50+ Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân (hay, ngắn gọn)



Tổng hợp 50+ Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân hay, chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp học sinh lớp 9 có thêm tài liệu tham khảo từ đó biết cách viết Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân dễ dàng hơn.

50+ Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân (hay, ngắn gọn)

Bài giảng: Cảnh ngày xuân - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân

Quảng cáo

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung đoạn trích:

+ Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên,… sinh ra trong gia đình quyền quý, có học thức, tiếp nhận nhiều văn hóa khác nhau,…).

+ Tác phẩm: Hoàn cảnh ra đời, Truyện Kiều có bốn phần, kể về cuộc đời bất hạnh của nàng Kiều,…

+ Nội dung đoạn trích Cảnh ngày xuân: Bức tranh thiên nhiên của mùa xuân và lễ hội tảo mộ, du xuân của chị em Kiều.

II. Thân bài

1. Bức tranh thiên nhiên của mùa xuân vào lúc sáng sớm

+  Hai câu đầu: chim én đưa thoi, thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Mặc dù đã cuối mùa xuân nhưng vẫn thấy những chú chim én đang bay lượn trên bầu trời, mới đây thôi mà đã bước sang thứ ba rồi, cũng như chỉ thời gian trôi qua nhanh quá,…

+ Hai câu sau: sử dụng hai gam màu xanh và trắng, màu xanh của thảm cỏ non, trắng tinh khôi của hoa lê,… màu xanh bát ngát trải rộng cả vùng trời làm nền để nổi bật màu trắng tinh khôi, trong trẻo của bông hoa lê.

=> Vài bút chấm phá của tác giả làm cho bức tranh thiên nhiên của tác giả sinh động, hấp dẫn hơn,…

2. Bức tranh lễ hội trong tiết thanh minh

+ Tảo mộ đầu năm là để quét dọn, viếng thăm ngôi mộ của người thân.

+ Sử dụng các tính từ, động từ, danh từ: gần xa, nô nức, yến anh, tài tử, giai nhân, ngựa xe, áo quần,… để chỉ sự đông vui, náo nức, nhộn nhịp của lễ hội,..

+ Câu thơ “Ngổn ngang gò đống kéo lên/ Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay". Chỉ một phong tục tập quán của chúng ta là đốt tiền giấy để tưởng nhớ cho người thân đã khuất.

3. Bức tranh lúc chiều tà của con người trong lúc trở về

+ “Tà tà bóng ngả’’ mặt trời đã xuống núi, chỉ còn lại vệt sáng yếu ớt chiếu lên bầu trời.

+ Bước chân thơ thẩn: người ta chỉ dùng từ "thơ thẩn" để chỉ suy nghĩ của con người, nhưng ở đây lại nói bước chân biết thơ thẩn giống như không tự chủ được mà cứ bước đi.

+ “Dòng nước uốn quanh” chỉ sự nhẹ nhàng êm đềm của con suối nhỏ,….

=> Tất cả mọi thứ không còn ồn ào, náo nhiệt như lúc lễ hội mới bắt đầu thay vào đó là một khung cảnh êm đềm, trôi qua nhẹ nhàng,…

III. Kết bài

- Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

- Khẳng định được cái tài của Nguyễn Du: Bằng ngòi bút tài hoa Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên ngày xuân

Quảng cáo

Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 1

Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều? Đoạn thơ Cảnh ngày xuân gồm có 18 câu, từ câu 39 đến câu số 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của đại thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã đem đến cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên thật sống động, tươi đẹp mà đầy sức xuân.

“Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Bốn câu thơ đầu mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên thơ. Giữa bầu trời cao bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như "đưa thoi". Cánh én mùa xuân thật thân mật biết bao. Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi lên sự ấm áp, sự sống căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ “đưa thoi” vừa gợi lên khung cảnh bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Có phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với Xuân Diệu, thời gian trôi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông chênh hơn. Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng nhiên ngắn lại.

Sau cánh én "đưa thoi" là ánh xuân, là "thiều quang" của mùa xuân khi "chín chục đã ngoài sáu mươi". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân của các thi sĩ xưa nay thật ý vị làm sao. Nào là "xuân hướng lão" (Ức trai), nào là cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi, nào là cánh bướm rối rít bay trong thơ Trần Nhân Tông,… còn với Nguyễn Du mùa xuân đã bước sang tháng ba rồi. Làm cho con người ta thấy vấn vương, tiếc nuối khi sắp kết thúc một mùa xuân. “Thiều quang’’ là chỉ ánh sáng của mùa xuân, nó không chói chang như mùa hạ hay yếu ớt của mùa đông mà nó là ánh sáng ấm áp, mang đến sức sống cho muôn loài.

Trong tiết trời tháng ba ấy, nổi bật lên là sắc "xanh" mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như một tấm thảm "rợn chân trời" và sắc "trắng" tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chỉ mới hé lộ, khoe sắc, khoe hương "một vài bông hoa".

Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: "Phương thảo liên thiên bích – Lê chỉ sổ điểm hoa". Hai chữ "trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài bông lê "trắng điểm". Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én "đưa thoi", là màu hồng của ánh thiều quang, là "khát vọng mùa xuân" ngây ngất, say đắm lòng người:

"Nhìn hoa đang hé tưng bừng

Khao khát mùa xuân yên vui lại đến"

(Ca khúc "Khát vọng mùa xuân" – Mô-da)

Quảng cáo

Cảnh mùa xuân là bức tranh mùa xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống mỗi chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này:

"Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi

Tháng giêng hai vút trời bay cánh én…"?

(Ý nghĩ mùa xuân)

Tám câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:

“Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Gần xa nô nức yến anh

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước áo quần như nêm

Ngổn ngang gò đống kéo lên

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.

Trong đám tài tử giai nhân đi trẩy hội mùa xuân có chị em Thúy Kiều. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân"  mới đọc qua tưởng chừng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa hơn nó ẩn chưa bao nỗi niềm: chờ mong, trông đợi ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh đến để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã chuẩn bị, đã "sắm sửa"… Có biết bao bóng hồng xuất hiện trong đám tài tử đó.

Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng các động từ một cách chọn lọc, tinh tế, làm sống lại không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của phương Đông, của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta và nếp sống "phong lưu" của chị em Kiều. Chị em Kiều hòa mình giữa dòng người tấp nập như chim yến anh để dự lễ tảo mộ ở vùng đồng quê. Chị em Kiều vừa đi, vừa thong thả ngắm cảnh chốn đồng quê thanh bình rồi thả thoi tiền giấy bay trong gió. Sử dụng một loạt các từ ghép, từ láy là tính từ, động từ như: gần xa, nô nức, tài tử, giai nhân, dập dìu, hình ảnh so sánh “ngựa xe như nước”, “áo quần như nêm” Nguyễn Du đã miêu tả cuộc du xuân của chị em Kiều trong không khí lễ hội thật rộn ràng, tấp nập. Thông qua cuộc du xuân của chị em Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa một nét truyền thống văn hóa xa xưa. Dù xuân đã muộn nhưng ta vẫn thấy cảnh xuân rộn ràng, nhộn nhịp những nam thanh, nữ tú, tài tử, giai nhân, những đoàn người đông vui như chim én, chim oanh ríu rít, tưng bừng.

Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đang dần bước trở về nhà. Mặt trời đã "tà tà" gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trôi qua nhanh:

"Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dang tay ra về.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cánh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"

Không khí vui tươi, náo nhiệt không còn nữa mà nó đang mờ nhạt dần theo ánh nắng. Trời đã về chiều, mặt trời đã lặn sau chân núi, chỉ còn những ánh sáng yếu ớt của những tia nắng còn sót lại. Các từ láy thanh thanh, nao nao, tà tà, thơ thẩn gợi tả sắc thái của cảnh vật và cũng chính là tâm trạng của con người. Dường như cảnh vật cũng thấu hiểu lòng người, cũng khoác lên mình một màu u buồn. Nguyễn Du sử dụng thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn cảnh vật để nói lên tâm trạng của con người. Một tâm trạng bâng khuâng, thơ thẩn như đang suy nghĩ về một vấn đề nào đó và dự cảm có điều gì đó sẽ xảy ra trong tương lai sắp tới.

Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối với bất kì người Việt Nam nào. Quả thật Cảnh ngày xuân đã biểu hiện một cách tài tình tài năng của đại thi hào Nguyễn Du. Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay của mùa xuân. Người đọc sẽ nhớ mãi không quên những vần thơ đặc sắc như thế.

Quảng cáo

Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2

Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy về ngôn ngữ trong việc miêu tả tâm lý nhân vật mà còn là “họa sĩ” vẽ tranh bằng chữ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trích Truyện Kiều là một ví dụ điển hình. Người đọc phải khâm phục và ngưỡng mộ khả năng quan sát cũng như những nét vẽ tài hoa của Nguyễn Du. Bức tranh ngày xuân hiện lên với những nét đẹp tươi mới, tràn đầy sức sống nhất.

Có thể nói mùa xuân là đề tài bất tận trong thi ca, khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Mỗi người có một cảm nhận riêng về mùa xuân. Đối với Nguyễn Du, mùa xuân gắn với cảnh vật và con người, với những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bao trùm lên cả đoạn thơ này là một bức tranh thiên nhiên đẹp, hữu tình nhưng có nhuốm màu buồn khi ngày đã ngả về chiều hôm.

Những câu thơ đầu được sử dụng với chất liệu ngôn ngữ đẹp như tranh, sự mượt mà của câu chữ đã tạo nên sự mượt mà của cảnh sắc thiên nhiên khi xuân về:

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Một không gian đầy chất thơ, thi vị và hữu tình biết bao nhiêu. Sự rộng lớn của đất trời khi mùa xuân về được diễn tả một cách tinh tế và tràn ngập niềm vui. Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi lên sự ấm áp, sự sống căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ “đưa thoi” vừa gợi lên khung cảnh bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Có phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với Xuân Diệu, thời gian trôi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông chênh hơn. Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng nhiên ngắn lại.

Trong lúc đấy, chỉ với hai nét vẽ Nguyễn Du như vẽ lên trang giấy một bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp tuyệt vời. Nghệ thuật điểm xuyết chấm phá đã được sử dụng dứt điểm, khiến cho câu thơ trở nên mềm mại và căng tràn sức sống hơn. Màu xanh của cỏ non tạo nên sự tươi mới và tinh khiết của đất trời. Từ “rợn” vừa tả cái xa, vừa gợi cái rộng lớn của mùa xuân, của cảnh vật khi xuân về. Nó làm cho câu thơ như được ngân dài ra, bừng sáng lên sức sống tràn đầy. Trên nền xanh của cỏ, của bầu trời có điểm xuyết “một vài bông hoa” trắng tinh khiết. Chính sự điểm xuyết này khiến cho cả bài thơ như bừng lên một sức sống mãnh liệt, khó có thể dập tắt.

Có thể nói với chỉ 4 câu thơ này, Nguyễn Du như người họa sĩ tài hoa vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, có sự giao thoa và hòa quyện giữa đất và trời. Không khí mùa xuân, hương sắc mùa xuân và cả ý vị mùa xuân cứ thế tràn ra trong từng câu thơ đẹp như vậy.

Không khí mùa xuân như tươi đẹp hơn với lễ hội tảo mộ tháng Ba:

Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh

Có lẽ không khí vui tươi, tưng bừng, phấn khởi của con người trong dịp đi tảo mộ thật sự khiến cho người đọc như sống lại với không khí những ngày xuân tươi mới nhất. Con người cũng hiện lên như tô điểm thêm bức tranh ngày xuân tươi đẹp đó:

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước áo quần như nêm

Mùa xuân là dịp để “tài tử giai nhân” được vui chơi, giãi bày tâm sự với nhau. Có vẻ như mùa xuân là thời điểm thích hợp cho chuyện tình yêu nảy nở, cho những yêu thương còn bỏ ngỏ được phép căng trào ra. Hình ảnh “ngựa xe”, “áo quần” gợi lên sự tấp nập, nhộn nhịp và huyên náo. Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng một loạt hình ảnh có tính chất gợi hình, tả ảnh khiến cho người đọc có cảm giác như đang bước vào không khí của mùa xuân.

Ngổn ngang gò đống kéo lên

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay

Những phong tục tập quán khi mùa xuân về, khi được đi tảo mộ đã được Nguyễn Du vẽ lên chân chất, mộc mạc, gợi nhớ và gợi thương. Đó chính là tấm lòng thành kính hướng về quá khứ với một sự biết ơn chân thành nhất. Hai câu thơ này thực sự khiến người đọc xúc động khi nhớ về những người đã khuất, những người tạo dựng nên cuộc sống hiện nay của chúng ta.

Tuy nhiên ở những câu thơ cuối dường như cảnh vật và con người trở nên buồn vã và đìu hiu hơn:

Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nhịp thơ trở nên nhẹ nhàng, trầm bổng khiến cho tâm trạng của con người trở nên nặng nề và buồn rầu hơn. Với từ láy “tà tà” đã phần nào gợi tả thời gian đã xế chiều và không gian dường như tĩnh mịch và ảm đạm hơn. Mỗi bước chân cũng trở nên nặng nề hơn khi màn đêm sắp buông xuống, con người cũng cảm nhận được một nỗi buồn nào đó len vào trong trái tim. Tâm sự của con người như nhuốm vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho nó trở nên tiêu điều và xơ xác hơn.

Có thể nói dù cảnh trong thơ Nguyễn Du buồn hay vui thì vẫn mang phong vị riêng của nhà thơ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một ví dụ điển hình như thế. Bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn ràng, náo nức và có chút buồn phiền được Nguyễn Du khắc họa thành công với sự cảm nhận tinh tế cũng như sự tài hoa trong cách dụng công xây dựng ngôn ngữ.

Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. "Truyện Kiều" của Nguyễn Du là kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Đây là một truyện thơ Nôm gồm 3254 câu thơ lục bát. Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" nằm ở phần đầu của "Truyện Kiều", là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng được gọi lên qua từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du.

Khi miêu tả cảnh ngày xuân , Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp miêu tả lớc lệ . Nhà thơ tả cảnh thiên nhiên mùa xuân, khung cảnh lễ hội và tâm trạng chị em Thúy Kiều khi du xuân trở về.

Trong bốn câu thơ mở đầu, Nguyễn Du đã vẽ nên khung cảnh tuyệt diệu của mùa xuân để lưu truyền muôn đời:

"Ngày xuân con én đưa thoi"

Mùa xuân là mùa khởi đầu cũng là mùa đẹp nhất trong năm. Nguyễn Du thông báo trực tiếp về thời gian đẹp ấy qua hai từ "ngày xuân". Hình ảnh "con én đưa thoi" thật giàu sức gợi. Ta có thể hiểu những cánh én đang chao liệng trên bầu trời như thoi đưa, và chim én là tín hiệu của mùa xuân. Bên cạnh đó, con én đưa thoi còn có thể hiểu là thời gian trôi rất nhanh chẳng khác nào thoi đưa. Nếu hiểu theo cách này, "Ngày xuân con én đưa thoi" không chỉ đơn thuần là câu thơ tả cảnh mà ngầm chứa trong đó bước đi của thời gian.

"Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi"

Nhà thơ đã đưa ra con số cụ thể: mùa xuân có chín mươi ngày mà sáu mươi ngày đã trôi qua, chỉ còn lại vài chục ngày nữa thôi thi mùa xuân sẽ hết. Câu thơ ẩn chứa sự nuối tiếc khôn nguôi của con người trước sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian. Chỉ những người nhạy cảm, biết yêu quý thời gian mới có thể cảm nhận được sự trôi chảy như thế của thời gian.

Trong hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ miêu tả cảnh sắc mùa xuân:

"Cỏ non xanh tận chân trời

Cành là trắng điểm một vài bông hoa"

Chỉ với hai câu thơ, Nguyễn Du đã làm sống dậy một bức tranh xuân căng tràn ngựa sống . Vàu xanh của co tiếp nối vơi nàu xanh của trời như trải ra ngat gần. Đặc biệt trên nền xanh tươi trong trẻo, Nguyễn Du điểm xuyết sắc trắng trong tinh khiết của một vài bông hoa lê. Nhà thơ sử dụng đảo ngữ "trắng điểm" khiến cho màu trắng càng được nhấn mạnh. Hơn nữa, biện pháp đảo ngữ khiến người đọc cảm nhận màu trắng của hoa lê chủ động tô điểm cho bức tranh xuân thêm tuyệt diệu. Hai màu sắc xanh và trắng tưởng chừng như đối lập lại quyện vào nhau, dệt nên một bức tranh mùa xuân tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt. Phải có một tâm hồn nghệ sĩ thì Nguyễn Du mới có cảm nhận tinh tế và cách phối màu độc đáo như vậy. Khi viết hai câu thơ này, Nguyễn Du có tiếp thu hai câu thơ cổ của Trung Quốc:

"Phương thảo liên thiên bích

Lê chi sổ điểm hoa

(Cỏ thơm liền với trời xanh

Trên cành lê có mấy bông hoa)"

Hai câu thơ của Trung Quốc cũng vẽ nên một bức tranh xuân có màu sắc, đường nét. Tuy nhiên, đó là bức tranh tĩnh tại. Câu thơ của Trung Quốc không hề nhắc đến màu trắng của hoa lê. Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh cỏ xanh vài bông hoa lê trắng gợi được về thanh khiết, tinh khôi cho cảnh thiên nhiên mùa xuân. Hai câu thơ tả cảnh thực sự là những câu thơ tuyệt bút.

Sau những cảm xúc say sưa trước vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân, nhà thơ vẽ lên một khung cảnh lễ hội mùa xuân đầy ấn tượng:

"Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh"

Tết thanh minh thường là từ mồng 5 đến mồng 10 tháng 3 âm lịch. Vào những ngày này, khí trời mát mẻ, trong trẻo, mọi người đi tảo mộ tức là đi viếng và sửa sang lại phần mộ của người thân. Đó còn là dịp để mọi người du xuân. "Hội đạp thanh" là lễ hội đạp lên cỏ xanh, thể hiện mong muốn tìm được hạnh phúc trong tương lai. Như vậy, tết thanh minh có phần lễ và phần hội.

Nhà thơ giới thiệu không khí ngày hội:

Gần xa nô nức yến an

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập gia tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm"

Hình ảnh "yến anh" là hình ảnh ẩn dụ, gợi ra từng đoàn người rộn ràng đi chơi xuân như chim én, chim cánh bay từng đàn ríu rít. Trong đoàn người ấy, ai cũng sửa soạn quần áo đẹp đẽ. Người trảy hội đồng nhất vẫn là những nam thanh nữ tú. Nguyễn Du đặt từ láy "dập dìu" trước thành ngữ "tài tử giai nhân" làm cho vẻ đẹp câu thơ tả người tăng lên gấp bội. Ông còn sử dụng biện pháp so sánh "Ngựa xe như nước, áo quần như nêm" vừa gợi ra cảnh xe ngựa chạy không ngừng như nước chảy, người đi bộ đông đúc, vừa tô đậm vẻ đẹp hào hoa, thanh lịch của mọi người tham gia lễ hội. Trong không khí ngày hội, chị em Thúy Kiều và mọi người trong lòng ngập tràn niềm vui và khát vọng. Đó là niềm vui được tự do giao lưu , gặp gỡ với mọi người , được chào đón những cái đẹp của thiên nhiên đất trời.

Sự nhộn nhịp của hội được tô điểm bởi phần lễ:

"Ngổn ngang gò đồng kéo lên

Thoi vàng vỏ rác tro tiền giấy bay"

Những người tảo mộ đang hoàn thành nốt phần tục lệ cuối cùng là đốt hóa tiền vàng để gửi xuống cho người đã khuất. Việc làm này thể hiện niềm tin, sự quan tâm và chia sẻ của người đang sống đối với người đã mất, là sự giao cảm giữa cõi dương và cõi âm. Đó là nét truyền thống trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Có thể nói, trong đoạn thơ của "Cảnh ngày xuân", Nguyễn Du đã làm sống lại một nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc vào dịp tết Thanh minh.

Kết thúc đoạn trích là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về:

"Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"

Bóng mặt trời đang ngả về phía tây, ánh nắng đang dịu dần… Cảnh vật vẫn đẹp, nên thơ, phong cảnh “có bề thanh thanh”. Xưa nay, trong văn chương, cảnh chiều tà thường gợi lên cảm giác buồn. Nguyễn Du cũng tỏ lòng người như vậy. Cuộc du xuân, thưởng ngoạn vừa náo nức, tưng bừng là thế, giờ đã lặng chìm vào cô tịch. Tâm trạng con người không khỏi nuối tiếc, hụt hẫng. Chị em Thúy Kiều đang trở về mà “thơ thẩn” cõi lòng. Từ láy “nao nao” không chỉ tả cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Đó là một cảm giác bâng khuâng, nuối tiếc về một ngày vui đã tàn và linh cảm về một điều gì chẳng lành sắp xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều.

Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Đây là một trong những bức tranh đẹp nhất của Truyện Kiều . Bức họa thiên tài gồm hai mảng màu vừa tương phản vừa hài hòa. Sáng xuân tinh khôi , náo nức và chiều tà bảng lảng gợi những liên tưởng xa xôi về số phận cuộc đời nhân vật chính – Thúy Kiều. Đoạn thơ gợi được bao tình cảm tốt đẹp trong lòng người đọc.

Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 4

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, là một danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO công nhận. Ông có đóng góp to lớn với một khối lượng thơ văn đồ sộ cho dân tộc. Trong những tác phẩm ấy, nổi bật nhất là bài thơ “Truyện Kiều’’. Truyện kiều là bài thơ được viết bằng thể lục bát nói về số phận của những người phụ nữ có số phận bất hạnh, họ phải chịu nhiều tủi nhục và đau đớn. Đồng thời cũng lên án những kẻ ích kỉ hèn mọn chỉ quan tâm đến lợi ích của mình. Đoạn trích “ Cảnh ngày xuân’’ có lẽ là đoạn tiêu biểu nhất về tả cảnh thiên nhiên. Đoạn trích nằm ở phần đầu của truyện kiều. Vào ngày tết thanh minh chị em thúy kiều đi tảo mộ và hiện ra trước mắt người đọc là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tâm trạng của người du xuân khi trở về.

Mở đầu bài thơ hiện ra một bức tranh xuân trong sáng, nhẹ nhàng và tinh khôi:

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Hai câu thơ đầu gợi tả cho ta về không gian và thời gian. Câu thơ “ Ngày xuân con én đưa thoi’’ là câu thơ gợi tả về không gian. Trên nền  trời cao rộng, đàn én lượn qua lượn lại, chao liệng như thoi đưa vào những tháng cuối của mùa xuân. Cũng như chỉ thời gian trôi nhanh giống như những chú én đang vụt bay trên trời xanh. Mùa xuân có chín mươi ngày vậy mà bây đã qua sáu mươi ngày, đã bước sang tháng ba rồi. Làm cho con người ta thấy vấn vương, tiếc nuối khi sắp kết thúc một mùa xuân. “Thiều quang’’ là chỉ ánh sáng của mùa xuân, nó không chói chang như mùa hạ hay yếu ớt của mùa đông mà nó là ánh sáng ấm áp, mang đến sức sống cho muôn loài.

Hai câu thơ sau được tác giả khắc họa tuyệt đẹp với hai màu xanh và trắng. Chữ “tận” mở ra một không gian bao la bát ngát không có điểm dừng. Thảm cỏ non trải rộng đến chân trời là để làm màu nền cho bức tranh mùa xuân. Trên bầu trời xanh ngát ấy xuất hiện màu trắng của vài bông hoa lê. Từ “điểm” tĩnh như không tĩnh, làm cho ta liên tưởng thiên nhiên có tâm hồn, biết làm đẹp giống như một con người. Chỉ một vài màu trắng của hoa lê mà làm câu văn trở nên sống động và nổi bật trong sắc trời mùa xuân. Bằng một vài nét chấm phá, tác giả đã vẽ lên một bức tranh sinh động, hấp dẫn, khiến cho người đọc cảm giác mình đang đứng trước khung cảnh của mùa xuân.

Nếu bốn câu thơ đầu là một bức tranh của mùa xuân thì tám câu tiếp là bức tranh của lễ hội trong tiết thanh minh:

“Thanh minh trong tiết tháng ba

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Gần xa nô nức yến anh

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước áo quần như nêm

Ngổn ngang gò đống kéo lên

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.

Từ xa xưa dân tộc ta đã có phong tục là đi tảo mộ người thân đầu năm để thăm viếng sửa sang lau chùi cho sạch sẽ và du xuân ở chốn đồng quê trong khí tiết thanh minh. Các danh từ, động từ, tính từ “ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, ngựa xe, áo quần, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức” là chỉ một không gian có rất nhiều người đặc biệt là các chàng trai và cô gái đi du xuân  đầu năm tạo không khí đông vui, nhộn nhịp và náo nhiệt của buổi hội gắn với một tâm trạng của mỗi người đi hội. Ai cũng háo hức  sắm sửa trang phục, trang sức để  chuẩn bị tham gia lễ hội. Đó không những là buổi hội mà còn là nơi se duyên cho các cặp nam thanh nữ tú chưa tìm được định mệnh của mình.

Bên cạnh hình ảnh  người đi du xuân là hình ảnh những đống tro bên cạnh nấm mồ, những đống tro ấy chính là người ta đốt tiền giấy để tưởng nhớ những người thân đã khuất:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.

Dù là người đang sống hay người đã khuất đều cầu nguyện mong được hạnh phúc. Người đã mất thì khi họ chết đi cũng mong con cháu mình luôn được mạnh khỏe, bình an và hạnh phúc. Người đang sống họ ước mong được một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc và cầu nguyện cho những người đang nằm dưới nấm mồ kia được yên nghỉ.

Người ta thường nói cuộc chơi nào rồi cũng sẽ đến lúc phải kết thúc. Không có cái gì là trường tồn mãi mãi cả. Khi lễ hội kết thúc chị em Kiều ra về trong cảnh chiều tà và mang một tâm trạng sầu mặc:

“Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dang ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.

Không khí vui tươi, náo nhiệt không còn nữa mà nó đang mờ nhạt dần theo ánh nắng. Trời đã về chiều, mặt trời đã lặn sau chân núi, chỉ còn những ánh sáng yếu ớt của những tia nắng còn sót lại. Các từ láy thanh thanh, nao nao, tà tà, thơ thẩn gợi tả sắc thái của cảnh vật và cũng chính là tâm trạng của con người. Dường như cảnh vật cũng thấu hiểu lòng người, cũng  khoác lên mình một màu u buồn. Nguyễn Du sử dụng thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn cảnh vật để nói lên tâm trạng của con người. Một tâm trạng bâng khuâng, thơ thẩn như đang suy nghĩ về một vấn đề nào đó và dự cảm có điều gì đó sẽ xảy ra trong tương lai sắp tới.

Có thể nói đây là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp có cảnh có tình. Được coi là một trong những bức tranh thiên nhiên đẹp nhất trong “Truyện Kiều’’ của Nguyễn Du. Sử dụng ngôn từ giàu hình ảnh mang tính chọn lọc, bút pháp tả cảnh thiên nhiên đặc sắc tả cảnh điểm xuyết, tả cảnh ngụ tình,… Cho ta thấy được tài năng của tác giả.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, KHÓA HỌC DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.




Tài liệu giáo viên