Dàn ý Lưu biệt khi xuất dương (siêu hay)



Dàn ý phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.

Dàn ý Lưu biệt khi xuất dương (siêu hay)

Quảng cáo

Bài giảng: Lưu biệt khi xuất dương - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Phân tích Lưu biệt khi xuất dương

Mở bài

   - Phan Bội Châu (1867-1940) quê ở Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1900 đỗ Giải nguyên. Ông sáng lập ra Hộí Duy Tân (1904). Năm 1906, bí mật sang Nhật dấy lên phong trào Đông Du, tổ chức Việt Nam Quang phụ hộí. Năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải, đưa về Hà Nội với cái án tử hình. Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta, chúng đưa ông về giam lỏng ở Huế.

   - Là chiến sĩ yêu nước vĩ đại, là nhà văn, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 20 - Thơ văn Phan Bộí Châu là thơ văn yêu nước và tuyên truyền cổ động cách mạng sôi sục bầu nhiệt huyết.

   - Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu viết năm 1906, trong lúc chia tay đồng chí, bạn bè, trước lúc bí mật sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du.

Quảng cáo

   - Bài thơ khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, làm nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân.

Thân bài

- Hai câu đề

   Kẻ nam nhi phải mong có điều lạ, nghĩa là không thể sống tầm thường mà phải làm nên sự nghiệp lớn. Lưu lại tiếng thơm muôn đời. Con người ấy sống chủ động, tích cực, có tinh thần làm chủ thiên nhiên, há để càn khôn tự chuyền dời?

- Hai câu thực

   Tác giả tự ý thức về cái Tôi (ngã: tôi, tờ). Rất tự hào về vai trò của mình trong cuộc đời (một trăm năm) và trong xã hội, lịch sử (ngàn năm sau).

   Tác giả hỏi: Chẳng lẽ ngàn năm sau, lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Nhằm khẳng định một ý tưởng vĩ đại mà như người đồng hương của Phan Bội Châu trước đó nửa thế kỉ đã nhiều lần rồi:

Quảng cáo

    Đã mang tiếng ở trong trời đất,

    Phải có danh gì với núi sông.

            (Nguyễn Công Trứ)

   Quan niệm về công anh, về chí nam nhi của Phan Bội Châu mới mẻ, tiến bộ, hướng về Tổ quốc và nhân dân, như ông đã viết: Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ. Tất cả vì nước, vì dân chứ không phải vì nghĩa vua - tôi: Dân là dân nước, nước là nước dân".

- Hai câu luận

   Nêu lên một quan niệm sống đẹp của kẻ sĩ trước thời cuộc và lịch sử dân tộc. Non sông đã chết, một cách nói rất hay, cảm động về nỗi đau thương của đất nước ta, nhân dân ta đang bị thực dân Pháp thống trị. Trong Hải ngoại huyết thư, tác giả viết: hồn nước bơ vơ. Kẻ nam nhi, kẻ sĩ lập công danh trước hết bằng con đường học hành và thi cử. Một ý thơ phủ định về cách học cũ kĩ lạc hậu là đọc sách thánh hiền (đạo nho)... cách học ấy rất lạc hậu, vô nghĩa, càng học càng ngu, càng u mê. Đây là hai câu có tư tưởng sâu sắc, tiến bộ nhất, cho thấy Phan Bội Châu là một chí sĩ tiên phong:

Quảng cáo

    Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,

    Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.

- Hai câu kết

   Hình tượng thơ kì vĩ lên một chí lớn mang tầm vũ trụ. Không phải gió nhẹ mà là trường phong. Không phải quanh quẩn chốn quan trường hoặc nơi trường thi chật hẹp, mà là đi ra biển Đông với một sức mạnh phi thường, cùng bay lên với ngàn lớp sóng bạc. Đây là những câu thơ đẹp nhất của Phan Bội Châu biểu lộ một bầu nhiệt huyết:

    Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,

    Thiên trùng bạch lăng nhất tề phi.

Kết bài

   Vẫn là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán. Giọng thơ trang nghiêm, đĩnh đạc hào hùng, mạnh mẽ, lôi cuốn.

   Thể hiện một chí lớn phi thường: không cam tâm làm nô lệ, quyết đi tìm đường cứu nước. Không phải là khẩu khia mà sự thật lịch sử đã xác nhận Phan Bội Châu đã sống và hành động như thơ ông đã viết ra.

   Lưu biệt khi xuất dương mang âm điệu anh hùng ca, chứa chan tình yêu nước và quyết tâm lên đường cứu nước.

Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương - mẫu 1

Phan Bội Châu (1867-1940), ôi cái tên đẹp một thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt). Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tình yêu nước. "Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng" (Tố Hữu).

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Theo chủ trương của Duy Tân hội do chính ông sáng lập, ông bắt đầu sang Nhật để tìm đường cứu nước. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” ông làm tặng các đồng chí trong buổi đầu lên đường. Có thể nói bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

“Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.

Hai câu để là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:

“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”

Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên “điều lạ” (yêu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. Không thể sống một cách thụ động cho trời đất (càn khôn) “tự chuyển dời” một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin ở mức độ, tài năng của mình muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:

“Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.

Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạnh vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu, ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ:

“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”

(“Tùy viên thi thoại" - Viên Mai)

Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời ấy có một “bầu máu nóng" sôi sục: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đèn những chỗ nói người xưa chịu thuế để thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy...” (Ngục trung thư).

Phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:

“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

“Ngã” là ta: “tu hữu ngã” nghĩa là phải có ta trong cuộc đời “một trăm năm ” (bách niên trung). Câu thơ khẳng định, biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. “Thiên tải hậu” nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

"... Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”.

("Hịch tướng sĩ' - Trần Quốc Tuấn)

"... Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.

(Văn Thiên Tường)

Lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người đối với cái vô hạn “thiên tải" của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan.

Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương - mẫu 2

“Con người viết văn, con người làm thơ trong Phan Bội Châu nhất trí với con người chính trị. Ngòi bút Phan Bội Châu sáng ngời chủ nghĩa yêu nước, lí tưởng anh hùng”. Phan Bội Châu là người đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm con đường cứu nước mới, cả cuộc đời văn chương của ông chính là cả cuộc đời cách mạng sáng ngời. Và khi ý chí làm trai sôi sục trong tim ông thì cũng là lúc “Lưu biệt khi xuất dương” ra đời, đánh dấu thời điểm ông lên đường sang Nhật, từ giã bạn bè, đồng chí.

Đối với Phan Bội Châu, là đấng nam nhi là phải có chí hướng riêng cho mình, chí làm trai của đứa con đất nam, ông quan niệm:

“Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời. ”

Con người tuy nhỏ bé nhưng chính ý chí, tư thế đã làm con người to lớn hơn so với vũ trụ. Và với Phan Bội Châu, “chí” để xây dựng được một con người hiển hách chính là chí làm trai. Làm trai là phải “lạ”, là phải biết sống cho phi thường hiển hách. Dám mưu đồ những chuyện kinh thiên động địa, xoay chuyển càn khôn. Đây là quan niệm này gần gũi với lí tưởng nhân sinh của các nhà nho thuở trước nhưng nó táo bạo hơn, quyết liệt hơn, con người dám đối mặt với vũ trụ, với đất trời rộng lớn để tự khẳng định mình. Chính quan niệm vừa kế thừa truyền thống, vừa mới mẻ này đã tạo ra một con người, một Phan Bội Châu với tư thế khỏe khoắn, ngang tàn, ngạo nghễ, thách thức càn khôn. Đó chính là tư thế chủ động trước thời cuộc, là lí tưởng vì nước, vì dân.

Phạm Ngũ Lão đã từng bày tỏ quan niệm về chí làm trai của mình qua bốn câu thơ của “Thuật hoài”

“Múa giáo non sông trải kháp thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu

Công danh quân tử còn vương nợ,

Luống hẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu. ”

Phạm Ngũ Lão như ý thức được trách nhiệm của bản thân trước thời cuộc, trước vận mệnh đất nước. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão đầy thiết thực;một ngày còn bong quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn, xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Dù ở cách nhau bảy thế kỉ nhưng quan niệm về chí làm trai của Phạm Ngũ Lão và Phan Bội Châu vẫn có nét giống nhau, nó như nền tảng của bất kì bậc nam nhi nào cũng phải có dù ở thời nào. Phan Bội Châu đã nói rằng:

“Trong khoảng trăm năm cần có tớ

Sau này muôn thuở há không ai?”

Chí làm trai là phải gắn liền với ý thức của bản thân, ý thức về cái tôi chứ không thể nào sống tầm thường tẻ nhạt, buông xui theo số phận. Đó là cái tôi công dân đầy trách nhiệm trước thời cuộc, trước số phận. Bằng nghệ thuật đối ý, tác giả đã khẳng định trong một khoảng trăm năm cần có sự tồn tại của mình và sau này không lẽ không có ai hiểu và tiếp bước của ông hay sao. Và quả đúng như lời ông nói khi sau đó người thanh niên Nguyễn Tất Thành – Bác Hồ vĩ đại đã ra đi tìm đường cứu nước, xây dựng nên nước Việt nam dân chủ Cộng hòa.

Câu ba vừa khẳng định dứt khoác về vai trò của cái “Tôi”, cống hiến cho đời, lưu danh thiên cổ thì câu bốn lại chuyển sang nghi vấn bằng câu hỏi tu từ nhằm khẳng định quyết liệt hơn một khát vọng sống hiển hách, phát huy hết tài năng để cống hiến cho đời. Phan Bội Châu như đã vừa khẳng định ý thức và trách nhiệm công dân của mình, của mọi người. Với cảm hứng lãng mạn, bay bổng gắn với hình tượng nghệ thuật kì vĩ đã tăng thêm khát vọng, niềm tin, lòng yêu nước sôi sục, thiết tha của dân tộc.

Đến với hai câu thơ năm, sáu chính là nhận thức, thái độ quyết liệt của kẻ làm trai trước tình cảnh đất nước phải rơi vào tay lũ giặc, tay sai, bán nước.

“Non sông đã chết, sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài!”

Non sông, đất nước là một phần tạo nên con người, cốt cách, non sông chết ta trở thành nô lệ thì sống chỉ thêm nhục. Giờ đây, sách vở thánh hiền chẳng còn ích gì nước khi nước đã mất, nhà đã tan. Phan Bội Châu đã xây dựng một tư tưởng mới mẻ đầy táo bạo, tiến bộ mang đậm tính cách mạng. Đây như lời tự bạch về nỗi đau đớn, xót xa, tủi nhục của đứa con mất nước nhưng lại hé mở con đường cách mạng rửa nhục nước nhà.

Hằng hà sa số ý nghĩ cũng chẳng bằng một hành động và khi ý chí sục sôi trong Phan Bội Châu đạt tới đỉnh điểm thì cũng là lúc ông ra đi tìm đến ánh sáng thay đổi vận mệnh đất nước. Ông ra đi với tư thế hiên ngang mang trong mình đầy khát vọng.

“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. ”

Những hình ảnh lớn lao, kì vĩ: Bể Đông cánh gió, muôn trùng sóng bạc như tạo cho Phan Bội Châu một tư thế như bay lên. Hình ảnh ấy thật hào hung, lãng mạn, con người như được chắp đôi cánh thiên thần bay lên trên thực tế tối tăm, nghiệt ngã, vươn ngang tầm vũ trụ. Đó là một tư thế hăm hở, đầy nhiệt huyết thăng hoa, một tấm lòng yêu nước của một nhà thơ, nhà cách mạng.

“Nhân sinh trăm năm như một giọt nước vươn nơi mi mắt, nhẹ như lông hồng lại nặng như thái sơn”. Một kiếp người, nếu ta chọn cuộc sống vì mình thì cuộc sống không phải lo nghĩ vì ai nhưng giương mắt nhìn đất nước lầm than thì làm sao có thể yên giấc. Phan Bội đã chọn con đường ra đi tìm đường cứu nước, ông không thể nhìn và để bản thân mình trở thành nô lệ. Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, “Lưu biệt khi xuất dương” đã khắc họa vẻ đẹp hào hung của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ và khát vọng cháy bỏng trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước.

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:

Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 11

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


luu-biet-khi-xuat-duong.jsp


Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên