20+ Phân tích Quan Âm Thị Kính (điểm cao)



Bài văn phân tích bài Quan Âm Thị Kính hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn Phân tích Quan Âm Thị Kính hay hơn.

20+ Phân tích Quan Âm Thị Kính (điểm cao)

Quảng cáo

Phân tích Quan Âm Thị Kính - mẫu 1

   Quan Âm Thị Kính là một vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu chèo. Nội dung của vở chèo chia làm ba phần. Phần 1 là Án giết chống : Thiện Sĩ, con trai Sùng ông, Sùng bà gia đình khá giả, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thấy chồng có sợi dâu mọc ngược, Thị Kính cầm dao khâu toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình hoảng sợ vội hô hoán lên, Sùng bà giận dữ đổ riệt cho con dâu có ý giết chồng, mắng chửi thậm tệ và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Phần 2 là Án hoang thai : Bị oan ức nhưng không thể thanh minh, Thị Kính đành giả trai, vào tưở chùa Vân Tự, lấy pháp danh là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, đem lòng say mê chú tiểu Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Màu ăn nằm với anh Nô là đầy tớ rồi có thai. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Mầu đổ cho Kính Tâm, Kính Tâm chịu oan, bị sư cụ đuổi ra khỏi tam quan (cổng chùa), Thị Màu đem con bỏ cho Kính Tâm. Phần 3 là Oan tình được giải, Thị Kính lên tòa sen : Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng "hóa" (chết), được lên tòa sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi "hóa", Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới biết Kính Tâm là gái và hiểu ro tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.

   Nỗi oan hại chồng và cái án oan hoang thai là hai sự kiện chính của vở chèo. Qua đó, tác giả dân gian phản ánh bi kịch trong thân phận của người phụ nữ nghèo khổ thời phong kiến. Hai sự kiện tuy thuộc hai mảnh đời khác nhau của Thị Kính nhưng liên hệ chặt chẽ với nhau. Cảnh ngộ nào cũng éo le, đau đớn nhưng mỗi cảnh ngộ lại có một vẻ riêng. Chúng kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau để hoàn chỉnh tấn bi kịch về cuộc đời người phụ nữ. Bên cạnh nội dung đó, vở chèo còn có dụng ý đề cao phẩm chất cao quý của người phụ nữ và lên án cái xấu, cái ác trong xã hội phong kiến xưa.

Quảng cáo

   Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là cốt lõi trong phần mở đầu của vở chèo. Phần này có năm nhân vật tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch và làm nền cho nhân vật Thị Kính bộc lộ phẩm chất cao đẹp. thiện Sĩ và Sùng ông là những kẻ nhu nhược, không có chủ kiến, chỉ đóng vai phụ để làm nổi bật tính cách điêu ngoa, nanh ác của Sùng bà. Xung đột cơ bản của vở chèo được thể hiện qua mâu thuẫn của Sùng bà và Thị Kính (mẹ chồng, nàng dâu). Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến với những thói hư tật xấu như hóm hĩnh, tự phụ về dòng giống cao sang, cả vú lấp miệng em, luôn lấy mình làm chuẩn mực để xem xét, đánh giá người khác theo nhân thức hồ đồ của mình, Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo, đại diện cho người phụ nữ lao động nghèo. Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền nết na, thùy mị nhưng bị Sùng bà nanh ác buộc tội giét chồng. Gia đình nhà chồng đã gây ra cho Thị kÍnh những nỗi oan chồng chất. Nàng bị hàm oan, hạnh phúc tan vỡ, bị đuổi khỏi nhà chồng và đau khổ nhất là phải chứng kiến cảnh người cha thân yêu bị sỉ nhục.

   Mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính về hình thức là xung đột trực tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu nhưng về bản chất lại là mâu thuẫn sâu sắc giữa kẻ thống trị và người bị trị. Đó là cái nút đầu tiên trong vở chèo bộc lộ thân phận, địa vị thấp kém của người phụ nữ nghèo trong quan hệ gia đình và hôn nhân phong kiến.

   Mở đầu là cảnh sinh hoạt đầm ấm, (vợ vá may thêu thùa. Chồng đọc sách), tuy không phổ biến và gần gũi như cảnh chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa trong ca dao nhưng nó cũng thể hiện khát vọng về hạnh phúc gia đình của nhân dân lao động.

Quảng cáo

   Trong khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối diện với Thiện Sĩ rất ân cần, dịu dàng. Khi chồng học bài mệt mỗi đêm ngủ thiếp đi, nàng dọn lại kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng băn khoăn lo lắng về một điềm báo chẳng lành. Thị Kính muốn làm đẹp cho chồng và cho mình: Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta... , Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an. Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. Tâm trạng của nàng là tâm trạng của người vợ yêu thương chồng thắm thiết.

   Việc làm đầy thiện ý của Thị Kính chưa kịp thực hiện thì Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy con dao kêu lên : Hỡi cha! Hỡi mẹ ! Hỡi xóm ! Hỡi làng ! Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường... khiến cho cả nhà tỉnh giấc. Chẳng cần hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng bà đã sừng sộ khép ngay Thị Kính vào tội giết chồng : Cái con mặt gan lim này ! Mày định giết con bà à ?

   Thái độ của Sùng bà rất thô bạo và tàn nhẫn. Khi Thị Kính khóc lóc van xin được thanh minh, Sùng bà dúi đầu Thị Kính ngã xuống rồi lại bắt nàng ngửa mặt lên để nghe mụ chửi, chứ không cho phân bua, thanh minh gì cả.

   Sùng bà nói với Thị Kính toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, lăng mạ. Dường như một lần mụ cất lời, Thị Kính lại bị kết thêm một tội. Mụ trút cho Thị Kính đủ tội mà không cần biết sự tình. Mụ xỉ vả, đuổi Thị Kính ra khỏi nhà không chỉ vì lí do cho rằng Thị Kính giết chồng mà Thị Kính còn là loại đàn bà hư đốn, tâm địa xấu xa; là con nhà thấp hèn không xứng với nhà mụ :

Quảng cáo

   Giống nhà bà đây giống phượng giống công - Còn tuồng bay mèo mã gà đồng lẳng lơ - Nhà bà đây cao môn lệnh tộc - Mày là con nhà cua ốc - Trứng rồng lại nở ra trứng rồng - Lìu điu lại nở ra dòng lìu điu - Đồng nát thì về Cầu Nôm, Con gái nỏ mồm về ở với cha... Tất cả những lời nói và cử chỉ đó đã bộc lộ bản chất của một mụ nhà giàu bất nhân, bất nghĩa.

   Lời lẽ của mụ chứa đựng toàn là sự phân biệt đối xử. Vốn từ ngữ dùng để so sánh chuyện cao thấp, sang hèn, giàu nghèo... của mụ phong phú đến mức đáng sợ. Mâu thuẫn giữa mụ và Thị Kính đã vượt khỏi mâu thuẫn mẹ chồng - nàng dâu. Mụ đã trả nó vào đúng vị trí là mâu thuẫn giai cấp. Các điệu hát sắp, nói lệch... phù hợp với việc thể hiện thái độ trấn áp phũ phàng và giọng nói điệu kiêu kì, tự phụ về dòng, giống giàu sang, khinh thị người nghèo khó của mụ. Nhân vật Sùng bà chỉ xuất hiện trong một lớp diễn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tính cách của vai mụ ác trong vai chèo cổ. Mụ ra oai sấm sét để tỏ ra " phép nhà". Mụ tự cho mình cái quyền tạo ra "luật" và "lệ" trong gia đình Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được gia đình chấp nhận bởi vì nàng không xuất thân từ nguồn gốc " con nhà gia thế". Quả là mâu thuẫn giai cấp không thể dung hòa đã tác động ghê gớm đến cuộc hôn nhân này.

   Khi bị mẹ chồng khép vào tội giết chồng, Thị Kính đã có những lời nói, cử chỉ thật nhẫn nhục, đáng thương. Năm lần kêu oan thì bốn lần tiếng kêu của nàng hướng về chồng và mẹ chồng. Lần thứ nhất, nàng kêu oan với mẹ chồng : Giời ơi ! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi ! Lần thứ hai, vẫn với mẹ chồng : Oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ ba, kêu oan với chồng: Oan thiếp lắm chàng ơi! Lần thứ tư, một lần nữa, lại kêu oan, van xin mẹ chồng : Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!

   Thị Kính kêu oan với chồng nhưng vô ích bởi Thiện Sĩ là gã đàn ông đơn hèn, nhu nhược. Hắn bỏ mặc người vợ hết lòng thương yêu, chăm sóc gắn bó với mình cho bà mẹ độc ác hành hạ. Lúc này, Thiện Sũ chỉ là một nhân vật thừa trên sân khấu. Lời van xin của Thị Kính giống như lửa đổ thêm dầu, càng làm bùng lên những lời đay nghiến lăng nhục của Sùng bà. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan lại càng dày. Giữa gia đình nhà chồng người phụ nữ đức hạnh ấy hoàn toàn cô độc. Chỉ đến lần cuối cùng, Thị Kính kêu oan với cha đẻ là Mãng ông thì nàng mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó là sự cam thông đau khổ và bất lực. Mãng ông nói trong nước mắt:

Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan
Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào!

   Kết cục của nối oan là tình vợ chồng giữa Thị Kính và Thiện Sĩ tan vỡ. Nàng bị đuổi ra khỏi nhà chồng.

   Trước khi đuổi Thị Kính, Sùng bà và Sùng ông còn nhẫn tâm dựng lên một vở kịch tàn ác: lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, kì thực là bắt Mãng ông nhận con gái về. Chúng có thú vui làm điều ác, muốn cha con Mãng ông phải nhục nhã ê chề. Hơn thế nữa, nhanh như trở bàn tay, Sùng ông đã thay đổi quan hệ thông gia bằng những hành động vũ phu. Cảnh này được xây dựng bằng những chi tiết, hình ảnh, lời nói thật sinh động:

   Mãng ông: Ông ơi ! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện với , ông ơi !

   Sùng ông: Biết này !

   (Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào, Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau khóc).

   Sự việc Sùng bà cho gọi Mãng ông đến để trả Thị Kính đã thể hiện tính cách bất nhân bất nghĩa của mụ, đồng thời bộc lộ nỗi bất hạnh lớn nhất của Thị Kính. Thị Kính như bị đẩy đến cực điểm của bi kịch. Nàng chới với trong nỗi oan ức tày trời, nỗi đau tình vợ chồng tan vỡ cộng thêm nỗi nhục nhã, đau đoén trước ảnh người cha già kính yêu bị chính cha mẹ chồng khinh khi, hành hạ.

   Cuối lớp diễn, trên sân khấu chỉ còn lại hai hca con Thị Kính lẻ loi đơn độc giữa sự vô tình đến lạnh lùng, tàn nhẫn. Cảnh hai cha con ôm nhua than khóc là hình ảnh của những người nghèo khổ chịu oan ức mà hoàn toàn bất lực. Cảnh Sùng bà quy kết, đổ vạ cho Thị Kính diễn ra chóng vánh, dồn dập. Còn cảnh hai cha con Thị Kính ôm nhau than khóc thì kéo dài trên sân khấu. Sự bố trí như vậy mang ý nghĩa tố cáo cái ác và cảm thông sâu sắc với cái thiện đang bị cái ác bủa vây giwuax trùng trùng sóng dữ.

   Thái độ của Thị Kính trước khi ra khỏi nhà chồng được đặc tả : Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm chiếc áo ddang khâu dở, bóp chặt trong tay.

   Chiếc kỉ, thúng khâu, chiếc áo đang khâu dở là bằng chứng chứng minh cho tình cảm thủy chung, hiền dịu của người vợ yêu chồng nhưng giờ đây lại bị coi là chứng cứ của sự thất tiết. Sự đảo lộn đột ngột đó đã làm cho trái tim đa cảm của Thị Kính đau đớn, bàng hoàng. Tâm sự của nàng thể hiện qua điệu sử rầu và nói thảm:

Thương ôi! Bấy lâu nay sắt cầm tịnh hảo
Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi.

   Một bên là những kỉ niệm hạnh phúc của tình vợ chồng, một bên là khoảnh khắc chớp nhoáng của sự tan vỡ, chia lìa. Lời thoại gợi lên rất rõ hình ảnh một người con gái bị hàm oan đang vô cùng đau khổ và bơ vơ trước cuộc đời vô định. Thị Kính đột ngột bị đẩy vào tình thế éo le: Biết đi đâu ? Về đâu bây giờ? Đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến tránh sao khỏi cảnh Lênh đênh chiếc bách giữa dòng?!

   Trong nỗi đau tình vợ chồng chia cắt, nỗi nhục khi phẩm giá bị chà đạp, sự ê chề khi khong bảo vệ được người cha già bị gia đình chồng sỉ nhục, Thị Kính vẫn giữ bản chất chân thật, hiền lành, giữ phép tắc luân lí của đạo dâu con. Người đọc càng xót thương, Thị Kính bao nhiêu thì càng căm ghét sự bất nhân bất nghĩa của gia đình Sùng bà bấy nhiêu.

   Kết thúc đoạn trích nỗi oan hại chồng là cảnh Thị kính cúi lạy cha rồi nói lên nguyện vọng của mình là sẽ giả trai để bước vào cửa phật tu hành. Con đường giải thoát của Thị Kính có hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là Thị kính xác định phải sống ở đời, mới mong tỏ rõ là người đoan chính. Mặt tiêu cực là nàng cho rằng mình khỏ do số kiếp đã định, do phận hẩm duyên ôi, nên tìm vào cửa Phật để lánh đời. Thái độ của Thị Kính thiếu cái khỏe khoắn, lạc quan, dũng cảm của những người vợ nghèo trong ca dao. Nàng không dám đứng lên chống lại những oan trái bất công, chưa đủ bản llinhx vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã, trái lại đã cam chịu bằng sự nhẫn nhục đáng thương. Phản ứng của Thị Kính mới chỉ dừng lại ở lời trách móc số phận và ước muốn lòng dạ ngay thẳng của mình được nhật nguyệt sáng soi.

   Vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và đoạn trích Nỗi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống, thể hiện chân thực cuộc sống bi thảm, bế tắc của nhiều số phận, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cao quý của người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến xưa kia.

Dàn ý Phân tích Quan Âm Thị Kính

I. Mở bài phân tích vở chèo Quan Âm Thị Kính:

- Giới thiệu khái quát về thể loại chèo (khái niệm, khái quát các đặc trưng cơ bản của thể loại…)

- Giới thiệu về vở chèo “Quan Âm Thị Kính” và trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” (tóm tắt, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật…)

II. Thân bài phân tích vở chèo Quan Âm Thị Kính:

1.Thị Kính xén râu mọc ngược dưới cằm cho chồng:

- Khung cảnh gia đình:

+ Chồng dùi mài kinh sử để nhập hội long vân

+ Vợ ngồi khâu quần áo, dọn kỉ cho chồng, quạt cho chống nghỉ

+ Khung cảnh gia đình ấm cúng, hạnh phúc. Thị Kính dịu dàng, hết mực thương yêu, quan tâm chồng

- Thị Kính thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng:

+ Tâm trạng: băn khoăn

+ Suy nghĩ: trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta, dạ thưa chồng lòng thiếp sao an

+ Hành động: cầm dao khâu xén chiếc râu

-Thiện Sĩ giật mình tỉnh giấc, kêu lên

2.Thị Kính bị nhà chồng vu oan và phải theo cha về nhà:

- Thiện Sĩ: vừa chợp mắt đã thấy dao kia kề cổ

- Sùng bà:

+ Nói về nhà mình: giống nhà bà đây giống phượng giống công, nhà bà đây cao môn lệnh tộc, trứng rồng lại nở ra rồng. Khoe khoang, hãnh diện, vênh váo.

+ Nói về Thị Kính: liu điu lại nở ra dòng liu điu, mày là con nhà ốc, cả gan say hoa đắm nguyệt, dụng tình bất trắc, gái say trai lập chí giết chồng, mặt trơ như mặt thớt,… Coi thường, dè bỉu, khinh bỉ, mắng nhiếc, lăng nhục.

+ Hành động: dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính ngửa đầu lên, không cho Thị Kính phân bua, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống… Thô bạo, tàn nhẫn.

- Thị Kính:

+ Hết lời phân bua, minh oan cho bản thân nhưng không được

+ Hành động: theo cha về nhà, đi theo cha mấy bước, quay vào nhìn từ tràng kỉ đến sách, thúng khâu, cầm chiếc áo đang khâu dở bóp chặt trong tay

3.Thị Kính từ biệt cha mẹ, giả dạng nam nhi tu hành:

- Cuộc sống sau khi bị oan:

+ Sát hại chồng nên không thể ở lại nhà được

+ Xấu hổ không về được nhà cha mẹ

+ Không thể lấy người khác

+ Bỏ đi xa thì mang tiếng không đoan chính

+ Minh oan không ai tin

+ Thị Kính rơi vào đau khổ, bế tắc

+ Thị Kính quyết định giả dạng nam nhi để đi tu

- Ý nghĩa hành động đi tu của Thị Kính:

+ Tích cực: Thị Kính muốn sống để tỏ rõ mình là người đoan chính

+ Tiêu cực: Thị Kính không tìm ra nguyên nhân nỗi khổ của mình,không đấu tranh mà nhẫn nhịn, cam chịu

III. Kết bài phân tích vở chèo Quan Âm Thị Kính:

- Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của cả vở chèo nói chung và trích đoạn nói riêng.

- Cảm nhận của bản thân về vở chèo.

Phân tích Quan Âm Thị Kính - mẫu 2

Việt Nam nổi tiếng với nhiều các thể loại văn hóa dân gian độc đáo, đặc trưng cho mỗi vùng miền trên đất nước, ví như vùng Nam Bộ có đờn ca tài tử ngọt ngào, Huế có điệu Nam ai, Nam bằng say đắm lòng người, xứ Nghệ Tĩnh có câu hò ví dặm, đất Bắc Ninh có dân ca quan họ đậm tình truyền thống, thì cả vùng Bắc Bộ lại có những thể loại ca kịch đã lưu truyền biết bao đời này ấy là cải lương, chèo, tuồng,... Tuy nhiên do sự phát triển mạnh mẽ của nền âm nhạc hiện đại, đến ngày hôm nay các thể loại này dẫu đặc sắc mang nhiều dấu ấn truyền thống của dân tộc thế nhưng cũng dần bị mai một. Trong đó nhắc đến chèo có lẽ vở Quan âm Thị Kính đã từng in sâu trong trí óc của không ít người dân Việt Nam, trở thành vở kịch kinh điển của chèo Việt Nam và từng được diễn đi diễn lại rất nhiều lần trên các sân khấu lớn nhỏ khác nhau, thu về sự tán thưởng của khán giả bởi nội dung sâu sắc và ý nghĩa nhân văn tốt đẹp mà nó gửi gắm.

Vở Quan âm Thị Kính có nguồn gốc từ một mẩu chuyện cổ tích cùng tên, chủ yếu xoay quanh trục bĩ cực - thái lai của kiếp nhân sinh, tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, tài năng đức độ để mọi người trông đó mà noi theo. Cảm thông với số phận người lao động, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ, đề cao phẩm chất và tài năng của họ. Đồng thời cũng lên án, tố cáo, đả kích một cách mạnh mẽ những oan trái, bất công và con người cường quyền xấu xa trong xã hội cũ. Quan m Thị Kính là câu chuyện kể về Thị Kính một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, nhưng lại có xuất thân bần hàn, được gả vào nhà phú ông giàu có, rồi bị vu tội giết chồng. Sau giả trai đi tu những tưởng đã thoát được nợ hồng trần thì lại vướng vào mối oan nghiệt với Thị Mầu, bị vu tội làm Thị Mầu chửa hoang, rồi bị đuổi khỏi chùa. Thị Kính lại tiếp tục nuôi con của Thị Mầu, cho đến khi chết thì được lên tòa sen trở thành Quan Thế âm bởi tấm lòng đức độ, hy sinh, để tạo phúc cho muôn dân.

Đoạn trích Nỗi oan hại chồng, là phần đầu tiên của tác phẩm kể về việc Thị Kính bị đổ oan giết chồng, rồi bị nhục mạ, xúc phạm và đuổi về nhà mẹ đẻ trong nỗi đớn đau tủi nhục, có oan khuất mà kêu trời trời không thấu, kêu đất đất không nghe. Trước hết nói về nhân vật Thị Kính, nhân vật chính của tác phẩm, trước hết chưa nói đến ngoại hình thế nhưng ta đã thấy hiện lên Thị Kính là một người phụ nữ tỉ mỉ, săn sóc và hết mực yêu thương chồng con. Sự tỉ mỉ ta có thể thấy ở việc nàng cẩn thận ngắm dung nhan chồng, rồi chợt phát hiện ra một sợi râu nhỏ mọc ngược, lòng săn sóc, yêu thương chồng là ở cách Thị Kính suy nghĩ cầm quạt quạt cho chồng an giấc, lại cẩn thận suy nghĩ đến thể diện của chồng với chiếc râu mọc ngược (vốn cái gì ngược ngạo cũng dễ cản trở cuộc sống). Và đặc biệt tình yêu thương ấy được thể hiện rất rõ nét trong câu hát của nàng rằng "Dạ thương chồng lòng thiếp sao an".

Tuy nhiên tình yêu, sự một lòng ấy của nàng lại trở thành tai vạ, đôi lúc thiết nghĩ Thị Kính vì quá thương chồng thành ra nghĩ chẳng chu toàn, lại mất đi cái cẩn thận. Phải chăng nàng đợi chồng dậy rồi nói về chiếc râu, rồi với cắt thì có lẽ tình cảm vợ chồng lại càng trở nên khăng khít chứ chẳng đến nỗi. u cũng phải nói rằng sự chịu đựng, hy sinh âm thầm của người phụ nữ xưa đôi lúc đã trở thành cái cớ khiến họ khổ sở cả một đời. Đến khi bị vu tội giết chồng, thì Thị Kính lại tỏ rõ là một người phụ nữ yếu đuối, tội nghiệp, nàng cũng từng nhiều lần mở miệng thanh minh với cha mẹ chồng và với chồng, thế nhưng đáng thương cho kiếp đàn bà, lại còn là kiếp nghèo khó thế nên người ta cứ mặc nhiên là nàng âm mưu giết chồng vì trót có lang chạ với ai.

Như vậy, ngay trong trích đoạn này ta đã thấy được thông qua lời buộc tội của Sùng bà, thì Thị Kính đã phải gánh trên lưng hai nỗi oan khuất, thứ nhất là giết chồng, thứ hai ấy là tội bất trung, bất trinh, lén lút tư tình với kẻ khác. Mà đối với người phụ nữ ngày xưa, vướng phải hai tội ấy thì coi như thanh danh cả đời đem bỏ, phải chịu bị người đời phỉ nhổ, cuộc đời về sau coi như hết. Đến cao trào của phần Nỗi oan hại chồng ấy là cảnh Sùng ông gọi Mãng ông đến, nói kháy và đuổi trả Thị Kính về nhà mẹ đẻ. Lúc này đây Thị Kính đứng trước viễn cảnh vô cùng đớn đau, bị nhà chồng ruồng bỏ lại phải gánh trên lưng hai nỗi oan khó lòng hóa giải, khiến nàng vô cùng đau khổ. Trước là đau xót nối duyên vợ chồng mới bén chưa lâu đã đứt gánh giữa đường, sau là nhìn đến tương lai cuộc đời nếu có trở về nhà thì cũng phải gánh điều tiếng xấu xa cả đời. Thị Kính với tấm lòng hiếu thảo, thương xót cha mẹ, không muốn để cha mẹ trở thành nơi cho người ta bàn ra tán vào, tuổi già lại còn phải chịu uất ức, một phần là nàng muốn lánh đi để quên hết sự đời.

Thế nên ngay lúc trên đường trở về nhà cùng Mãng ông nàng đã giãi bày với cha xin được giả thân trai lên chùa đi tu, chấm dứt hết mọi đau khổ. Điều đó thể hiện sự tuyệt vọng và chán chường của Thị Kính với cuộc đời, với người chồng mình hết lòng thương yêu, thế nhưng trong suốt buổi chàng ta đã chẳng hề lên một tiếng thanh minh cho mình. Bên cạnh đó cách xử sự của Thị Kính cũng là biểu hiện của sự bất lực, đớn đau của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến quá hà khắc, nơi mà người quyền thế giàu sang trở thành kẻ định đoạt số phận cuộc đời của những kẻ nghèo hèn bằng những lý do, những suy luận trái khuấy oan nghiệt.

Nhân vật thứ hai có đóng góp vô cùng quan trọng, đóng vai trò đẩy vở kịch lên cao trào đó chính là Sùng bà, nhân vật mụ ác tiêu biểu trong thể loại chèo. Trong Nỗi oan hại chồng, Sùng bà chính là nhân vật có nhiều thoại nhiều cảnh hát và nói lệch nhất, có thể nói đây chính là nhân vật tiêu biểu cho giai cấp thống trị trong xã hội cũ. Sùng bà hiện lên với dáng vẻ độc ác, cay nghiệt vô cùng, lời thoại nhiều và dài, thậm chí liên tục cắt lời minh oan của nhân vật Thị Kính. Khi mới nghe con trai là Thiện sĩ tố Thị Kính toan giết mình, Sùng bà đã lập tức tin ngay và mặc định đó là sự thật không thể chối cãi, sự ghê gớm độc ác thể hiện qua việc bà ta quay sang gắt và trách móc chồng việc chọn dâu con, thứ hai nữa là hành động đẩy ngã Thị Kính đang đứng ở một bên rồi liên tục dùng lời lẽ nhiếc móc.

Trong lời lẽ cay nghiệt của nhân vật này ta có thể nhận ra rất rõ sự phân biệt tầng lớp, giàu nghèo sâu sắc, đem ví nhà mình là giống phượng, giống công, trái lại ví Thị Kính là dòng mèo mả gà đồng không ra gì. Không chỉ vậy sự độc ác của Sùng bà còn thể hiện ở những lời lẽ đay nghiến, bịa chuyện vu oan cho Thị Kính tằng tịu với trai, cho rằng nàng giết chồng để thuận việc chăng hoa mặc dầu điều đó là không hề có. Bên cạnh đó ta thấy rằng lời lẽ của nhân vật này không tầm thường, chuyên lấy chuyện ví von so sánh để làm câu chữ cho mình ra sức nhiếc móc Thị Kính, khiến Thị Kính không thể minh oan, cũng không thể nào giải thích. Và cuối cùng Sùng bà đã đưa vở kịch lên cao trào bằng việc lệnh cho chồng gọi Mãng ông để trả Thị Kính trở về nhà mẹ với hai tội giết chồng và lăng loàn.

Những nhân vật phụ khác góp phần làm cho vở chèo thêm sống động và nhiều màu sắc bao gồm Thiện Sĩ, nhân vật thư sinh điển hình, là chồng của Thị Kính, chỉ có thoại trong phần mở đầu. Thông qua đó ta có nhận xét rằng đây là một nhân vật có tính cách nhu nhược, thiếu sáng suốt, không có tiếng nói trong gia đình, rõ ràng đã chung sống với Thị Kính lau thế nhưng vẫn không rõ tính cách của vợ, lại đi cho rằng vợ giết mình. Không chỉ vậy khi thấy vợ kêu oan cũng không nảy lòng ngờ mà xem xét lại sự tình, chỉ một mực im lặng, để cho Sùng bà tự biên tự diễn, cuối cùng mặc cho vợ mình bị đuổi ra khỏi nhà. Nhân vật thứ hai chính là Sùng ông, đây là một người cũng có tính cách giống Thiện Sĩ, nhu nhược, sợ vợ, không có quyền quyết định, lại tối ngày lơ mơ trong rượu chè cờ bạc, chẳng được tích sự gì, và cũng dễ dàng bị Sùng bà dắt mũi. Cuối cùng là nhân vật Mãng ông, cha của Thị Kính là một người nông dân tội nghiệp, chân chất, thật thà và nghèo khổ. Tuy nghe Thị Kính bị vu tội giết người, lăng loàn và bị đuổi ra khỏi nhà, thế nhưng nghe con gái kêu oan ông đã tin tưởng và có ý dẫn con về nhà, từ đó có thể thấy đây là một nhân vật có tấm lòng thương con vô hạn, dẫu có xảy ra chuyện gì cũng vẫn muốn bảo bọc cho con gái mình.

Như vậy kết lại, Quan âm Thị Kính nói chung cũng trích đoạn Nỗi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu trong sân khấu chèo truyền thống, trở thành dấu ấn đặc sắc trong nền văn hóa nghệ thuật dân gian của Việt Nam ta. Nó không chỉ thể hiện được vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ, mà còn là nỗi đau đớn về số phận éo le và bế tắc của họ trong cuộc sống gia đình, trong hôn nhân và trong xã hội phong kiến quá đỗi hà khắc. Đồng thời cũng lên án, phê phán sâu sắc những cái ác, cái oan nghiệt trong xã hội cũ dẫn tới bi kịch của người phụ nữ.

Phân tích Quan Âm Thị Kính - mẫu 3

Trong những tác phẩm chèo cổ, thì vở “Quan âm Thị Kính” có sức sống khá lớn trong lòng người xem, bởi những nhân vật trong tác phẩm có tính cách vô cùng độc đáo. Trong đó, nhân vật Thị Kính khiến cho người xem cảm thấy xót xa, ám ảnh bởi những nỗi oan quá lớn mà người phụ nữ này phải gánh chịu trong cuộc sống của mình.
Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” kể về sự oan ức của Tiểu Kính Tâm khi cô là người phụ nữ yêu chồng, hiếu thuận với gia đình chồng nhưng lại bị nghi oan là có âm mưu giết hại chồng, khiến cô đau đớn như muốn chết đi.Thị Kính là người phúc hậu, đoan trang. Cô hết sức chăm sóc cho gia đình chồng, một lòng chung thủy trước sau như một làm tròn bổn phận của người vợ, người dâu hiền trong gia đình quán xuyến công việc.
Nhưng rồi một hôm khi chồng đang ngủ say, Thị Kinh thì ngồi thêu thùa đan áo cho chồng, nàng ngồi ngắm khuôn mặt chồng mình và giật mình có một sợi râu mọc ngược trông không mấy thẩm mỹ.
Nghĩ vậy Thị Kính liền lấy kéo để cắt giúp chồng nhưng không may đúng lúc đó chồng của Thị Kính tỉnh giấc nhìn thấy vợ cầm kéo định tiến về phía mình cho rằng vợ mình toan giết chồng .
Nên anh chồng vô cùng giận dữ. Mọi hiểu lầm bắt đầu nỗi oan ức của Thị Kính cũng xuất phát từ đây. Nghe thấy con trai kêu thất thần thì bố mẹ chồng Thị Kính cũng chạy vào, nhìn thấy nàng cầm kéo, rồi lại nghe con trai nói là Thị Kính định giết mình thì lập tức tin lời không cần đối chất.
Mẹ chồng Thị Kính là người phụ nữ đanh đá, mồm miệng khá hoạt ngôn, bà ta thấy tình hình như vậy liền hô hoán cho người dân xung quanh, hàng xóm láng giềng nghe thấy rồi vu oan cho con dâu tội giết chồng
Nỗi oan của Thị Kính chồng chất lên nhau, khiến nàng sống cảnh tủi hổ, bị hắt hủi ghẻ lạnh. Bố mẹ chồng không tin nàng thì đành chịu, bởi ông bà không hiểu chuyện, hơn nữa mẹ chồng nàng dâu thường có bất hòa trong cuộc sống, hai người phụ nữ khi cùng làm hoàng hậu một gia đình thì thường xảy ra mâu thuẫn. Mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu xưa nay vẫn thế.
Nhưng, người chồng đầu ấp má kề, người ngày ngày cùng chung chăn gối với Thị Kính mà cũng không hiểu bản chất, tâm địa nàng tốt hay xấu, thương chồng thật lòng hay không thì thật là khó hiểu.
Một người chồng sống cùng vợ mỗi ngày mà không tin tưởng vợ, không bảo vệ vợ mà lại vu oan cho vợ có âm mưu giết mình rồi hô hoán bố mẹ khiến mọi chuyện trở nên bi kịch khó giải quyết hơn rất nhiều khi chỉ có hai người mà thôi.
Xã hội phong kiến là một xã hội trọng nam khinh nữ nên quyền lên tiếng của người phụ nữ dường như chỉ là không mà thôi. Sự oan ức của Thị Kính thật sự là vô cùng bi ai, người xem cảm thấy nhân vật chồng Thị Kính (Thiện Sĩ) có chút tàn nhẫn, vô tâm.
Anh ta là người có học, ngày đêm dùi mài kinh sử nhưng lại không có trái tim nhân hậu, không có sự rộng lượng bao dung thấu hiểu tâm sự của người con gái sống bên cạnh mình, thờ ơ với nỗi oan của vợ. Thật sự đáng trách.
Những mâu thuẫn của Thị Kính khi bị mẹ chồng thường kiếm cớ la mắng, bắt nạt đáng ra làm chồng anh ta phải lên tiếng can ngăn mẹ mình, hoặc hòa giải hai người nhưng anh ta yên lặng để cho mẹ mình hành hạ Thị Kính điều này cho ta thấy anh ta không thương yêu Thị Kính mà chỉ coi cô là người giúp việc trong gia đình thì đúng hơn.
Số phận của Thị Kính bi kịch không phải từ nỗi oan ghi giết chồng, mà bắt đầu từ ngày cô được gả cho Thiện Sĩ làm vợ, lấy nhầm chồng là nỗi oan lớn nhất đời cô chính vì lấy nhầm chồng mà bi kịch đời cô liên tiếp xảy ra.
Đoạn trích là một đoạn trích nhiều kịch tính thể hiện sự oan khuất của Thị Kính khi sống trong gia đình chồng, nỗi oan thấu trời khiến cho cô không thể nói gì mà chỉ biết câm lặng. Số phận của Thị Kính là số phận chung của người phụ nữ xưa.

Phân tích Quan Âm Thị Kính - mẫu 4

Quan Âm Thị Kính là một tích chèo quen thuộc với đông đảo công chúng độc giả Việt Nam. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời Thị Kính, một người con gái đức hạnh nhưng lại trải qua bao nỗi trái ngang. Ngay ở phần đầu vở diễn, chúng ta đã thấy "nhân vật Thị Kính không chỉ chịu khổ vì bị ngờ oan mà còn mang nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang, tàn ác khinh bỉ”.
Cuộc đời của Thị Kính là cuộc đời của những nỗi oan không có cách nào giải được. Những oan khiên ấy có lẽ bắt đầu từ cái ngày mà Thị Kính đặt chân về nhà chồng. Thị Kính là con gái Mãng ông, gia đình cô là một gia đình nông dân nghèo thực sự. Thế nhưng cô lại lấy Thiện Sĩ, con của một gia đình giàu có trong vùng. Cuộc hôn nhân không "môn đăng hậu đối" ấy dường như là điềm báo trước những nỗi oan khiên và là căn nguyên bắt đầu mọi việc.
Mối oan "hại chồng” của Thị Kính bắt đầu từ một hành động tình ngay nhưng lý gian. Nàng bị bắt gặp khi đang cầm dao kề lên cổ của chồng. Dù đã hết mực ra sức biện minh, thế nhưng không một ai trong gia đình của Sùng Ông, Sùng Bà muốn tin rằng: Thị Kính đang dùng đao để cắt Sợi râu mọc của chồng. Câu chuyện cứ thế được đẩy lên khiến Thị Kính bị rơi vào một nỗi oan không sao giải được
Nỗi oan của Thị Kính được kết thành từ sự hiểu lầm cố ý của gia đình Thiện Sĩ, nhất là của Sùng Bà. Thế nhưng ẩn đằng sau cái hình thức ấy, thực sự có một lý do khác lớn hơn. Đọc những lời độc thoại mà Sùng Bà nói với Thị Kính (những quy kết có tính chất một chiều), chúng ta thấy có nhiều câu thể hiện rõ sự phân chia đẳng cấp. Sùng Bà (gắt Sùng Ông):
"… Lấy vợ cho con thì phải kén họ. Tôi đã bảo là phải kén những nơi công hầu kia mà!
Giống phượng giống công
Giống nhà bà đây giống phượng giống công
Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ…"
Hoặc:
“Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu đìu lại nở ra dòng liu điu
Này Ị Nhà bà đây cao môn lệnh tộc
Mày là con nhà cua ốc
Cho nên chữ tam tòng mày ăn ở đơn sai"…
Lời của Sùng Bà quả là vô cùng độc đoán và cay độc. Nó thể hiện rõ sự tàn ác dã man của những kẻ giàu sang quyền thế. Cái cách mà Sùng Bà đổ tội cho Thị Kính cũng vậy. Nó hoàn toàn chỉ là những phán quyết có tính chất một chiều theo kiểu chủ nhà – con ả ở trong màn ấy Thị Kính cũng bị đẩy từ vị trí một người con dâu xuống thân phận một đứa ở trong nhà. Nàng chỉ biết ngậm đắng cay mà không thể có cách nào cự được.
Sự phân biệt giàu sang – nghèo hèn trong đoạn trích "Nỗi oan hại chồng" đã biến Sùng Bà thành một vị quan tòa đổ lên đầu Thị Kính bao nhiêu tội trọng. Không những thế đến như nhân vật Sùng Ông (một người suốt ngày say rượu) mà còn bày ra trò lừa bịp: mời Mãng Ông sang ăn cữ cháu để cùng với vợ giày vò nổi đau của hai bố con đứa con dâu. Hành động của Sùng Ông với cha con Thị Kính cũng là một chi tiết quan trọng chứng tỏ sự phân biệt sang hèn giữa hai gia đình là vô cùng sâu sắc. Nó như là một điểm nhấn đẩy nỗi oan khiên của Thị Kính càng lúc càng đến chỏ cao hơn.
Như vậy rõ ràng ở đoạn đầu của vở chèo này, nỗi đau của Thị Kính không chỉ là nỗi oan của một cô gái bị ghép vào tội "giết chồng". Nỗi đau ấy còn là nỗi đau câm lặng của thân phận con ong cái kiến. Cái nghèo và sự thấp hèn đã khiến Thị Kính không thể có lời nào để tự minh oan. Nó đẩy Thị Kính đến bên bờ vực và cướp đi toàn bộ cái ước mơ hạnh phúc của người con gái đức hạnh, thủy chung. Nỗi oan của Thị Kính vì thế mà còn tiêu biểu cho bao kiếp người lầm than nhỏ bé khác trong xã hội phong kiến lạc hậu ngày xưa.

Phân tích Quan Âm Thị Kính - mẫu 5

Thân phận người phụ nữ luôn là đề tài được các nhà văn, nhà thơ hướng tới cho những tác phẩm của mình, người phụ nữ được nhắc đến với số phận không mấy tốt đẹp, phải chịu đựng nhiều áp bức và không được đấu tranh cho quyền lợi của bản thân. Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” là minh chứng cho điều đó, đoạn trích kể về nhân vật Thị Kính phải mang nỗi oan giết chồng gây nên nhiều đau khổ và hiểu lầm trong chính gia đình của mình.
Hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh Thị Kính đoan trang, phúc hậu, nết na, luôn chăm lo cho gia đình của mình, một con người chịu thương chịu khó biết cách gây dựng tổ ấm của gia đình. Một hình ảnh một con người với những nét đẹp như thế thường gắn liền với những nốt bất hạnh khi sống trong xã hội xưa mục nát. Rồi việc gì đến cũng đến, nỗi oan mà Thị Kính vướng phải chính là từ sợi râu mọc ngược của chồng mình, từ việc râu mọc ngược mang ý nghĩa xấu, suy nghĩ cho chồng, cho gia đình mà định cắt sợi râu đó đi, ai ngờ hành động đó của cô khiến chồng cô và cả gia đình, đặc biệt là Sùng bà nghi ngờ cô muốn hại chồng mình. Trong xã hội xưa thì đó là hành động không thể tha thứ, một trong những tội lớn nhất mà xã hội đề ra.
Đối với Thị Kính không thể thanh minh hay giải oan cho bản thân mình bởi lẽ đối với Sùng bà thì cô như là cái gai trong mắt, Sùng bà đã có ác cảm với cô từ rất lâu thế nên nay có cơ hội này Sùng bà có được cái cớ để nhục mạ cô, có những lúc Sùng ông đã lắng nghe những lời nói của cô nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức lắng nghe chứ không dám dùng hành động để căn ngăn, hay dùng lời nói để giải thích giúp cô bởi chính Sùng ông cũng rất sợ Sùng bà. Xã hội xưa là một xã hội “Trọng nam khinh nữ” nhưng đối với Sùng ông thì lại khác, ông không hề có quyền hành gì ở trong nhà cả, tất cả mọi thứ đều dưới sự chỉ đạo của Sùng bà. Cùng một gia đình như thế nhưng đối với Thị Kính lại đối lập hoàn toàn, cô chịu sự chi phối của chồng, của gia đình mà không hề có một chút tiếng nói nào trong gia đình, điều này đã làm nổi lên mâu thuẫn giữa mẹ chồng nàng dâu gay gắt vô cùng, hơn thế nữa là sự mâu thuẫn giữa những giai cấp trong xã hội, nhiều khi thân phận nam hay nữ không mấy quyết định đến số phận của họ, mà phần lớn là giá trị mà con người có được trong xã hội đó. Sự phân cấp giai cấp rõ nét được thể hiện, Sùng bà đại diện cho giai cấp thống trị còn Thị Kính đại diện cho giai cấp bị trị, cùng là thân phận người phụ nữ nhưng mỗi người sống với một vai trò khác nhau, sự áp bức, khinh miệt mà Sùng bà dành cho Thị Kính là minh chứng rõ nhất cho điều đó.
Đối với Thị Kính nỗi oan mà khiến cô đau đớn nhất không phải là nỗi oan giết chồng, cũng chẳng phải những nỗi oan mà Sùng bà làm nhục cô mà chính là nỗi oan từ sự thờ ơ lạnh nhạt của chồng, nỗi oan từ chính người mà cô thương yêu, lo lắng cho nhất, người mà cô dành cả cuộc đời của mình để nương tựa, dựa dẫm thì chính là người đem đến sự tủi nhục, oan uất cho cô. Những lời la mắng cay nghiệt của mẹ chồng, cùng với những đòn roi mà mẹ chồng đem lại không đau bằng thái độ mà người chồng mình dành cho mình, cuối cùng cái cô nhận được là tan vỡ hạnh phúc gia đình, bị đuổi ra khỏi nhà với nỗi oan cả đời không rửa sạch được.
Đoạn trích đã khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa, không được sống là chính mình, không có tiếng nói riêng, không được đem lại hạnh phúc cho bản thân, sống dựa vào người khác, mang những nỗi oan, nỗi ấm ức không thể thanh minh do chính xã hội đem lại.

Phân tích Quan Âm Thị Kính - mẫu 6

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là phần đầu vở chèo Quan Âm Thị Kính. Màn chèo này có 3 cảnh. Cảnh 1:Thiện Sĩ đọc sách, Thị Kính ngồi khâu áo. Thiện Sĩ thiu thiu ngủ, Thị Kính quạt cho chồng. Thị Kính cầm dao cắt chiếc râu mọc ngược ở cằm chồng. Thiện Sĩ chợt tỉnh, túm lấy con dao rồi kêu to lên. Sùng ông và Sùng bà hốt hoảng chạy ra. Cảnh 2:Sùng bà và Sùng ông chửi mắng Thị Kính thậm tệ, vu cho Thị định giết chồng. Thị Kính khóc lóc và kêu oan. Cảnh 3:Sùng ông đi gọi Mãng ông sang. Mãng ông bị Sùng ông dúi ngã. Thị Kính bị đuổi về cha mẹ đẻ. Hai cha con ôm nhau than khóc. ThịKính cất tiếng than và thổ lộ “quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành”. Chân trời sớm rạng đông khi Thị Kính bước ra khỏi nhà họ Sùng.

Nhân vật Sùng bà là một vai hề rất sống, rất ghê gớm. Tuy có đủ mặt năm nhân vật, nhưng xung đột chủ yếu thể hiện qua hai nhân vật: Sùng bà và Thị Kính. Trong chèo, Sùng bà thuộc loại nhân vật ác, từ ngôn ngữ đến cử chỉ, hành động của mụ rất tàn nhẫn, độc địa. Mụ mạt sát Thị Kính là “mặt sứa gan lim” định giết con bà. Mụ chửi Thị Kính là tuồng “mèo mả gà đồng” rất “lẳng lờ”. Thị Kính càng vật vã kêu khóc thì mụ càng lồng lên dữ dội, nanh ác. Mụ xỉa xói Thị Kính là “cả gan”, là kẻ hư hỏng “say hoa đắm nguyệt”, “trên dâu dưới Bộc”..., là “gái say trai lập chí giết chồng”. Mụ đòi “chém bổ băm vằm” Thị Kính. Mụ xỉ vả Thị Kính “mặt gái trơ như mặt thớt”, không biết “tam tòng tứ đức”, không sợ “gươm trời búa nguyệt”.

Sùng bà rất tàn nhẫn và độc ác, mụ quyết tâm đuổi Thị Kính về nhà, như “ngựa bất kham thôi phó về Bồng Bảo”, như “Đồng nát thì về Cầu Nôm- Con gái nỏ mồm thì về ở với cha”. Mụ vênh váo tự hào gia thế bà là cao sang quyền quý, thuộc loại “cao môn lệnh tộc”, “trứng rồng lại nở ra rồng”. Mụ hạ nhục Thị Kính là “con nhà cua ốc”, “liu điu lại nở ra liu điu”. Sùng bà mắng Sùng ông, chồng bà là kẻ nát rượu, “lúc nào cũng rượu, lúc nào cũng say”, ăn nói thì “lèm bèm lèm bèm...”. Mụ nạt và ra lệnh cho Thiện Sĩ: “Đi! Đi vào!”. Mụ nhắc Thiện Sĩ “vào rửa mặt mà đọc sách” mụ hứa lấy cho con trai mụ “dăm vợ” (mụ có biết đâu cậu quý tử của mình, tuy theo đòi bút nghiên nhưng chỉ là một kẻ nhu nhược, hồ đồ và đần!). Sùng bà ra lệnh cho Sùng ông đi gọi Mãng ông đến để trả Thị Kính. Mụ tàn nhẫn dúi tay xô ngã Thị Kính khi Thị Kính chạy theo mụ van xin.

Có thể nói, nhân vật Sùng bà được xây dựng rất sống. Ngôn ngữ của mụ độc địa, mụ cũng ví von, cũng sử dụng tục ngữ ca dao, mụ cũng nói chữ, cũng chửi mắng, mạt sát rất thô lỗ tục tằn. Mụ cùng con trai dựng chuyện không đâu vào đâu, rất vu vơ để vu oan cho Thị Kính âm mưu hại chồng, đang tâm và tàn nhẫn đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng bà là hiện thân mụ ác, một vai chèo rất sống, một người đàn bà giàu có, hợm hĩnh, độc ác và tàn nhẫn. Nhân vật Thị Kính là một vai hề đau khổ, đáng thương.

Nhân vật Thị Kính rất đáng thương. Nhờ có nhan sắc, tuy nhà nghèo mà Thị Kính lấy được chồng là một nho sinh, con nhà giàu có. Thị đã hành xử một cách tùy tiện, đơn giản là lấy dao khâu cắt râu chồng lúc chồng nằm ngủ, nên đã gây ra bi kịch “nỗi oan hại chồng”. Trong trích đoạn, 6 lần Thị Kính khóc lóc, van xin. Bốn lần khóc, van lạy Sùng bà: "... Oan cho con lắm mẹ ơi!”, “Mẹ xét tình con, oan con lắm mẹ ơi!”... Thị Kính càng khóc lóc van xin càng bị Sùng bà chửi mắng độc địa, dúi cho ngã khuỵu xuống. “Oan này còn một kêu trời, nhưng xa” (Nguyễn Du). Bị vu oan cầm dao hạichồng, bị đuổi về nhà cha mẹ đẻ, đó là nỗi đau khổ, tủi nhục tột cùng của Thị Kính, rủa người phụ nữ nghèo hèn trong xã hội cũ. Hình ảnh Mãng ông bị Sùng ông dúi ngã, Thị Kính ôm lấy cha, cả hai cha con cùng khóc là hình ảnh đau khổ và thương tâm cho thân phận những kẻ nghèo hèn.

Thị Kính kêu với Thiện Sĩ: “Oan thiếp lắm chàng ơi!”. Nhưng anh chồng đần nào có động lòng. Nỗi oan của Thị Kính chỉ được người cha cảm thông, san sẻ. Nghe con gái kêu khóc: “Cha ơi! Oan cho con lắm cha ơi!” thì Mãng ông cất lời than: “Con ơi! - Dù oan dù nhẫn chẳng oan - Xa xôi cha biết nỗi con thế nào!”

An ủi con gái, Mãng ông khuyên con đi về nhà, “về cùng cha con ơi!”. Cuối trích đoạn Nỗi oan hại chồng, Thị Kính cất lời than. Đau khổ về “tiếng mỉa mai” sao tránh khỏi! Trách duyên số, trách hai mẹ con Thiện Sĩ: “Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi”. Nàng cầu mong “nhật nguyệt rạng soi” cho nỗi oan, xin lạy cha lạy mẹ, và “quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành”. Cách hành xử ấy cho thấy Thị Kính đau khổ và bế tắc đến tột cùng. Cảnh chân trời chớm rạng đông khi Thị Kính lặng lẽ bước ra khỏi nhà họ Sùng là một cảnh tượng trưng nói lên một quan niệm, một niềm tin thánh thiện của nhân dân ta ngày xưa: con đường tu hành đi tới Phật là con đường sáng... Phải chăng đó cũng là điều mà Nguyễn Du đã nói đến trong Truyện Kiều: “Tu là cõi phúc, tình là dây oan”?

Nỗi oan hại chồng là tiếng kêu thương, đau khổ của người phụ nữ nghèo hèn trong xã hội cũ. Bị vu oan, vùi dập, bị xua đuổi, sống trong đau khổ. bế tắc. Trích đoạn chèo đầy nước mắt và tiếng kêu thương, giàu tình cảm nhân đạo. Xung đột kịch, tâm trạng và hành động nhân vật còn sơ lược, chưa sâu sắc. Đó cũng là hạn chế của chèo cổ dân tộc.

Phân tích Quan Âm Thị Kính - mẫu 7

Quan Âm Thị Kính là một trong những vở chèo nổi tiếng của dân tộc ta. Vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và đoạn trích Nỗi oan hại chồng nói riêng không chỉ là tác phẩm tiêu biểu cho sân khấu chèo mà tác phẩm còn phản ánh được những nỗi oan trái, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Quan Âm Thị Kính là vở chèo bao gồm ba phần: án giết chồng, án hoang thai và oan tình được giải – Thị Kính lên tòa sen. Trong mỗi phần đều nói lên số phận bi phẫn, cùng cực của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, bị đè nén, áp bức. Nhân vật Thị Kính có hai nỗi oan lớn nhất là: nỗi oan giết chồng và nỗi oan mang hoang thai. Đây là hai nút thắt chính của tác phẩm. Nếu án oan giết chồng nói về số phận Thị Kính trong quan hệ gia đình, thì án hoang thai lại thể hiện số phận Thị Kính trong mối quan hệ xã hội. Như vậy, án giết chồng là khởi đầu cho những tai họa mà Thị Kính phải chịu đựng sau này, đồng thời qua biến cố này những phẩm chất tốt đẹp của Thị Kính cũng được bộc lộ.

Đoạn trích bao gồm năm nhân vật chính: Thị Kính – người phụ nữ thùy mị, nết na, nữ chính trong tác phẩm. Sùng Bà – mụ ác, người mẹ chồng độc đoán, cay nghiệt. Sùng ông, Thiện Sĩ những kẻ nhu nhược, hai nhân vật phụ để làm nổi bật tính cách của các nhân vật chính. Xung đột chèo được thể hiện rõ nhất qua hai nhân vật Thị Kính và Sùng bà, đây là mối xung đột phổ biến trong xã hội: xung đột mẹ chồng nàng dâu. Nhưng đồng thời hai nhân vật này cũng đại diện cho hai giai cấp trong xã hội: Sùng bà thuộc tầng lớp trên (địa chủ phong kiến) còn Thị Kính tiêu biểu cho số phận thường dân nghèo khổ, bất hạnh, bởi vậy xung đột của họ về bản chất là xung đột giữa giai cấp thống trị và kẻ bị trị.

Vở chèo mở đầu bằng khung cảnh êm ấm, hạnh phúc của Thiện Sĩ và Thị Kính, nàng may vá, thêu thùa, chồng dùi mài kinh sử: “Đạo vợ chông trăm năm kết tóc… Âu dao bén, thiếp xén tày một mực”. Đoạn thơ đã cho thấy những nét đẹp phẩm chất của Thị Kính, là một người vợ hiền thảo, chăm chỉ khâu vá, chăm sóc chồng chu đáo (quạt cho chồng ngủ). Không chỉ vậy, nàng còn lại một người thương chồng, coi bổn phận của mình là làm cho chồng đẹp mặt: “Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta” cho thấy nàng quan tâm đến đạo vợ chồng, mong muốn thuận hòa để vẹn đạo phu thê. Bởi vì thương chồng nên nàng mới băn khoăn về chiếc râu lạ và cầm dao xén chúng đi. Nhưng khi nàng chưa kịp xén thì Thiện Sĩ choàng tỉnh giấc và kêu rằng nàng định giết chồng. Bao nhiêu ý định tốt đẹp của Thị Kính đã không được chồng và nhà chồng hiểu mà còn mang trên mình tội danh giết chồng.

Nàng chưa kịp thanh minh, giải thích, Sùng bà đã lớn tiếng mắng chửi, sỉ vả không tiếc lời, không chỉ vậy, bà ta còn đẩy Thị Kính ngã khụy. Bà ta không chỉ chửi mắng Thị Kính mà còn lăng mạ cả gia đình nàng. Sùng bà cho rằng nhà họ Sùng giống phượng giống công, cao môn lệnh tộc, trứng rồng lại nở ra rồng còn nhà Thị Kính là dòng giống mèo mả gà đồng, con nhà cua ốc, liu điu lại nở ra dòng liu điu, … Bà ta là kẻ độc đoán, tàn ác, không hề cho Thị Kính cơ hội phân trần, giải thích, đuổi nàng ra khỏi nhà một cách tàn nhẫn. Qua những lời lẽ đó, ta thấy rằng quan hệ giữa Sùng bà và Thị Kính không dừng lại ở quan hệ mẹ chồng nàng dâu mà trở thành mối quan hệ giai cấp, mụ là chủ còn Thị Kính là kẻ hầu hạ, đồ bỏ đi.

Trước những lời mẹ chồng đay nghiến, nhục mạ, Thị Kính vẫn hết sức nhún nhường, năm lần nàng thanh minh, kêu oan với mẹ chồng, bố chồng, một lần là với chính bố của mình. Nhưng những lời kêu oan của nàng đều trở nên vô ích, nó chỉ khiến cho Sùng bà càng trở nên phẫn nộ hơn. Sùng bà không cho nàng giải thích bởi bà không cần xem xét chuyện đúng sai, cái mà bà ta hướng tới là nhất quyết cho rằng Thị Kính là thủ phạm; thứ hai ranh giới giai cấp đã làm cho bà ta mờ mắt cùng với đó là bản chất độc ác, mất nhân tính nên không đếm xỉa những lời thanh minh của Thị Kính. Kêu oan với chồng cũng không thể giúp nàng thoát tội vì chồng nàng là kẻ nhu nhược, trước những lời lẽ hành động quá quắt của mẹ với vợ Thiện Sĩ chưa một lần bảo vệ nàng. Chỉ có Mãng ông là tin tưởng con gái nhưng ông cũng đành bất lực.

Kịch tính được đẩy lên cao nhất khi Mãng ông bị đẩy ngã và Thị Kính ôm cha khóc. Với chi tiết này đã cho thấy Thị Kính không chỉ đau khổ vì hôn nhân tan vỡ, bị đẩy ra khỏi nhà không thương tiếc. Mà nàng còn đau đớn khi cha đẻ của mình bị làm nhục.

Trước tình cảnh đó nàng chỉ còn một lối thoát duy nhất đó là ra đi. Trước khi đi nàng nhìn lại những kỉ vật của hai vợ chồng: chiếc kỉ, thúng sách, thúng khâu,… cái nhìn của nàng trở nên đau đớn, xót xa biết bao. Nàng đã lựa chọn giả trai đi tu làm lối thoát cho mình. Hành động đó cho thấy nàng đã bị đẩy đến bước đường cùng, phải tìm đến cửa Phật để nương nhờ. Đồng thời, ở đây nàng cũng mong rằng Phật tổ sẽ soi xét mà biết cho tấm lòng trinh bạch của nàng.

Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật chèo truyền thống. Xây dựng xung đột kịch lôi cuốn, hấp dẫn, xung đột kịch được đẩy lên đến cao trào. Xây dựng nhân vật tiêu biểu, đại diện cho giai cấp tầng lớp trong xã hội (Thị Kính – nông dân nghèo khổ; Sùng bà – địa chủ độc ác, bất nhân). Những làn điệu chèo phù hợp, giúp diễn tả tâm trạng, tính cách nhân vật. Nhân vật mang tính quy ước, thiện – ác phân chia làm hai tuyến rõ ràng.

Đoạn trích Nỗi oan hại chồng nói riêng và vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung đã khắc họa chân dung số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ có nhân cách, phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời, số phận đầy bất hạnh. Bên cạnh đó cũng lên tiếng vạch trần bộ mặt độc ác, bất nhân của những kẻ cầm quyền, địa chủ phong kiến.

Phân tích Quan Âm Thị Kính - mẫu 8

Chèo là loại hình nghệ thuật tiêu biểu cho văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Nhắc đến chèo, không thể không nhắc tới vở chèo “Quan âm Thị Kính”. Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” có lẽ chính là phần đặc sắc nhất trong tác phẩm. “Nỗi oan hại chồng” đã diễn tả sinh động, cụ thể tình cảnh bi thảm bế tắc của Thị Kính, đồng thời cũng là của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời.

“Nỗi oan hại chồng” nằm ở phần mở đầu của “Quan âm Thị Kính”. Đó là bi kịch đầu tiên trong cuộc đời Thị Kính – một nàng dâu ngoan hiền, nết na, thùy mị. Trong đoạn trích có 5 nhân vật, Thị Kính, Thiện Sĩ – chồng nàng, Sùng ông, Sùng bà là cha mẹ chồng nàng và Mãng ông – cha ruột của Thị Kính.

Mở đầu đoạn trích, tác giả tái hiện khung cảnh sinh hoạt đầm ấm của gia đình Thị Kính. Vốn là người vợ tần tảo, yêu thương chồng. Sau khi xong xuôi việc nhà, thấy chồng học bài thiếp đi, nàng ngồi quạt cho chồng ngủ. Bất ngờ thấy chiếc râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng lo lắng điềm chẳng lành nên lấy dao định cắt đi. Đúng lúc ấy, Thiện Sĩ tỉnh dậy. Thấy con dao trên tay vợ thì tâm chí rối bời, gọi mẹ ầm ĩ. Hành động đầy yêu thương săn sóc bỗng trở thành khởi nguồn của những bi kịch trong cuộc đời Thị Kính.

Sùng ông, Sùng bà nghe tiếng chạy lên. Chẳng cần hiểu rõ ngọn nguồn, Sùng bà đã ầm ĩ kêu to, sừng sộ khép cho Thị Kính tội giết chồng “Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à?” Bao nhiêu lời lẽ đay nghiến chửi rủa liên tiếp hướng vào Thị Kính. Bà ta trắng trợn vu cho nàng những tội tày đình ” Mày trót say hoa đắm nguyệt”, “Gái say trai lập chí giết chồng”, gieo rắc nỗi oan lên người Thị Kính.

Mặc cho Thị Kính kêu oan, bà ta vẫn hành động hết sức tàn nhẫn, thô bạo “dúi đầu Thị Kính xuống” rồi “bắt Thị Kính ngửa đầu lên”.

Thị Kính càng kêu thì oan càng lớn, mụ không cho Thị Kính cơ hội thanh minh, giải thích. Mụ nhẫn tâm đuổi thẳng con dâu ra khỏi nhà. Không chỉ bởi sự vu oan Thị Kính giết chồng mà còn đay nghiến Thị Kính là người đàn bà hư đốn, xấu xa, không xứng với con trai mụ:

Giống nhà bà đây giống phượng giống công
Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ
Nhà bà đây cao môn lệnh tộc
Mày là con nhà cua ốc
Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu
Đồng nát thì về Cầu Nôm
Con gái nỏ mồm về ở với cha…”

Trong lời nói của Sùng bà, các tác giả dân gian đã khéo léo sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đầy sinh động, tạo dựng một loạt hình ảnh sự vật trái ngược nhau. Từ đó nhấn mạnh sự tương phản, mâu thuẫn xung đột của câu chuyện. Sùng bà chửi rất nhiều song đều hướng tới tư tưởng phân chia giai cấp, phân biệt “cao – thấp”, “giàu – nghèo”.

Lời nói của Sùng bà không chỉ thể hiện sự lạnh lùng, vô tình mà còn có sự khắc nghiệt, kiêu căng của tầng lớp địa chủ, vừa là sự căng thẳng không thể hóa giải trong quan hệ mẹ chồng và nàng dâu. Thị Kính tuy đầy đủ đức hạnh mà lễ giáo phong kiến quy định nhưng vì là con nhà nghèo, nên không được Sùng bà chấp nhận.

Mâu thuẫn giữa Sùng bà với Thị Kính, hay giữa gia đình Sùng bà với Thị Kính và cha nàng không chỉ là mâu thuẫn hôn nhân, gia đình. Nó còn phản ánh mâu thuẫn giai cấp gay gắt trong xã hội phong kiến đương thời. Sùng bà chính là đại diện cho giai cấp địa chủ tàn ác, khoe khoang, hợm của, độc đoán và tàn nhẫn.

Không dừng lại ở đó, mụ là kẻ tạo ra “luật lệ” gia đình, thậm chí bắt cả chồng cả con phải nghe theo, phải nể sợ mình. Hình tượng Sùng bà hiện lên trong đoạn trích vô cùng sống động, gây nên nỗi ghê sợ, căm ghét sâu sắc cho người đọc, người xem

Đối lập hoàn toàn với nhân vật Sùng bà là nhân vật Thị Kính. Nàng là nhân vật chính vở chèo, cũng là đại diện cho người phụ nữ nông dân, bình thường, lương thiện. Dẫu có đức có hạnh nhưng số phận lại thảm thương, bất hạnh.

Trước nỗi oan mẹ chồng vu hãm, Thị Kính kêu oan năm lần. Bốn lần, nàng hướng về mẹ chồng và chồng để kêu oan: “Giời ơi ! Mẹ ơi, oan con lắm mẹ ơi”, “Oan cho con lắm mẹ ơi”… “Oan thiếp lắm chàng ơi”… “Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!”. Nhưng tất cả đều vô ích. Mỗi lần kêu oan là một lần thêm tội. Với Sùng bà, những lời ấy chỉ càng làm tăng thêm sự khinh ghét.

Còn Thiện Sĩ chỉ là một người chồng đớn hèn, bạc nhược. Hắn bỏ mặc người vợ yêu thương, gắn bó, mặc kệ mẹ mình buông lời đay nghiến, mặc kệ mẹ mình vu cho nàng những nỗi oan vô lí. Khi Thị Kính cầu cứu “Oan thiếp lắm chàng ơi”, Thiện Sĩ im lặng, giống như không chút tình cảm. Đến đây, có lẽ không ai ngăn nổi sự tức giận và xót thương Thị Kính. Một người vợ hiền dâu thảo, tần tảo, yêu thương chồng như thế chỉ vì vài câu không đầu không đuôi mà bị hàm oan, bị đuổi khỏi nhà.

Mãi đến lần thứ năm kêu oan với Mãng ông, cha của mình, người phụ nữ đáng thương ấy mới nhận được sự cảm thông. Dù chỉ là sự cảm thông trong khổ đau và bất lực. Càng về sau, cảnh ngộ của Thị Kính càng thê thảm. Hạnh phúc tan vỡ. Thị Kính vừa than vừa hờn trách:

Trách lòng ai nỡ phụ lòng
Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi…”

Và rồi, trước cảnh ngộ ấy, nàng quyết định từ biệt gia đình, xuống tóc giả trai đi tu, đến nương nhờ nơi cửa Phật. Không buông xuôi, Thị Kính mong muốn sống nơi trong sạch linh thiêng để chứng minh sự trong sạch. Tuy vậy, chúng ta cũng thấy được trong đó sự cam chịu, nhẫn nhục của nàng trước số phận. Không từ bỏ nhưng cũng không đấu tranh. Thị Kính chưa đủ dũng cảm và bản lĩnh chống lại những oan trái bất công mà mình phải chịu đựng.

Có thể nói, qua đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” và cả vở chèo “Quan âm Thị Kính”, người đọc, người xem đã thấy được cuộc đời Thị Kính. Thấy được phẩm chất tốt đẹp và nỗi oan bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói riêng, người lao động nói chung. Đồng thời lên án tầng lớp địa chủ phong kiến độc ác nhẫn tâm và nét nghệ thuật chèo nổi tiếng của dân tộc.

Phân tích Quan Âm Thị Kính - mẫu 9

Trước khi cách mạng tháng Tám đem lại ánh sáng cho dân tộc thì cuộc sống con người luôn lầm than, rơi vào cảnh bế tắc không lối thoát. Thật vậy, đã có biết bao tiếng kêu cứu, những van nài mong được cứu rỗi. Nhiều người bị hoàn cảnh xô bồ đánh mất đi nhân phẩm, những kẻ kém may mắn hơn thì phải chịu những bất hạnh mà họ chẳng ngờ tới. Nhiều bi kịch, nhiều đau đớn vẫn cứ diễn ra xung quanh và họ không cách nào để thoát khỏi sợi tơ định mệnh đầy bất hạnh ấy.

Những tiếng van nài kêu cứu không ai đáp trả, những khẩn cầu dường như không đến được với chúa trời, có lẽ cũng vì như vậy mà con người bắt đầu rơi vào tuyệt vọng. Họ chọn cái chết để giải thoát cho số phận trớ trêu của mình, nhưng không phải ai cũng như vậy và Thị Kính trong tác phẩm Quan Âm Thị Kính là một minh chứng cụ thể cho con người phải chịu nỗi bất hạnh nhưng vượt lên trên tất cả nàng chọn cách buông bỏ chuyện thế gian và sống trong cõi tu hành nơi cửa Phật.

Nhắc đến Thị Kính là nhắc đến một người con gái hiền lành, xinh đẹp nhưng số phận của nàng lại đối nghịch với cái vẻ đẹp ấy. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó, là con của Mãng Ông, cuộc đời nàng tưởng chừng như được sang trang mới khi lấy chồng là con nhà giàu, chàng là Thiện Sĩ con nhà họ Sùng, hơn thế nữa lại là người có ăn có học nên có lẽ sẽ hiểu chuyện và cảm thông cho vợ. Nhưng bi kịch của cuộc đời Thị Kính mới chính thức bắt đầu khi bước chân vào cảnh cửa nhà chồng, chịu số phận con dâu đầy ngang trái, tủi nhục.

Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn như bao ngày và nàng vẫn cố gắng làm tốt bổn phận của một người vợ, của phận con dâu hiền lành hiếu thảo. Thế nhưng ai đâu ngờ bi kịch lại ập xuống cuộc đời nàng, nó như một cơn lốc cuốn xô đi bao yên bình, bóp ngạt mọi thứ trên đường đi.

Và đó là một đêm yên bình khi nàng ngồi cạnh chồng khâu vá còn chồng mình thì cặm cụi đọc sách, vì học hành quá mệt mỏi nên chàng thiếp đi trong vô thức. Thị Kính ở cạnh chồng và yên lặng ngắm nhìn dáng vẻ ấy, sau một hồi quan sát kĩ nàng chợt thấy một sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, sẵn đang cầm dao trên tay nên nàng toan cắt đi để đẹp cho chồng:

“Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc
Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta
Râu làm sao một chiếc chồi ra …
Dạ thương chồng lòng thiếp sao an
Âu dao bén, thiếp xén tày một mực.”

Hành động lấy dao cắt đi sợi râu mọc ngược của chồng suy cho cùng cũng xuất phát từ tấm lòng thương yêu, nàng muốn khuôn mặt chồng mình thêm gọn gàng, đẹp đẽ, thế nhưng đau đớn thay chồng nàng lại chợt tỉnh giấc, chàng hốt hoảng khi thấy vợ cầm dao kề cổ mình, ngu dốt, mù quáng chẳng hỏi rõ chuyện ra sao để hiểu cho nỗi khổ của nàng, vậy mà hắn khăng khăng là nàng hai lòng muốn giết mình.

Hắn hốt hoảng la hét gọi vợ chồng lão Sùng đến để bảo vệ, làm chứng mà đâu hay người vợ vẫn đang cố gắng hết sức để giãi bày cho hắn nghe đầu đuôi sự việc:

Thưa cha mẹ, đêm qua con ngồi học đã khuya
Vừa chợp mắt thấy dao kia kề cổ
Con nói đây có quỷ thần hai vai chứng tỏ
Dẫu thực hư đôi lẽ con chưa tường.”

Ngu dốt, mê muội, nhát chết đến mức đáng khinh bỉ như vậy liệu hắn có đáng được sinh ra làm đàn ông. Đau đớn thay cho thân phận người vợ bấy lâu luôn kề vai sát cánh chăm sóc cho hắn. Sống với nhau ngần ấy ngày tháng như vậy chẳng lẽ hắn còn chưa hiểu được tấm lòng của vợ mình. Nếu muốn giết hắn đến thế liệu nàng có để cho hắn kịp mở mắt mà kêu hô cha mẹ tới. Hắn cũng chẳng thèm suy nghĩ xem tại sao vợ mình lại làm như thế, tại sao nàng vẫn đang cố nói với hắn về sự thật.

Hèn nhát, yếu đuối khiến hắn hốt hoảng gọi bố mẹ, hắn mù quáng tin vào những gì mình nhìn thấy và tự suy biến ra câu chuyện kể với cha mẹ để rồi gia đình vũ phu, vô cảm ấy dồn ép không cho nàng lên tiếng. Chúng vạch tội nàng, vu khống nàng chẳng khác gì bọn thực dân hùng hổ buộc tội những người dân lương thiện, yếu đuối.

Nếu trước đây chúng ta từng đọc qua tác phẩm “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ thì sẽ không khỏi tức giận với tên chồng vì ghen tuông mù quáng mà bức ép vợ mình vào đường cùng, Vũ Nương hết mực chung thủy nhưng lại bị gán tội hai lòng và cuối cùng khi không thể thanh minh được nàng đã chọn cái chết.

Nhưng đến với bi kịch của Thị Kính thì nàng còn đáng thương hơn cả, chí ít chồng Vũ Nương còn yêu thương nàng nên mới sinh ghen tuông còn Thiện Sĩ dường như chẳng có chút tình cảm gì với Thị Kính, hắn vô cảm nhìn nàng nức nở giãi bày nhưng hắn cho rằng đó lại là những lời biện bạch cho kế hoạch giết chồng không thành của nàng. Thật phẫn nộ với những kẻ bạc tình bạc nghĩa như vậy, chẳng lẽ người phụ nữ ở bên cạnh hắn chỉ là con ở, chỉ là người mà hắn lấy về để dọn dẹp, khâu vá quần áo hay sao?

Chuyện ở trên đời thật đúng là vô lí, đôi khi nhiều viễn cảnh diễn ra trái ngang khiến con người ta chẳng thể nào ngờ tới được. Thật vậy, cái khốn nạn đen đủi lại trù ám lấy cuộc đời Thị Kính, nàng không thể kêu oan cũng chẳng thể nói được một lời, và cứ như thế nàng bị mẹ con nhà họ Sùng đay nghiến phỉ báng cay nghiệt đến đau lòng.

“Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à?”

Mụ Sùng tuôn ra một tràng những lời lẽ cay độc, một mực khẳng định Thị Kính muốn giết con mình. Sự che chở mù quáng của bố mẹ với con cái đã giết chết cuộc đời của biết bao nhiêu người, mụ giày xéo cuộc đời Thị Kính và buộc tội nàng, chửi rủa nàng, hạ nhục nàng không thương tiếc.

Mụ vừa chửi rủa vừa dúi đầu Thị Kính xuống rồi lại bắt nàng phải ngửa mặt lên, ngửa cái khuôn mặt đáng thương lên để mụ đay nghiến. Mụ gào lên như một con thú hoang dã đang đánh nhau với kẻ thù. Từ mồm miệng độc ác của mụ không tiếc lời phun ra chửi rủa, mụ chửi Thị Kính là tuồng lẳng lơ, là đồ mèo mả gà đồng.

Cơn thịnh nộ khiến mụ thành con quỷ dữ, mụ chẳng thèm nghe, chẳng dừng chửi rủa. Mụ gạt phắt đi những lời kêu oan của Thị Kính, mặc cho những cố gắng giải thích của nàng. Mụ gán ngay cho nàng các mác lẳng lơ, say hoa đắm nguyệt, gái say trai lập trí giết chồng và điên cuồng đòi băm vằm Thị Kính ra, mụ cầu mong trời đất sẽ khiến cho nàng gặp báo ứng.

Mụ Sùng là “tấm gương” lớn về tình yêu thương và bênh vực con mình mù quáng. Con Mụ cũng chẳng phải thần phật quý phái gì, hắn chẳng là gì ngoài một tên hèn nhát, nhu nhược đầy tội lỗi. Vậy mà trong mắt người mẹ “đáng quý” ấy hắn thật có giá. Mụ khinh thường, cho rằng Thị Kính không xứng với con mụ rồi tuôn ra một tràng đạo lí nào là gia đình mình cao môn lệch tộc, là dòng dõi rồng phượng không thể sống cùng lũ tôm tép cua ốc liu điu.

Bị vu oan là giết chồng, bị đuổi về nhà cha mẹ đẻ đó là sự tủi nhục vô cùng của người phụ nữ trong xã hội cũ và đó cũng là bi kịch của cuộc đời Thị Kính. Trong xã hội thối nát vô nhân đạo ấy thì thân phận người phụ nữ bị coi như cỏ rác, họ chỉ là những con người nhỏ bé không thể làm chủ được cuộc đời mình, họ không có quyền lên tiếng trong xã hội mà chỉ luôn bị vùi dập đầy bất công. Vốn nghèo nàn tưởng được thoát kiếp khổ cực nhờ việc nương tựa vào gia đình chồng nhưng hóa ra đó lại là nợ đời mà nàng phải gánh chịu.

Nàng bị làm nhục, cha mẹ nàng cũng bị làm nhục. Mang tiếng thông gia với nhau nhưng cha Thị Kính vẫn không nhận được sự tôn trọng từ phía nhà chồng của nàng nhưng biết làm sao, không có tiền đồng nghĩa với không có tiếng nói trong xã hội vậy nên hai cha con chỉ còn đường đau đớn ôm nhau cùng khóc.

Cuộc đời người con gái ấy đã bị vấy bẩn, bị ô nhục vu oan nhưng vượt lên trên tất cả nàng lại chọn cho mình nương tựa nơi cửa Phật. Và đó là nơi không thị phi cuộc đời, không oan ức thảm thương. Chi ít ở đó sẽ không còn có gia đình mụ Sùng, và nàng đã từ bỏ chốn hồng trần mu muội bước vào cửa phật.

Không, không phải sống ở đời mới mong tỏ rõ người đoan chính
Và nàng xuống tóc đi tu.”

Tưởng rằng tu hành nơi cửa Phật sẽ không còn nhiều ngang trái, thế nhưng số phận vẫn không buông tha cho nàng, oan ức này chồng chất oan ức kia, có lẽ cuộc đời nàng đã định sẵn là phải chịu oan uổng. Nàng cũng không thanh minh nữa và sống lặng lẽ tích đức hành thiện. Mãi sau này khi nàng chút bỏ hơi thở cuối cùng rời khỏi thế gian mọi oan ức mới được sáng tỏ.

Nàng đã sống cả cuộc đời mình trong tủi nhục, không một giây một phút nào số phận cho nàng được yên ổn nhưng nàng cũng đã sống hết cuộc đời mình. Phải chăng đây cũng là thử thách của thần phật dành cho cuộc đời nàng và khi vượt qua hết các cửa ải nàng đã trở thành Phật Bà Quan Âm, nàng đã không còn nợ gì ở nơi trần thế này nữa và chốn linh thiêng đã đưa nàng trở về nơi mà lẽ ra nàng nên thuộc về.

Cuộc đời là một chuỗi các thử thách đầy khắc nghiệt và chỉ có những người thực sự vững vàng mới vượt qua được. Đừng vội nản lòng trước những khó khăn mà mình đang gặp phải và cũng đừng than trách số phận quá trớ trêu. Vì sau tất cả những khó khăn chúng ta sẽ gặt hái được thành quả, sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm để bước đến tương lai.

Thất bại hôm nay có thể là bàn đạp cho thành công ngày mai, đừng thấy đời giông bão mà e sợ núp sau lưng người khác vì sau đám mây đen sẽ là những tia nắng rạng rỡ. Đến một thời điểm nào đó tất cả mọi cố gắng của chúng ta sẽ được báo đáp, khi đủ ấm chồi non sẽ bật tung ra khỏi sương giá để viết lên sự sống cho mình.

Câu chuyện về cuộc đời của Thị Kính quả thật đấy rẫy đau thương và oan ức nhưng sau cùng người ở hiền thì vẫn gặp lành, mặc dù nàng không còn trên trần thế nhưng ở một nơi nào đó chắc hẳn cuộc sống tươi đẹp đang chào đón nàng. Và không chỉ mình nàng phải gánh chịu nỗi uất nhục ấy mà là toàn bộ người phụ nữ, những người lao động nghèo trong xã hội cũ, họ luôn bị vùi dập dưới gót giày vô cảm của quân tàn bạo, những kẻ bạo chúa.

Nhiều năm dòng dã qua đi, cuối cùng con người cũng tìm thấy ánh sáng cho cuộc đời mình, họ được sống đúng nghĩa như là một con người, và đó là khi có cách mạng, cuộc đời con người được khai sáng, tốt đẹp và ý nghĩa hơn.

Xem thêm các bài Văn mẫu tự sự, nghị luận, cảm nghĩ, cảm nhận lớp 7 khác:

Đã có lời giải bài tập lớp 7 sách mới:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, KHÓA HỌC DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 7

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


quan-am-thi-kinh.jsp


Giải bài tập lớp 7 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên