Lắng nghe giọng điệu câu thơ mới thấy thật rõ. Ở nhịp bốn (Bàn đá chông chênh) âm thanh tuy có phần trúc trắc (ba thanh bằng, một thanh trắc), gợi liên tưởng đến tình thế nguy hiểm; nhưng ở nhịp ba (dịch sử Đảng), trái lại, âm thanh rắn, khỏe, (ba thanh trắc) tỏ rõ ý chí kiên quyết chiến đấu và tin tưởng. Câu thơ toát lên một tư thế chủ động, vững vàng trước mọi nguy nan của Bác, điểm thêm một nụ cười thanh thoát, cao vời.

Người xưa khi bất đắc chí thường lánh về chốn núi rừng để vui thú lâm tuyền cho khuây khỏa tâm hồn, nhưng Bác lại khác. Bác đến với núi rừng không phải với mục đích ở ẩn mà là để mưu tính cho từng bước đi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Xưa, trong những ngày lánh mình ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã thi vị hóa cuộc sống đạm bạc của mình:

Côn Sơn có suối nước trong,
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.
Côn Sơn có đá tần vần,
Mưa tuôn đá sạch ta nằm ta chơi.

Nay, Bác Hồ làm việc trong cảnh:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Trong bóng dáng của vị tiên bên suối là cốt cách của một lãnh tụ cách mạng kiên cường.

Nếu ở ba câu thơ đầu, niềm vui, niềm tự hào còn ẩn chứa bên trong thì đến câu thơ kết, niềm vui ấy đã bộc lộ rõ ràng qua từ ngữ, tiết tấu và âm hưởng. Cái nghèo nàn, thiếu thốn vật chất đã được chuyển hóa thành cái giàu sang tinh thần. Bác đánh giá hiện thực ấy với nụ cười hóm hỉnh, thâm thúy của một triết nhân:

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Như vậy, suối không chỉ là chỗ làm việc, hang không chỉ là chỗ nghỉ ngơi mà hang còn mở ra phía suối, tạo nên không gian thoáng đãng, đủ chỗ cho nhịp sống của con người hoà vào nhịp của đất trời. Gian nan, vất vả cũng như tan biến vào cái nhịp tuần hoàn, thư thái ấy. Cháo bẹ và rau măng là kham khổ, nghèo nàn, nhưng đã được nâng lên thành cái sẵn sàng, đầy đủ, thành một thoáng vui. Đến việc dịch sử Đảng trên bàn đá chông chênh thì đã lồng lộng cái thế vững chắc của tiến trình cách mạng giữa gian nguy. Cuộc đời cách mạng thật là sang!Tinh thần của bài thơ tụ lại cả ở từ sang này. Niềm tin, niềm tự hào của Bác tỏa sáng cả bài thơ.

Chính sự ra vào ung dung, tinh thần vẫn sẵn sàng, khí tiết, cốt cách vững vàng trong tình thế chông chênh đã làm nên cái sang, cái quý trong cuộc đời của con người một lòng một dạ phấn đấu hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và nhân loại bị áp bức trên toàn thế giới.

Bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đã giúp chúng ta hiểu thêm về một quãng đời hoạt động của Bác Hồ. Vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, Bác vẫn sống ung dung, thanh thản và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh đó, bài thơ còn là bài học thấm thía về thái độ sống và quan điểm sống đúng đắn, tích cực của một chiến sĩ cộng sản chân chính.

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 6

Thú lâm tuyền đã từng xuất hiện trong thơ ca của các nhà nho xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và niềm vui thú khi được sống cùng thiên nhiên đó cũng xuất hiện trong thơ ca Hồ Chí Minh, tiêu biểu là bài thơ "Tức cảnh Pác Bó":

"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang".

Bài thơ này được Bác viết vào tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về để lãnh đạo cách mạng Việt Nam một cách trực tiếp với mục đích nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức.

Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt - Trung, đó là hang Pác Bó. Con suối cạnh hang Pác Bó được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Ngày ngày, nhịp sinh hoạt của Bác cứ diễn ra đều đặn, sáng sớm Bác ra bờ suối làm việc, tối đến Bác vào trong hang để nghỉ ngơi. Và khi nhắc đến chỗ ở, khung cảnh sinh hoạt thường ngày của mình, Bác đã dùng một giọng điệu thơ hết sức vui tươi xen lẫn sự hóm hỉnh: "Sáng ra bờ suối, tối vào hang"

Nhịp thơ 4/3 cùng với phép đối "sáng" - "tối", "ra - vào" đã cho chúng ta thấy được nếp sinh hoạt nhịp nhàng, đều đặn của Bác. Không gian sinh hoạt của Người được diễn ra ở hai địa điểm: hang và suối. Song song với đó là hai hành động "ra bờ suối" , "vào hang" cứ tuần hoàn, nối tiếp nhau như sự tuần hoàn của tự nhiên, tạo vật. Câu thơ chỉ có 7 tiếng ngắn gọn nhưng đã miêu tả được chi tiết hoàn cảnh sống của Bác qua thời gian "sáng" - "tối", hoạt động "ra" - "vào" và địa điểm "bờ suối" - "hang".

Qua giọng điệu thơ dí dỏm, bạn đọc phần nào hình dung được tâm thế chủ động, sống hòa hợp với thiên nhiên của Bác. Chính tâm hồn ung dung, thoải mái đã giúp Bác chiến thắng mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống và làm việc trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nên bữa ăn của Bác cũng hết sức đạm bạc, dân dã: "Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng".

Nhắc đến núi rừng Tây Bắc chúng ta không thể không nhắc đến hai sản vật "cháo bẹ" và "rau măng". Đây là những món ăn quen thuộc có mặt hàng ngày trong bữa ăn của Bác. Cháo ngô, măng rừng đã thay thế cho cơm. "Cháo bẹ", "rau măng" luôn được chuẩn bị đầy đủ để phục vụ cho các bữa ăn của Người. Ngoài ra, chúng ta có thể nhận thấy rằng Hồ Chí Minh đón nhận những điều đó bằng một tâm thế "sẵn sàng" của người chiến sĩ cách mạng không đầu hàng trước mọi hoàn cảnh.

Bác không những không yêu cầu được chăm sóc, phục vụ tốt hơn hay than vãn, phàn nàn về cuộc sống ấy mà ngược lại, Người tỏ ra hoàn toàn vui vẻ và thích ứng với hoàn cảnh gian khổ. Trong khi đất nước bị xâm lược, cuộc sống nhân dân điêu đứng, lầm than, Bác không thể chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình mà Bác nghĩ cho toàn thể nhân dân, dân tộc.

Nếu phiến đá bên bờ suối Lê-nin gợi ra sự không cân bằng, nhấp nhô, khập khiễng bao nhiêu thì quyết tâm làm việc của Bác lại cứng rắn, quyết liệt bấy nhiêu. Công việc của Bác cần có sự tập trung cao độ. Ta có thể hình dung Bác dịch cuốn "Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô" để làm tài liệu học tập cho các cán bộ cách mạng lúc bấy giờ trên bàn làm việc không được cân bằng do từ láy tượng hình "chông chênh" gợi ra.

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi, Người đã thấy rằng: "Cuộc đời cách mạng thật là sang". Được mang sức lực của mình phục vụ cho nhân dân, đất nước là một niềm hạnh phúc đối với Hồ Chí Minh. Bác không quản ngại khó khăn, gian truân để cống hiến, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc. Lý tưởng cách mạng đã soi sáng cho con đường của người chiến sĩ cộng sản. Từ "sang" đã phần nào bộc lộ phong thái ung dung, lạc quan, yêu đời của Bác.

Bác không cần một chỗ ở sang trọng, những bữa ăn đầy đủ cá thịt hay cần một chiếc bàn làm việc bằng phẳng. Điều Bác cần là được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản, chiến đấu để mang lại cuộc sống hòa bình, no ấm cho nhân dân. Chắc có lẽ trên thế giới hiếm có ai "sang" theo kiểu của Bác. Bằng tinh thần yêu nước sâu sắc, Bác Hồ đã luôn khắc phục, vượt lên trên hoàn cảnh để cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Ba câu đầu của bài thơ thiên về tả cảnh, chỉ đến câu thơ cuối Bác Hồ mới bộc lộ tâm trạng nhưng dường như nụ cười vui tươi vẫn thấp thoáng sau mỗi câu thơ của Người. Nó đã đẩy lùi đi tất cả những khó khăn, nguy hiểm và tiếp thêm tinh thần cho Bác, một tinh thần "thép" giữa hoàn cảnh sống và làm việc thiếu thốn, gian khổ.

Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt cùng với cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo nên nhịp điệu thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng thơ hài hước, hóm hỉnh đã cho thấy tinh thần lạc quan, sự ung dung trong hoàn cảnh đầy khó khăn của người chiến sĩ cộng sản. Đối với Bác, không có niềm vui nào lớn hơn là niềm vui làm cách mạng, mang lại độc lập cho dân tộc và sống hòa hợp với thiên nhiên.

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 7

Hồ Chí Minh là một nhà chính trị quân sự tài ba, một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỉ XX. Bài thơ "Tức cảnh Pác Pó" được Bác sáng tác vào tháng 2 năm 1941, tại Pác Pó (Cao Bằng). Qua bài thơ, chúng ta thấy được tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Người trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ. Có thể nói, tác phẩm là một bức chân dung tự họa của người chiến sĩ cộng sản.

Bài thơ được viết trong hoàn cảnh sau ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài, đến đầu năm 1941, Bác trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã sống và làm việc tại hang Pác Pó (Cao Bằng) trong một điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn, gian khổ.

Thế nhưng, khi phải đối diện với hoàn cảnh đó, Bác Hồ vẫn vui vẻ, lạc quan, tràn đầy tinh thần làm việc cách mạng hăng say bởi Bác đang được sống và làm việc ngay trên mảnh đất quê hương, đang trực tiếp dẫn dắt cả dân tộc ta tiến lên giành lấy ngọn cờ độc lập, hòa bình của đất nước. Trước hết hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về cuộc sống của Bác ở Pác Pó – một cuộc sống khó khăn, thiếu thốn:

Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Chỉ hai câu thơ rất ngắn gọn, gồm có mười bốn chữ cái nhưng nhà thơ đã gợi mở ra một không gian – thời gian sống, làm việc rất cụ thể, rõ ràng: nơi ở trong hang núi, nơi làm việc thì bên bờ suối và thức ăn là cháo bẹ, rau măng. Cách ngắt nhịp 4/3 thường thấy của thể thơ tứ tuyệt, kết hợp với lời thơ cân đối (sáng – tối, ra – vào, ra suối – vào hang) đã cho thấy một nếp sống sinh hoạt và làm việc rất đều đặn, trở thành một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt của Bác:

"Cháo bẹ" (cháo ngô), rau măng (măng nứa, măng tre, măng rừng) thật đạm bạc, đều là những thức ăn đơn sơ có sẵn của thiên nhiên núi rừng. Nhưng Bác không hề cảm thấy khắc khổ mà ngược lại thấy rất thoải mái, ung dung: "vẫn sẵn sàng". Từ "vẫn" đã cho thấy sự tương phản hoàn toàn giữa một bên là sự thiếu thốn về vật chất với một bên là tinh thần thanh thản, lạc quan trước hoàn cảnh đó.

Ta đọc ở đây một nụ cười kín đáo hồn nhiên rất giản dị, chân thành, khiến người đọc có cảm giác như Bác đang bằng lòng, thích thú và vui sướng với cuộc sống như vậy. Đó là một cuộc sống chan hòa với thiên nhiên, với chốn lâm tuyền của núi rừng bí ẩn. Chẳng thế mà chúng ta luôn thấy, thiên nhiên từ lâu đã trở người bạn "tri kỉ" trong thơ của Người:

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày

Hay:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa...

Cảm xúc, tâm trạng đó của Bác đã làm toát lên ở Người vẻ đẹp thanh cao trong sáng của một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, coi thường vật chất bên ngoài, rất gần với cách sống của những bậc hiền nhân xưa:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Tuy nhiên, nếu người xưa tìm đến thiên nhiên, đến núi non lâm tuyền là để lánh đục tìm trong, thể hiện tâm thế "an bần lạc đạo", là cách để họ di dưỡng tinh thần mà trốn tránh sự đời thì ở Bác dù có hòa mình với vũ trụ, với thiên nhiên hoa lá cỏ cây, trăng gió vẫn hiện lên tư thế của một người chiến sĩ cộng sản yêu nước, thương dân đang trực tiếp tham gia cách mạng cùng với nhân dân:

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.

"Bàn đá chông chênh" vừa là chiếc bàn của thiên nhiên rừng núi, lại vừa là chiếc bàn của lòng người. Bác đã biến phiến đá thông thường của tự nhiên làm thành chiếc bàn kê thật giản dị, đơn sơ cạnh một công việc lớn lao cao cả: "dịch sử Đảng". Với việc sử dụng ba thanh trắc liền kề liên tiếp ở ba tiếng cuối câu thơ thứ ba tạo nên âm hưởng chắc khỏe cho lời thơ, đồng thời thể hiện một tư thế, một tâm hồn, một bản lĩnh cứng cỏi, vững vàng, chắc chắn.

Vì thế, chiếc bàn đá chông chênh kia thực chất là hình ảnh ẩn dụ để chỉ "tấm lòng vững như bàn thạch của người cách mạng đã nhìn đá ra bàn..." (Chế Lan Viên). Câu thơ đã dựng lên hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong một tư thế uy nghi, sừng sững, thật lớn lao trong một không gian rừng núi yên tĩnh. Và Bác hiện lên như một ông tiên giáng trần đang đọc sách và thưởng ngoạn cảnh núi non lâm tuyền ở Pác Pó.

Khép lại bài thơ, lời thơ thẳng thắn, nhẹ nhàng, chất chứa một nụ cười lạc quan: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Chỉ cần nhắc tới hai tiếng "cách mạng" thôi là chúng ta đã cảm thấy sự hiểm nguy, vất vả và gian khó như thế nào. Vậy mà Bác lại cảm thấy việc làm đó "thật là sang".

Phải chăng cái "sang" mà Bác nói tới ở đây là vì giờ đây Bác đang được sống với thiên nhiên núi rừng Pác Pó, nơi quê hương Việt Nam yêu dấu mà suốt cả cuộc đời Người muốn đấu tranh để bảo vệ nó, và cao hơn, cái "sang" của công việc làm cách mạng đó là ý nghĩa, mục đích tôn chỉ cao đẹp mà Bác làm là: cứu dân, cứu nước, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân.

Bởi cả cuộc đời Bác đều dành trọn cho cách mạng vì nước, vì non. Ta đọc trong câu thơ là một tấm lòng rộng mở, một nhân cách vĩ đại, lớn lao ở Người:

Bác ơi! tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người.

Bài thơ được viết theo thể thơ tứ tuyệt, có sự kết hợp giữa chất cổ điển và tinh thần hiện đại, giọng điệu dí dỏm, vui tươi, ngôn từ dễ hiểu, giản dị, hình ảnh đời thường mộc mạc... tất cả đã làm nên thành công của tác phẩm. Khép lại trang thơ, người đọc thấy được một tinh thần lạc quan, một phong thái ung dung thanh thản, một bản lĩnh thép cứng cỏi, phi thường vượt lên trên gian khó và luôn mang trong mình trái tim nhân hậu, bao dung: yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc ở Hồ Chí Minh.

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 8

Tinh thần lạc quan, ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh sống là nét đặc điểm nổi bật trong tính cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần đó đã trở thành một vũ khí để chiến đấu và chiến thắng mọi gian khó và kẻ thù. Thơ tức là người, thơ Bác thể hiện rõ phẩm chất cách mạng cao quý của người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được sáng tác tháng 2 năm 1941 ở núi rừng Pác Bó là một trong rất nhiều bài thơ mang đậm phong cách ấy của Bác:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Thời gian này Bác về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện sống rất kham khổ: “Cháo bẹ rau măng”, làm việc thiếu thốn “bàn đá chông chênh”, bài thơ tràn ngập niềm vui và dí dỏm của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để hướng tới một mục tiêu cao cả, đó là sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Mở đầu bài thơ tứ tuyệt, Bác viết: Sáng ra bờ suối, tối vào hang. Câu thơ gọn gàng, súc tích, chỉ có bảy chữ mà có cả thời gian, hành động. Thời gian là “sáng”, “tối”, không gian là “bờ suối”, “hang” và trên nền của thời gian, không gian ấy xuất hiện bóng dáng của một người đang miệt mài làm việc.

Cái từ ngữ chỉ hành động “sáng ra”, “tối vào” gợi cho ta sự liên tưởng ấy. Điểm sáng của câu thơ ở chỗ tác giả rất chú ý đến trật tự của hai vế câu. Nếu nói: “tối vào hang, sáng ra bờ suối” thì trật tự này tạo nên giá trị biểu nghĩa khác. Chất lạc quan vốn là bản tính của con người gang thép ấy nên trật tự tất yếu của câu thơ phải là: Sáng ra bờ suối, tối vào hang.

Với trật tự này, cảnh như vận động, không đứng yên, theo quy luật tuần hoàn của thời gian. Vì vậy, ta không lấy làm lạ khi bắt gặp thái độ “vẫn sẵn sàng” của Bác ở câu thơ kế tiếp: Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng. Thơ nói về một khí phách, một thái độ, một nhân sinh quan mà lời thơ vẫn dung dị như lời nói hàng ngày. Đặc điểm của thơ tứ tuyệt là câu, chữ hết sức tiết kiệm và một bài thơ hay đã bật lên được “chữ thần”. Cụm từ “vẫn sẵn sàng” là điểm sáng của bài thơ.

Câu thơ làm ta liên tưởng đến triết lí sống của người quân tử ngày xưa, “quân tử ăn chẳng cần no”. Bác sẵn sàng chấp nhận cuộc sống vật chất kham khổ với thái độ vui đùa, cười cợt. Bác coi thường cái gian khổ thậm chí cả những khi thân xác bị đọa đày đau xót, người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn đùa cợt, dí dỏm.

Những bài thơ “Pha trò”, “Ghẻ”, “Dây trói”… trong “Nhật kí trong tù” là thái độ ung dung tự tại trước những hoàn cảnh khắc nghiệt với lời thơ hóm hỉnh bất ngờ. Khác với người xưa: “an bần lạc đạo”, Bác Hồ là con người lao động, luôn luôn hành động vì một lí tưởng cao cả: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn những tiện nghi cần thiết, mượn đá làm bàn, bàn đá lại “chông chênh”, chi tiết vui, ngộ và đó là một sự vật. Trong cách nhìn sự vật. Bác thường phát hiện những chi tiết ngộ nghĩnh, điều đó biểu hiện một tâm hồn lạc quan. Bài thơ kết thúc: Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Ngôn ngữ thơ bình dị mà ý thơ thì lớn lao. Nếu điểm sáng của hai câu thơ đầu là thái độ “vẫn sẵn sàng” thì sức nặng của bài thơ được dồn vào câu kết, đặc biệt với cụm từ “thật là sang!”. Đây cũng là một cách nói vui, nói quá lên, chất hài hước đó ta thường gặp trong thơ và trong cuộc sống đời thường của Bác. Chất hài hước này làm cho bài thơ gợi lên niềm lạc quan cách mạng sáng ngời.

Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” là một bài thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ thể hiện một đạo lí sống cao đẹp nhưng lời thơ tự nhiên, không một chút vẽ vời hoa mĩ. Giọng điệu thơ rất gần với cách nói hàng ngày, ta có cảm giác Bác không cố ý làm bài thơ nhưng nó cứ đọng lại mãi trong tâm trí ta, sức sống lâu bền của bài thơ chính là chỗ đó.

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 9

Trong tim mỗi con người Việt Nam ta không bao giờ có thể quên được những cống hiến, hi sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc mình. Bác không chỉ dạy chúng ta sống ở trên đời sao có ích, Bác còn để lại nền văn học Việt Nam ta những bài thơ hay đặc sắc. Tiêu biểu trong những bài thơ ấy phải kể đến bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Người.

Ba câu thơ đầu thể hiện được cuộc sống sinh hoạt của Hồ Chí Minh ở Pác bó. Nơi đây không có những món ngon vật lạ, không trang hoàng lộng lẫy như phủ chúa xưa mà nơi đây chỉ có những món ăn thiên nhiên luôn sẵn có:

Sáng ra bờ suối tối vào hang

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Buổi sáng thức giấc, Người ra bờ suối trong lành, tối Người lại trở về hang sâu. Nơi đây Người làm bạn với thiên nhiên, ăn ở với thiên nhiên hòa mình vào thiên nhiên mà sống chan hòa. Thức ăn hàng ngày của một vị lãnh tụ là cháo bẹ và rau măng. Những thứ ấy không xa xỉ nhưng luôn sẵn có.

Điều đó cho thấy được sự thanh cao đạm bạc trong cuộc sống của Người. Nơi hang tối ấy Người vẫn không ngừng làm việc để tìm những bước tiến cho cách mạng nước nhà. Chẳng có bàn lim ghế gỗ, Người ngồi trên bàn ghế đá chông chênh để dịch sử Đảng. Ở đây ta thấy được một cuộc sống thanh bình không bom đạn, giản dị nhưng thanh cao, khó khăn mà yên bình không tiếng súng.

Sống trong hoàn cảnh ấy, Người không những không chán nản mà còn cho đó là “sang”: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Đối với Người như vậy là quá sang rồi bởi vì ở ngoài kia Người biết còn có hàng trăm nghìn người không có gì để ăn, những đứa trẻ khát sữa, những người mẹ nhịn đói cho con ăn, những người bà còng lưng gồng gánh, những người lính ăn bữa này nhịn bữa kia.

Bài thơ chỉ vỏn vẹn có bốn câu thôi nhưng đã thể hiện được cuộc sống của Hồ Chí Minh nơi pác Bó. Đồng thời qua đó ta cũng cảm nhận được vẻ đẹp trong nhân cách của Người, giản dị đạm bạc và thanh cao.

Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 10

Sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về tới Pác Bó, Cao Bằng. Giây phút thiêng liêng và cảm động ấy đã được nhà thơ Tố Hữu ghi lại:

Ôi sáng xuân nay, xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về... Im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...

(Theo chân Bác)

Từ đó hang Pác Bó đã trở thành nơi sống và hoạt động bí mật của Người. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó được Bác Hồ viết vào tháng 2 năm 1941 theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang!

Bài thơ phản ánh hoạt động phong phú, sôi nổi, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ.Câu thơ mở đầu gợi lên cuộc sống hoạt động bí mật của nhà thơ vào những ngày đầu mới về nước.

Hai vế tiểu đối đầy ấn tượng: Sáng ra bờ suối / / tối vào hang. Câu thơ có thời gian, không gian và hành động. Thời gian là sáng và tối; không gian là suối và hang; hoạt động là ra và vào. Một hoạt động đã trở thành nề nếp, từ sáng đến tối, từ suối đến hang, ra đến vào. Khi cách mạng còn trứng nước, hoạt động chính trị gây dựng phong trào là chính, còn bí mật và nhiều khó khăn, người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc đã sống và làm việc: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”.

Quy luật vận động ấy thể hiện một tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất chủ động và lạc quan.Câu thơ thứ hai, ba chữ vẫn sẵn sàng có hai cách hiểu khác nhau rất lí thú. Cách hiểu thứ nhất là: Cháo bẹ rau măng nhưng sẵn có, đủ dùng ở nơi suối hang này. Đằng sau vần thơ là nụ cười của một con người sống trong gian khổ khó khăn nhưng vẫn lạc quan yêu đời. Sau này, ý tưởng giàu có hào phóng ấy, được Người nhắc lại trong bài Cảnh rừng Việt Bắc đầu xuân 1947.

Khách đến thì mời ngô nếp nướng,

Săn về thường chén thịt rừng quay.

Non xanh nước biếc tha hồ dạo,

Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say..

.Vẫn sẵn sàng, tha hồ dạo, mặc sức say,... là những cách nói hóm hỉnh và yêu đời.Cách hiểu thứ hai: Mặc dù thiếu thốn khó khăn, phải ăn cháo bẹ rau măng, nhưng tinh thần cách mạng vẫn hăng say, vẫn nhiệt tình. Gian khổ biết bao, nhưng với tinh thần vẫn sẵn sàng, Người vẫn bền bỉ sáng niềm tin nhóm lửa:

Ai hay ngọn lửa trong hang núi

Mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau!.

(Theo chân Bác)

Khác với người xưa công thành, thân thoái, mai danh ẩn tích ở chốn núi rừng, Hồ Chí Minh đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng. Đất nước cần, Bác viết Đường cách mệnh. Phong trào và cán bộ cần, Người dịch sử Đảng. Hình ảnh bàn đá chông chênh không chỉ nói lên khó khăn thiếu thốn chồng chất mà con biểu lộ tinh thần phấn đấu hi sinh vì sự thắng lợi của cách mạng.

Câu cuối bài thơ đọc lên nghe rất thú vị. Một câu cảm thán vang xa:Cuộc đời cách mạng thật là sang! Sang nghĩa là sang trọng, cao sang. Một cách nói, một lối sống, một quan niệm nhân sinh và ứng xử tuyệt đẹp. Vượt lên trên gian khổ, khắc nghiệt là sang. Chỉ có cháo bẹ rau măng, chỉ có bàn đá chông chênh mà vẫn sang.

Sang vì lạc quan tin tưởng về con đường cách mạng đánh Nhật đuổi Tây nhất định thắng lợi. Sang vì lí tưởng, vì đời sống tâm hồn phong phú, vì ung dung tự tại. Nhà thơ Tố Hữu đã có vần thơ rất hay nói về cái sang của Bác Hồ kính yêu:

Mong manh áo vải hồn muôn trượng,

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

(Bác ơi)

Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là tâm hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài tứ tuyệt viết về Pác Bó đã vượt qua một hành trình 60 năm. Nó như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt Nam và của lãnh tụ nơi suối lạnh hang sâu đầu nguồn. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta bài học về tinh thần lạc quan yêu đời, biết sống và hướng về một lí tưởng cao đẹp.

Xem thêm các bài Văn mẫu thuyết minh, phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 8 khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay lớp 8 theo từng phần:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 8

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 8 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 8Những bài văn hay lớp 8 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


tuc-canh-pac-bo.jsp


Giải bài tập lớp 8 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên