Top 20 Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo (siêu hay)



Tổng hợp bài văn phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo (siêu hay)

Quảng cáo

Bài giảng: Đại cáo bình ngô - Phần 2: Tác phẩm - Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo - mẫu 1

   Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.

   Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân "cuồng Minh", ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở "bình Ngô", tuyên bố đất nước Đại Việt bước vào kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.

   Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác cũa Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng "nhân nghĩa’' trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo, ông viết:

    "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".

Quảng cáo

   Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ "yên dân". Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải "trừ bạo" là trừ những kẻ sách nhiễu dân.

   Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội, một nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì "tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước". Chính vì "nhân nghĩa", vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ nhân dân ta như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống dân lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng ta phải trừng phạt. Như vậy có nghĩa là "việc nhân nghĩa", hành động nhân nghĩa không phải một cái gì đó trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng "việc" cụ thể là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các nguồn phản động chống triều đình để xây dựng xã hội "vua sáng, tôi hiền". Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của "đại nghĩa"-.

Quảng cáo

    "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

    Lấy chí nhân để thay cường bạo".

   Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. Ớ đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:

    "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ".

   Tội án "trời không dung, đất không tha" ấy của giặc Minh:

    "Trúc Nam Sơn không ghi hết tội

    Nước Đông Hải không rửa sạch mùi".

   Tội ác ấy phải trừng phạt. "Quân điểu phạt trước lo trừ bạo". Quân ở đây là nhân dân: tập hợp thành đội quân "đại nghĩa - chí nhân" để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là, triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ "Cáo bình Ngô", nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu lên một quan điển về quyền dân tộc, và do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đỉnh đạc và tự hào.

    "Như nước Đại Việt ta từ trước

    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

    Núi sông bờ cõi đã chia

    Phong tục Bắc Nam cũng khác

    Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phương".

Quảng cáo

   Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:

    "Lưu Cung tham công nên thất bại

    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".

   Thế mà nay bọn giặc Minh "mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn". Nhân nghĩa mà lại thế Lí? Thế đứng của một dân tộc trong nhân nghĩa bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo "lỗi đạo", ngạo mạn, xấc xược...

   Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta "lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều" đã làm nên chiến thắng.

    "Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

    Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.

    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.

    Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn".

   Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kè thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:

    "Đánh một trận, sạch không kình ngạc

    Đánh hai trận, tan tác chim muông".

   Miêu tả cuộc tổng chiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định "vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo".

   Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. "Chí nhân, đại nghĩa" là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truvền thống của con người Việt Nam. ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.

Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên chúng ta đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Có gì quý hơn sinh mạng con người? "Người, ta là hoa của đất’’ do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho "bốn phương biển cả thanh bình"... đối với quân giặc đã bị "cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng", chúng ta đã "chẳng giết hại" mà cho chúng "đường hiếu sinh". Chúng ta có cái thế để "xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó khi bọn giặc đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng". Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được "an dân" không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi dân ta được "nghỉ sức" trong thanh bình:

    "Xã tắc từ đây vững bền

    Giang sơn từ đây đổi mới".

   Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.

   Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quôc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại muốn cùng bỉnh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi chốn đồng cỏ" (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).

   Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và ước vọng "bốn phương biển cả thanh bình". Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.

   Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những phi công Mỹ ngụy. Họ đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tàn phá đất nước ta, gây bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy mà khi bắt sống những kẻ ấy, ta vẫn đối xử nhân đạo và sau ngày toàn thắng 30-4-1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.

    "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

    Lẩy chí nhân để thay cường bạo".

   Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc Minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng "thiên cổ hùng văn" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.

Dàn ý Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo

1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm "Bình ngô đại cáo".
- Sơ lược về tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong " Bình ngô đại cáo".

2. Thân bài

- Hoàn cảnh sáng tác, thể loại.
- Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi:
+ Yêu nước, thương dân, khát vọng mang đến cuộc sống ấm no cho dân, quan tâm đến ý nguyện của dân.
+ Lên án tội ác của giặc Minh.
+ Vì dân trừ bạo.
- Tư tưởng nhân đạo đã chi phối Nguyễn Trãi có những hành động cụ thể: góp công sức vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi giặc Minh.
- "Bình ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù xâm lược, thể hiện niềm tự hào về một dân tộc.

- Bản chất tốt đẹp của dân ta, luôn kiên cường trong mọi hoàn cảnh.
- Lời văn cô đọng, hàm súc, chứng cứ rõ ràng, lập luận chặt chẽ đầy thuyết phục.
- Hướng đến một tương lai tươi sáng, trên dưới vua tôi đồng lòng góp sức mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn dân.

3. Kết bài

- Khẳng định tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong " Bình ngô đại cáo" và suy nghĩ về trách nhiệm bản thân đối với quê hương, đất nước.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo - mẫu 2

Nguyễn Trãi là điển hình của vị hiền tài suốt đời đem tài trí phục vụ nhân dân. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong "Bình ngô đại cáo" nêu ước nguyện muốn cứu dân khỏi vòng tai họa, mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân. "Bình ngô đại cáo" gói trọn tấm lòng của Nguyễn Trãi, thể hiện tư tưởng nhân đạo của ông theo cách hiểu sâu sắc, không dừng lại cụ thể ở một người nào, một giai cấp, tầng lớp nào mà nhân rộng ra là muôn dân.

Đất nước đại thắng vào tháng 11/1428, Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết bài cáo để tuyên bố quân ta đại thắng, nước ta bước vào kỉ nguyên mới, phục hưng dân tộc. "Bình ngô đại cáo" là áng thiên cổ hùng văn được viết theo thể văn biền ngẫu, với giọng văn hùng hồn đã tuyên bố nền độc lập chủ quyền của nước nhà. Lời tuyên ngôn độc lập của "Bình ngô đại cáo" hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn trước đó là " Sông núi nước Nam" tương truyền của Lý Thường Kiệt, bởi Nguyễn Trãi đã khảng khái đặt các triều đại Việt Nam ngang hàng với các triều đại Trung Quốc và bổ sung thêm các phương diện quan trọng khác để khẳng định độc lập, chủ quyền của một quốc gia. Kèm theo đó, ông đã nêu tiền đề nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Từ một quan niệm sống, cách cư xử tốt đẹp giữa người với người, "nhân nghĩa" theo Nguyễn Trãi là phải biết hành động "yên dân", " trừ bạo". Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi bắt nguồn từ tấm lòng yêu nước, thương dân, vì dân, bởi vua là thuyền, dân chúng là nước, nước nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền. Khác với Nguyễn Du- một danh nhân văn hóa thế giới- đại thi hào dân tộc, tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du là yêu thương con người, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ, lên án những chế độ, giai cấp chà đạp nhân phẩm của họ. Cái nhìn nhân đạo của Nguyễn Du hướng về con người bé nhỏ trong xã hội, cụ thể là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Riêng Nguyễn Trãi-bậc hiền tài- một danh nhân văn hóa thế giới khác lại hướng tư tưởng nhân đạo của mình rộng ra khắp muôn dân. Theo Nguyễn Trãi, nhân đạo là yêu nước, thương dân, quan tâm đến khát vọng, ý nguyện của dân, vì dân trừ bạo, mang đến cuộc sống ấm no cho dân.

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

Tư tưởng vì dân đã soi sáng, dẫn lối cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chiến thắng giặc Minh là việc làm chính nghĩa hợp với lòng dân. Khi đem quân xâm lược nước ta, bọn chúng gây ra nhiều tội ác khiến lòng người căm phẫn: hủy hoại cuộc sống con người, hủy hoại môi trường sống, đẩy người dân vào hoàn cảnh bi đát, cùng cực.

"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi."

Nguyễn Trãi là người có tấm lòng yêu nước, thương dân nên ông không thể trơ mắt nhìn muôn dân lầm than, cơ cực. Tư tưởng nhân đạo đã chi phối Nguyễn Trãi có những hành động cụ thể: góp công sức vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi giặc Minh. Ông vạch trần âm mưu xâm lược của chúng, nêu lên khối căm thù chất chứa trong lòng người dân bằng giọng văn khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết. "Bình ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù xâm lược đồng thời thể hiện niềm tự hào về một dân tộc tự cường, không chịu khuất phục, dũng cảm tranh đấu cho nền độc lập nước nhà. Cái nhìn nhân đạo hướng về nhân dân giúp Nguyễn Trãi phát hiện ra bản chất tốt đẹp của dân ta, luôn kiên cường trong mọi hoàn cảnh. Cảm thương cho họ, Nguyễn Trãi đã lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù và khẳng định lòng căm thù sâu sắc.

"Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống"

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mang tính chất chính nghĩa, nhân đạo vì mục đích của cuộc khởi nghĩa là hướng đến nền độc lập cho muôn dân an hưởng thái bình, ấm no. Kẻ thù sau khi thua trận được tha tội và được tạo điều kiện để về nước là hành động thể hiện tư tưởng nhân đạo của dân ta. Lời văn cô đọng, hàm súc, chứng cứ rõ ràng, lập luận chặt chẽ đầy thuyết phục đã khẳng định được tài năng và tấm lòng của Nguyễn Trãi. Ông tuyên bố độc lập và bày tỏ niềm tin vào thái bình vững chắc của đất nước.

"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới"

Nguyễn Trãi luôn hướng đến một tương lai tươi sáng, trên dưới vua tôi đồng lòng góp sức mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi là tư tưởng lớn, nêu bật nhân cách cao cả của ông.
Cao quý thay tấm lòng trung quân, ái quốc, hết lòng phụng sự vì dân của Nguyễn Trãi! Ông là một nhân cách lớn dành cả đời hành động theo lẽ sống lớn. Tư tưởng nhân đạo đọng lại trong "Bình ngô đại cáo" như một lời kí gửi đến mai sau, nhắc nhở nghĩa vụ của mỗi người đối với quê hương, đất nước. Hãy học tập và rèn luyện không chỉ mang lại cuộc sống tốt đẹp cho bản thân mà còn cho mọi người trong xã hội.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo - mẫu 3

Mỗi khi nhìn lại lâu đài văn học của Việt Nam, chúng ta không thể nào quên được cây cột trụ chính của nó: Nguyễn Trãi. Cách 6 thế kỷ mà người dân Việt ngày nay vẫn luôn nhớ đến ông, không chỉ vì cái án oan chu di tam tộc thảm khốc mà còn chính vì những gì ông đã đóng góp cho dân, như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của dân tộc, một nhà tư tưởng một nhà chính trị đại tài của Việt Nam. Tuy gặp nhiều oan khuất và bi kịch, suốt cả cuộc đời tận tụy cống hiến của Nguyễn Trãi luôn được bao trùm bởi một tư tưởng vĩ đại: tư tưởng nhân nghĩa, mà qua thương ông chúng ta có thể thấy rõ điều đó. Tạm biệt trong bài Bình Ngô Đại cáo - một tác phẩm quan trọng nhất của ông đã thể hiện rõ tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp được thấm nhuần xuyên suốt từ câu đầu tiên: "Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân."

Nguyễn Trãi đã viết tự đáy lòng ông chứ không chỉ như được "từng nghe" suông. Chính ông đã coi "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" như mục tiêu phấn đấu cao nhất của đời mình. Cả cuộc đời ông đã dành trọn cho những công việc nhân nghĩa. Với đạo đức nho giáo thời xưa, nhân nghĩa là một điều mà con người ai cũng phải có và thể hiện bằng cách xử sự đối đãi tốt đẹp với người ngoài. Ở Nguyễn Trãi, nhất nhân nghĩa ấy đã được nâng lên một tầm cao mới: đó là lo cho dân, giúp cho dân - dân ở đây nói với Nghĩa bao trùm tất cả thiên hạ. Từ đó ta có thể thấy lòng Nguyễn Trãi bao la và suy nghĩ của ông cũng thật rộng lớn. Với tư cách một vị quan và trên phương diện thay lời vua để viết lời tuyên cáo chiến thắng, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là "yên dân" , tức là làm cho nhân dân được yên ổn làm ăn, ấm no hạnh phúc trong yên bình. Vì thế "Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", phải giặt tan giặt không tàn để cho "yên dân". Ông thương dân và lo cho dân với tất cả tấm lòng mình, không phải để ban ơn cho dân mà là đền ơn cho dân. Đó là một suy nghĩ hết sức tiến bộ và đáng quý biết bao trong thời đại lúc bấy giờ, mà qua bao thời gian đến ngày nay vẫn vô cùng giá trị. Trong suốt toàn bài Cáo Bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi đã tỏ lòng ưu ái đối với dân. Vì thương dân nên ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà quân Minh và bọn gian tà bán nước cầu vinh gây ra. Chúng đã:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

                                                               Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ"

Nguyễn Trãi hiểu rõ lòng thương cảm và căm giận thay khi những người dân gặp buổi lầm than. Những "dân đen, con đỏ" là những người ở tầng lớp khốn khổ nhất xã hội xuất hiện dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi cùng tình cảm sâu sắc của ông. Sự quan tâm này thật không dễ gì có được ở những người vốn làm quan lại như ông, vì thế đây là điều rất tốt đẹp của tư tưởng Nguyễn Trãi. 

Càng thương dân bao nhiêu ông càng căm giận quân xâm lược. Đoạn kể tội của ông với những hình ảnh cụ thể trong bài Bình Ngô đại cáo đầy nước mắt đồng cảm thương xót cho nhân dân, cho quê hương cây cỏ núi sông, đồng thời thể hiện rõ lòng căm thù, tức giận đối với kẻ ngoại xâm và bán nước. 

"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

 Nặng thuế khóa sạch không đầm núi

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngắm hay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc..." 

Rồi: "Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ

Nheo nhóc thấy kẻ góa bụa khốn cùng" 

Đến: "nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi"

Trước tội ác đến độ: 

"Trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Lẽ nào trời đất dung tha, 

Ai bảo thần dân chịu được?"

Chính vì thế tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã mách bảo ông rằng đã đến lúc trừ bạo để yên dân. Tâm trạng của ông cũng là của Lê lợi canh cánh suốt ngày đêm, đó là nỗi lo làm sao đánh giặc, kiểu dân phát cơn nguy biến và giành độc lập cho giang sơn. Tư tưởng nhân nghĩa ở đây xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Bài cáo toát lên một tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc khi nhắc lại lịch sử:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu..."

Và: 

"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"

Lòng yêu nước, thương dân vĩ đại ấy đã khiến Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi: "đau lòng nhức óc", "nằm gai nếm mật" suốt mười mấy năm trời. 

Đến khi chiến thắng giặc Minh, một lần nữa tư tưởng nhân nghĩa - tấm lòng thanh cao của Ức Trai càng cao vời vợi. Ông thương dân và mong muốn sớm yên bình cho nhân dân nên ông đã "lấy toàn dân là hơn, để nhân dân nghỉ sức". 

Hơn thế nữa, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên, bao trùm cả những kẻ gây họa cho nước Đại Việt. Theo ông, binh đao khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì làm hao tổn nhân mạng, ông luôn mưu phạt tâm công để tránh đổ máu mà thu phục được lòng người. Với quân tướng bại trận của giặc, ông đã tha bổng và giúp cho về nước, không giết hại: "thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh để giữ vệ hòa hiếu". Từ đó ta thấy Nguyễn Trãi quả là một con người nhân nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh cao tuyệt vời!

Đất nước thanh bình, ông nhắc đến cái giá phải trả và thốt lên: "than ôi, một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm" với tấm lòng xót xa những gì đã mất - đó là bao sinh mạng con người. 

Đối với Nguyễn Trãi, điều quý nhất là con người, là dân, là nhân nghĩa. Nhân nghĩa theo ông phải luôn là điều tâm niệm, từ quan cho đến dân, rồi đến tướng. Trong tác phẩm Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa dường như hòa quyện trong từng lời từng ý, tỏa ra dưới ngòi bút sắc bén của ông. Theo như câu mở đầu, bài cáo đã cho thấy những suy nghĩ, những trằn trọc trăn trở của ông trong quá trình kháng chiến chống ngoại xâm và nỗi lo sau khi thái bình.

Có thể nói Nguyễn Trãi đã là một nhà tư tưởng lớn biết chọn cho mình Lý tưởng đẹp đẽ và cao quý. Ông đã nguyện dành hết tất cả tài đức và khả năng của mình cho việc nhân nghĩa. Vì thế sau khi về ở ẩn, khi vua mới ra làm quen, ông đã sẵn sàng ra ngay mà không nề hà. 

Tâm hồn Nguyễn Trãi đong đầy nhân nghĩa, rất thanh cao và trong sáng như một viên ngọc quý. Tên tuổi ông là một giấu son lớn trong trang sử danh nhân Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa của ông đã vượt thời gian - qua bao thế kỷ, bao triều đại, ý nghĩa rộng lớn không Biên giới của lòng nhân nghĩa ấy đã trở thành một tư tưởng vĩ đại của loài người. Chúng ta kính trọng Nguyễn Trãi với tư tưởng nhân nghĩa quý báu đã góp phần lớn lao trong lịch sử dân tộc, lại càng thơm thay cho cuộc đời éo le và oan khuất của ông. Nguyên nhân cũng chính vì những kẻ xấu không chịu nổi tư tưởng cao đẹp của ông mà làm ra chuyện ác. 

Nguyễn Trãi đã được mọi người đời sau thương mến kính trọng vô cùng vì tư tưởng và hành động rất nhân nghĩa của ông. Vua Lê Thánh Tông đã từng đề cao: "Ức trai lòng sáng tựa sao Khuê" và ngày nay nhà thơ Hoàng Trung Thông đã đánh giá: "Nguyễn Trãi là tinh hoa của dân tộc qua bao thời đại kết hợp lại".

Chúng ta tin rằng, chúng ta sẽ thực hiện được những điều có ích cho dân, cho nước như Nguyễn Trãi - tổ tiên chúng ta đã từng theo đuổi và sẽ có nhiều tấm gương sáng noi theo ông - ngôi sao khuê sáng mãi trên bầu trời Đại Việt. 

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo - mẫu 4

Khi nhìn lại sự nghiệp của Nguyễn Trãi, người không thể quên được một người tưởng niệm quan trọng của văn học cổ Việt Nam. Trải qua hàng thế kỷ, tên ông vẫn lung linh trong tâm hồn người Việt, không chỉ vì án oan và thảm khốc mà ông và gia đình phải chịu, mà còn vì những đóng góp đặc biệt của ông đối với quê hương và dân tộc. Nguyễn Trãi không chỉ là một vĩ đại trong văn học và thơ ca Việt Nam mà còn là một triết gia và nhà chính trị tài năng của thế kỷ XV.

Cuộc đời của Nguyễn Trãi đầy bi kịch và oan trái, nhưng điều làm nên giá trị đích thực của ông là tư tưởng vĩ đại về nhân nghĩa. Tư tưởng này không phải là lời nói suông, mà là sự thấm nhuần sâu sắc từ đáy lòng ông. Nguyễn Trãi đã coi nhân nghĩa là mục tiêu cao cả nhất trong cuộc đời mình. Cuộc đời của ông đầy rẫy những công việc nhân nghĩa, và tư tưởng này có thể được coi là lý tưởng cao quý của ông.

Trong triết lý đạo đức của thời đại cổ xưa, nhân nghĩa là một phẩm chất cơ bản mà mọi người nên có, thể hiện qua cách họ đối xử tốt với người khác. Nhưng đối với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đã được đẩy lên một tầm cao hơn. Đối với ông, nhân nghĩa không chỉ đơn thuần là đối xử tốt với người khác, mà còn bao gồm việc quan tâm và giúp đỡ dân, và ở đây, "dân" có thể hiểu là tất cả mọi người trên thế gian. Tư tưởng này thể hiện lòng yêu thương và tâm hồn hướng về cộng đồng rộng lớn của Nguyễn Trãi. Ông đã thể hiện tình yêu và sự lo lắng cho nhân dân, với mục tiêu làm cho họ sống trong hạnh phúc và an bình.

Trong tác phẩm "Bình Ngô Đại Cáo," Nguyễn Trãi thể hiện rõ tư tưởng nhân nghĩa này. Ông khẳng định rằng nhân nghĩa chính là làm cho dân có cuộc sống ổn định, tốt đẹp. Đối với ông, quân đội phải trừ bỏ sự hung tàn của quân địch để bảo đảm an bình cho nhân dân. Ông không chỉ đơn thuần "thương dân" mà còn "lo cho dân," và ở đây, "dân" không giới hạn trong phạm vi nhỏ hẹp mà nó bao trùm toàn bộ nhân loại.

Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một tư tưởng tiến bộ và cao quý trong thời đại của ông, vẫn đọng mãi và có giá trị đối với chúng ta trong thời đại hiện đại. Nó nhấn mạnh tình thương và trách nhiệm của mỗi người đối với xã hội và con người xung quanh.

Trong "Bình Ngô Đại Cáo" Nguyễn Trãi thể hiện một lòng ưu ái đối với nhân dân Việt Nam. Ông cảm thấy đau lòng trước thảm cảnh mà quân địch Minh gây ra khi họ tàn phá, thiêu đốt, và hành hạ dân làng Việt Nam. Nguyễn Trãi mô tả cụ thể:

"…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…"

Ông hiểu rằng đối với những người dân này, những người ở tầng lớp khốn khổ nhất xã hội, cuộc sống là một cuộc đấu tranh để tồn tại, và ông thể hiện tình cảm và sự quan tâm đặc biệt đối với họ. Điều này là điều đáng quý đối với một quan lại như ông.

Sự thương dân của Nguyễn Trãi cũng tạo ra một sự căm giận đối với quân xâm lược Minh. Ông sử dụng từ ngữ mạnh mẽ để kết tội giặc Minh:

"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nối rừng sâu nước độc …"

Sự tàn hại đối với cả giống cây cỏ và con người làm Nguyễn Trãi đầy căm giận và tức giận. Ông mô tả tình trạng khốn khổ của nhân dân và hậu quả nặng nề mà họ phải chịu:

"Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi.

Trước tội ác đến độ

Trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần dân chịu được?…"

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã thúc đẩy ông đến quyết định trừ bỏ bạo quân Minh để đảm bảo an bình cho nhân dân. Tư tưởng này thể hiện lòng yêu nước và tình thương đối với nhân dân, và nó truyền cảm một tinh thần tự hào về lịch sử và đoàn kết dân tộc trong cuộc chiến đấu cho độc lập.

Trong suốt bài "Cáo Bình Ngô," ngòi bút của Nguyễn Trãi đã thể hiện một lòng yêu nước và thương dân vĩ đại. Ông đã sâu sắc đau lòng trước những bi kịch mà quân đội Minh tàn phá và gây ra cho dân làng Việt Nam:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…"

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần và hàng đời những người đã gieo mầm độc lập cho quê hương, trong khi quân đội Hán, Đường, Tống và Nguyên đã xâm lược từ nhiều phía khác. Tâm hồn yêu nước và thương dân đã thúc đẩy Nguyễn Trãi cùng với Lê Lợi, và suốt mười mấy năm, họ đã trải qua nhiều khó khăn và thử thách.

Khi cuộc chiến chấm dứt với chiến thắng trước quân Minh, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi càng trở nên sâu sắc hơn. Ông khao khát sự bình yên cho nhân dân và lấy quan điểm rằng nhân dân là quan trọng nhất. Ông đã đề xuất nghỉ ngơi và thư giãn cho nhân dân để họ có thể hồi phục sau cuộc chiến tranh.

Ngoài ra, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt ra ngoài việc thương dân và đã bao trùm cả những kẻ đã gây hại cho nước Đại Việt. Ông tin rằng sự đoàn kết và tình thương của nhân dân sẽ giúp đoàn kết đánh bại giặc Minh mà không cần đổ máu nhiều.

Tư tưởng nhân nghĩa này đã thúc đẩy ông gương mặt mọi thách thức để bảo vệ lợi ích của nhân dân và đất nước. Cuối cùng, ông đã nhớ đến những người đã hy sinh trong cuộc chiến tranh và đặt câu hỏi:

"Đất nước thanh bình, ông nhắc đến cái giá phải trả và thốt lên: Than ôi, một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm… với tấm lòng xót xa cho những gì đã mất – đó là bao nhân mạng con người…"

Nguyễn Trãi tin rằng con người, nhân dân là quý nhất, và tư tưởng nhân nghĩa đã thúc đẩy ông hành động để bảo vệ họ. Ông đã thấu hiểu rằng sức mạnh của nhân dân sẽ giúp nước đánh bại kẻ xâm lược.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo - mẫu 5

Nguyễn Trãi, một hiền tài suốt đời dành tài trí của mình để phục vụ nhân dân, được xem là biểu tượng của tư tưởng nhân đạo. Trong tác phẩm "Bình ngô đại cáo" ông thể hiện tư tưởng nhân đạo của mình thông qua khát vọng cứu dân khỏi những khốn khó và mang đến cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho dân. "Bình ngô đại cáo" là một tác phẩm văn học đặc biệt, thể hiện tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi một cách sâu sắc và tổng quan, không giới hạn ở một người, một giai cấp, hay một tầng lớp cụ thể, mà đề cao ý nguyện của toàn dân.

Sau khi đất nước đạt chiến thắng vào tháng 11/1428, Lê Lợi ủy thác Nguyễn Trãi viết "Bình ngô đại cáo" để tuyên bố chiến thắng và mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước, là thời kỳ phục hưng dân tộc. Tác phẩm này có giọng văn trang trọng và hùng hồn, đặt ra khái niệm độc lập và chủ quyền của quốc gia.

Tuy nhiên, điểm đặc biệt của "Bình ngô đại cáo" là sự nhấn mạnh vào tiền đề nhân đạo, với dân làm gốc. Nguyễn Trãi tin rằng "nhân nghĩa" nên bắt đầu từ việc hành động "yên dân" và "trừ bạo." Ông coi "nhân nghĩa" là tình yêu đối với nước, thương dân, và quan tâm đến khát vọng và ý nguyện của dân, vì dân trừ bạo và mang lại cuộc sống ấm no cho họ. Ông thấu hiểu rằng quan trọng nhất là sức mạnh của dân tộc, và rằng việc bảo vệ dân là nền tảng của tư tưởng nhân đạo của ông.

Nguyễn Trãi đã đưa ra lời tuyên bố độc lập trong "Bình ngô đại cáo" một cách hoàn thiện hơn so với bản tuyên ngôn trước đó, "Sông núi nước Nam" của Lý Thường Kiệt. Ông không chỉ khẳng định độc lập chủ quyền của quốc gia mình, mà còn đề cao tư tưởng nhân đạo và tôn vinh dân làm gốc.

Khác với tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du, mà tập trung vào yêu thương con người và ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ, tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi mở rộng ra khắp mọi người. Ông đặt "nhân nghĩa" làm trung tâm và hướng tư tưởng nhân đạo của mình về sự yêu nước, tình thương dân, và quan tâm đến khát vọng và ý nguyện của dân. Ông coi dân như trái tim của quốc gia và thể hiện tư tưởng nhân đạo của mình thông qua việc đặt tôn vinh và bảo vệ dân lên hàng đầu.

Nhân nghĩa là tâm hồn của cuộc chiến đấu. Chiến thắng giặc Minh là sự thực hiện chính nghĩa và phản ánh lòng yêu nước của nhân dân. Khi quân Minh xâm lược nước ta, chúng đã gây ra nhiều tội ác kinh khủng, hủy hoại cuộc sống và môi trường sống của người dân, khiến họ phải trải qua cảnh khốn khổ và đau đớn.

"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không đủ để ghi chép tất cả tội ác của chúng,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không đủ để rửa sạch mùi ác."

Nguyễn Trãi, một người yêu nước và thương dân, không thể nín nhịn khi nhìn thấy nhân dân cả nước chịu đựng. Tư tưởng nhân đạo đã làm Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và chống lại quân Minh. Ông tiết lộ âm mưu xâm lược của địch, tuyên bố sự căm ghét sâu sắc của người dân trong một bài văn đầy sự phẫn nộ và đồng cảm.

"Ngẫm thù lớn, có thể vươn cao như trời vĩnh cửu,

Căm kẻ thù nước, tôi thề không sống chung."

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn có tính chất chính nghĩa và nhân đạo, vì mục tiêu cuối cùng của nó là giành lại độc lập cho toàn bộ dân cư, mang lại thời kỳ thái bình và thịnh vượng. Ngay sau khi đánh bại địch, người ta đã tha tội cho họ và tạo điều kiện cho họ quay về quê hương. Điều này thể hiện tư tưởng nhân đạo của dân tộc. Lời văn của Nguyễn Trãi rất cô đọng và thuyết phục, và nó khẳng định tài năng và tâm hồn cao cả của ông. Ông tuyên bố độc lập và thể hiện niềm tin vào tương lai an lành và thịnh vượng của đất nước.

"Xã tắc từ nay sẽ vững bền,

Giang sơn sẽ thay đổi từ đây."

Nguyễn Trãi luôn hướng tới một tương lai tươi sáng, và tất cả đều đồng lòng góp sức để mang lại cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc cho người dân. Tư tưởng nhân đạo của ông là một tư tưởng lớn, đánh bại tấm lòng trung quân, ái quốc và sự hiến dâng đối với dân của Nguyễn Trãi. Ông là một tấm gương lớn về đạo đức và đồng lòng làm việc vì mục tiêu cao cả.

Tư tưởng nhân đạo trong "Bình Ngô đại cáo" vẫn tồn tại như một thông điệp dành cho thế hệ sau này, nhắc nhở về trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Hãy học hỏi và trau dồi không chỉ để tạo điều kiện cho cuộc sống tốt đẹp của mình mà còn để mang lại lợi ích cho xã hội.

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 10 khác:

Đã có lời giải bài tập lớp 10 sách mới:

Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 10

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


dai-cao-binh-ngo.jsp


Giải bài tập lớp 10 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên