10+ Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong



Tổng hợp bài văn Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

10+ Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong

Quảng cáo

Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong - mẫu 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà thơ. Trong ngục Ngục trung nhật kí, Người nói: “Lão phu nguyên bất ái ngâm thi”, nhưng tập nhật kí bằng thơ này và nhiều bài thơ khác của Hồ Chí Minh cho thấy Người là một nhà thơ lớn của dân tộc.

Người không chỉ làm thơ mà còn nói lên quan niệm của mình về thơ ca và vai trò, sứ mệnh của nhà thơ trong cuộc sống. Bài thơ số 132 Ngục trung nhật kí với nhan đề Cảm tưởng đọc Thiên gia thi, Người có viết:

Nay ở trong thơ nên có thép,

Nhà thơ cũng phải biết xung phong

(Hiện đại thi trung ưng hữu thiết,

Thi gia dã yếu hội xung phong).

Quảng cáo

Bài thơ xuất hiện ở những trang cuối cùng của Ngục trung nhật kí, nó như một tổng kết quá trình suy nghĩ về thơ mình, và về thơ của người xưa. “Thiên gia thi” là tuyển tập gồm những bài thơ cổ Trung Quốc từ lâu được công nhận là hay, những bài thơ kiểu mẫu, dễ đọc, dễ nhớ. Bài thơ của Bác nói lên cảm nghĩ của mình sau khi đọc tuyển tập thơ cổ điển ấy. Hai câu đầu, Bác nhận xét về tình yêu thiên nhiên trong thơ xưa. Cái đẹp của thiên nhiên như “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông” đã được cổ thi “thiền ái” dành cho một vị trí sang trọng. Cái mới của Bác thấy cần phải đưa vào thơ của thời đại mới là chất thép trong thơ. Thép là một ẩn dụ mang hàm nghĩa nói lên tư tưởng, tình cảm tiến bộ, tốt đẹp, là tinh thần chiến đấu, tinh thần cách mạng của thơ hiện đại. Thơ cần có tính chiến đấu, thơ như một vũ khí, thì nhà thơ thời đại phải là một chiến sĩ đích thực trên mặt trận văn nghệ, văn hoá: “Nhà thơ củng phải biết xung phong”.

Tóm lại, hai câu thơ trên nói lên yêu cầu của thời đại mới đối với thơ và nhà thơ. Thơ hiện đại ngoài chất trữ tình cần có chất thép và nhà thơ cần phải biết xung phong, đứng ở vị trí mũi nhọn cuộc chiến đấu của nhân dân. Điều mà Bác quan niệm là một ý kiến mới mẻ, sâu sắc về nghệ thuật thơ hiện đại: cần coi trọng tính chiến đấu của thơ, cần đề cao vai trò chiến sĩ, tư cách công dân tiến bộ của nhà thơ.

Quảng cáo

Tại sao thơ hiện đại nên có thép? Tại sao nhà thơ cũng phải biết xung phong? Thơ phải có ích cho đời, có ích cho nhân dân. Khi mà nhân dân đang rên xiết trong lầm than, đau khổ, khi đất nước đang bị ngoại bang thống trị, ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy khắp nơi, thì thơ ca không thể là một thứ phù phiếm lúc trà dư tửu hậu, nhà thơ không thể là con người “đem gấm vóc phủ lên xã hội điêu tàn”. Khi mà “nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta”, của dân tộc ta, thì thơ ca phải trở thành vũ khí của nhà thơ lên án cường quyền và đấu tranh cách mạng. Xưa kia, tổ tiên, ông cha ta đã quan niệm rằng “Văn chương ăn nhập với thế nước tục dân” (Bùi Huy Bích); nhà thơ quyết “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” (Nguyễn Đình Chiểu). Lúc đất nước đứng trước họa xâm lăng thì "Văn chương phải có thế trận đuổi nghìn quân giặc” (Trần Thái Tông), và “Thư sinh giết giặc bằng ngòi bút” (Tùng Thiện Vương). Thơ ca hiện đại kế thừa tinh hoa thơ ca cổ điển dân tộc, nó phải hàm chứa chát thép, mang tính chiến đấu sắc bén, nêu cao lòng yêu nước, căm thù giặc: "Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân” (Hồ Chí Minh).

Nhà thơ trong quá trình sáng tạo cái đẹp, ngợi ca cái mới, cái tiến bộ nảy sinh trong cuộc đời, họ phải ý thức được rằng, mình là nghệ sĩ của nhân dân, ngòi bút và trang thơ cần thể hiện tư cách công dân. Không phải chỉ: “Nay ở trong thơ nên có chất thép”, mà nhà thơ còn phải đem hồn thơ mình:

Quảng cáo

Cao giọng hát những bài ca chính khí,

Của anh hùng đã vì nước quên mình...

Là thi sĩ nghĩa là theo gió mới

Tìm ý thơ trên ngọn sóng Bạch Đằng

Để tâm hồn dào dạt với Chi Lăng

Làm bất tử trận Đống Đa oanh liệt...

(Sóng Hồng)

Cảm tưởng đọc Thiên gia thi cùng với “trăm bài trăm ý đẹp” khác, được Hồ Chí Minh viết trong cảnh tù đày, như là bức minh họa cho quan niệm làm thơ của Bác. Thơ Ngục trung nhật kí sáng ngời chất thép! Trong những tháng ngày “ác mộng” bị đày đọa, bị giải lui giải tới khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, Bác đã thể hiện một tâm thế “đại vô uý”. Và sức mạnh tinh thần của người chiến sĩ cách mạng tạo nên chất thép trong nhiều bài thơ. Mở đầu tập thơ, Bác khẳng định: “Thân thế ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao”. Con đường cách mạng đầy gian nan thử thách; người cách mạng lấy thử thách nguy nan để rèn luyện tinh thần bất khuất, hiên ngang:

Nghĩ mình trong bước gian truân,

Tai ương rèn luyện tinh thần thềm hăng.

(Tự khuyên mình)

Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Bản lĩnh của người chiến sĩ trong đọa đày là thứ vàng mười đích thực. “Sống khác loài người vừa bốn tháng - Tiều tuỵ còn hơn mười năm trời”: Tóc bạc, răng rụng, ghẻ lở mọc đầy thân, nhưng Bác đã vượt qua với tất cả sức mạnh tinh thần: “Kiên trì và nhẫn nại - Không chịu lùi một phân - Vật chất tuy đau khổ - Không nao núng tinh thần” (Bốn tháng rồi). Đó là chất thép.

Ngục trung nhật kí mang tính hướng nội, Bác viết cho mình đọc, tự an ủi, tự nâng đỡ tâm hồn, tự động viên mình nêu cao dũng khí... Có lúc chất thép là tiếng cười hóm hỉnh, phủ định nghịch cảnh. Chân mang nặng xích xiềng mà cảm thấy “mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung”. Bị đày đọa trong ngục tối đầy muỗi, rệp mà “mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới”. Phong thái ung dung, ấy là chất thép của người chiến sĩ trên con đường khổ ải: “Nghênh diện thu phong trận trận hàn,... Hành nhân thi hứng hốt gia nồng” (Tảo giải).

Thơ nên có thép. Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Bản chất của thơ là cuộc sống và tình cảm. “Văn học không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có” (Tố Hữu). Nhà thơ là kẻ sĩ, là nghệ sĩ... trước hết là công dân. Mỗi một thời kì lịch sử, đều có những yêu cầu cụ thể khác nhau đối với nhà thơ, nhưng  bất cứ đâu, lúc nào, “thơ ca phải có ích cho đời”, nó là muối mặn, phù sa của cuộc sống, là màu xanh của mùa xuân, là nhan sắc và tình yêu của thiếu nữ, là hi vọng cho lương tâm, và hạnh phúc cho mọi người. “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” (Bi-ê-lin-xki), do đó, thơ phải hiện thực, thơ phải có chất thép. Thuở mất nước, cả dân tộc là vong quốc nô, các nhà chí sĩ khẳng định thơ văn là vũ khí sắc bén: “Bút lưỡi muốn xoay dòng nước lũ” (Phan Châu Trinh), “Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng - Cửa dân chủ khêu đèn thêm sáng chói” (Phan Bội Châu). Thời kháng chiến “Thơ là súng là gươm” (Lê Anh Xuân). Sứ mệnh của nhà thơ vô cùng cao cả, thiêng liêng:

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ,

Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi

(Chế Lan Viên)

Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi,

Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu;

Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu gian lao

(Xuân Diệu)

Thơ ca cũng như nghệ thuật phải có tính khuynh hướng; nhà thơ phải thể hiện cái yêu, cái ghét vào câu thơ, vần thơ. Quan điểm thơ nên có chất thép, thơ mang tính chiến đấu, nhà thơ cũng phải biết xung phong của Hồ Chí Minh bắt nguồn sâu xa trong truyền thống thi ca của dân tộc, từ những hịch, những cáo... của tổ tiên nghìn xưa. Thơ ca không chỉ góp phần chấn hưng đạo đức, bồi dưỡng tính tình mà con để góp phần đánh giặc, giữ nước. Ta tự hào về những thơ Thần, về Thuật hoài, về Tụng giá hoàn kinh sư,... của những anh hùng thi sĩ thời Lý, thời Trần. Ta khắc vào trái tim những vần thơ của Nguyễn Trãi:

Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,

Điện Bắc đà đà yên phận tiên.

(Bảo kính cảnh giới- 56)

Thơ ca dân tộc như một dòng sông lớn mênh mông; mỗi nhà thơ như một con sóng trên dòng sông ấy, chở phù sa làm nên những bình nguyên tươi đẹp của nền văn hiến Việt Nam. Tính nhân dân của văn học đòi hỏi thơ ca phải có thép:

Lấy bút làm đòn chuyển xoay chế độ,

Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền.

(Sóng Hồng)

Vì thơ văn “là tiếng nói của tình cảm, là hình thức nhuần nhụy và sắc bén của tư tưởng, có tác dụng sâu rộng và lâu bền”, nên thơ cần có thép, nhà thơ phải là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa.

Nhìn rộng ra ngoài bờ cõi, ta thấy tính chiến đấu làm nên giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật đích thực của thơ ca. Thơ ca phải có ích, nghệ thuật phải vì hạnh phúc của con người... được nhiều nhà nghệ sĩ thế giới quan tâm, coi trọng. “Vĩ đại thay là sứ mệnh của thơ ca!... Trong ngục tối, thơ trở thành quật khởi; bên cửa sổ bệnh viện thơ là khao khát và hi vọng lành bệnh... Thơ không phải là nhìn nhận mà còn tu sửa. Ớ mọi nơi, thơ phủ nhận bất công. Hỡi nhà thơ thiên sứ, hãy cất lời ca và đi tới tương lai! Lời ca của người là phản ánh niềm tin và hi vọng của nhân dân” (Bô-đơ-le). “Thơ như bài hát ru, ngây ngất đường giường thơ bé - Như mơ ước mùa xuân, như khát vọng chiến công... Thơ như đôi cánh nâng tôi bay - Thơ là vũ khí trong trận đánh!” (Gam-za-top)v.v...

Thơ ca làm đẹp cuộc sống nhân loại. Con người văn minh không thể thiếu thơ ca. Mỗi người có những yêu cầu riêng đối với thơ ca, mỗi dân tộc có một truyền thống, một bản sắc riêng về thơ ca của đất nước mình. Nhưng thơ phải có ích, “Trong nghệ thuật, tất cả những gì không có ích đều có hại”. Thơ phải có tính chiến đấu, nhà thơ phải thanh cao và tiện bộ,... đó là niềm mong ước và sự đòi hỏi của nhân dân. Hồ Chí Minh đã kế thừa và có một cách nói rất hay, rất sâu sắc về quan niệm thơ ca, về sứ mệnh của thi sĩ. Thơ nên có chất thép nhưng thơ phải hay. Thơ nên có chất thép nhưng thơ cũng phải giàu chất trữ tình. Nếu không, thơ sẽ khô khan. Ngục trung nhật kí nói riêng cũng như toàn bộ thơ ca của Bác đều hướng về độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc. “Biết Người việc nước không hề nghỉ - Vung bút thành thơ đuổi giặc thù!” (Bùi Bằng Đoàn). Giáo sư Đặng Thai Mai viết: “Thơ của Bác thật sự là thơ, là thơ của thời đại mới, vì thơ Bác bao hàm hai yếu tố hòa hợp với nhau một cách rất nhuần nhụy: chất trữ tình và chất thép”.

Vần thơ của Bác vần thơ thép,

Mà vẫn mênh mông bát ngát tình

(Hoàng Trung Thông)

Tóm lại, ý thơ trên đây của Bác về chất thép trong thơ, về sứ mệnh thơ ca, sứ mệnh thi sĩ không chỉ có tác dụng định hướng và bồi dưỡng sáng tác cho văn nghệ sĩ Việt Nam mà còn giúp mỗi chúng ta trong cảm thụ thơ ca, cảm thụ cái đẹp của nghệ thuật, để nâng tâm hồn mình cùng với ngọn gió thời đại. Văn là người. Văn thơ Hồ Chí Minh là đạo đức, tư tưởng, tình cảm, là nhịp sống sôi nổi, phong phú của Người. Ngục trung nhật kí đã phản ánh một cách chân thật và cảm động một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn của người chiến sĩ vĩ đại trong cảnh tù đày. Dũng khí ấy làm nên chất thép của hồn thơ Hồ Chí Minh, hồn thơ chiến sĩ, để sau này Người viết nên những “vần thắng vút lên cao!”.

Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong - mẫu 2

Trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh có một tuyên ngôn nghệ thuật được ghi lại bằng bài thơ tứ tuyệt: “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông; Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong.” (Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”) Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã bàn về quan điểm nghệ thuật mới mẻ, hiện đại và cách mạng đó của Hồ Chí Minh. Sau đây là ý kiến phê bình của nhà văn Hoài Thanh: “Khi Bác nói trong thơ có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có lẽ phải tìm hiểu một cách rất linh hoạt mới đúng. Không phải có nói chuyện thép, lên giọng thép mới là có tinh thần thép”. Hoài Thanh đặt vấn đề tìm hiểu thế nào là “thép” trong thơ Bác là cần thiết vì đây là quan điểm văn nghệ cách mạng của Bác. Theo Bác thì thơ xưa thiên về miêu tả cảnh thiên nhiên, biểu hiện tình yêu đối với thiên nhiên: “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp Mây, gió, trăng , hoa, tuyết, núi , sông;” Người quan niệm thơ ngày nay trước hết phải có chất cách mạng, có tính chiến đấu thể hiện tinh thần của người chiến sĩ cách mạng. “Nay ở trong thơ nên có thép” “chữ “thép” chỉ xuất hiện một lần trong tập thơ nhưng trong “Nhật kí trong tù” bài nào cũng có “thép”, câu nào cũng có “thép””. Nhà thờ Quách Mạt Nhược (Trung Quốc) đã nhận định như vậy. Ông Trường Trinh cũng nói trong thơ Hồ Chủ Tịch đều mang chất thép, đều toát ra tư tưởng và tình cảm của một chiến sĩ vĩ đại. Trong “Nhật kí trong tù” một mặt ta thấy có những bài trực tiếp nói đến cách mạng và thể hiện tinh thần cách mạng: “Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao Muốn nên sự nghiệp lớn Tinh thần phải càng cao.” (Bài thơ đề từ tập Nhật kí). Hay là: “Thà chết chẳng cam nô lệ mãi Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền Xót mình giam hãm trong địa ngục Chưa được xông ra giữa trận tiền.” (Việt Nam có biến động) Có thể kể thêm một số bài nữa như “Nghe tiếng giã gạo”, “Tự khuyên mình”, “Học đánh cờ” đã trực tiếp nói nên tinh thần cách mạng, đã “lên giọng thép”. Mặt khác, có lẽ phải hiểu một cách rất linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện “ thép”, lên giọng “thép”, mới có tinh thần “thép”. Trong tập thơ có nhiều bài thơ không hề nói đến cách mạng, tinh thần chiến đấu. Có nhiều bài thơ chỉ ghi lại sinh hoạt trong tù như “Nhà lao Nam Ninh”, “Tiền đèn”, “Tù cờ bạc”, “Cháu bé trong nhà lao Tân Dương”, “Linh ngục đánh mất chiếc gậy”, “Chiếc khăn giấy của người bạn tù”… Có nhiều bài thơ thể hiện xúc cảm của nhà thơ trước hiện thực trong và ngoài tù. Nhân vật trữ tình ở đây là một thi sĩ nhạy cảm với những cảnh ngộ trớ trêu trong tù, với vẻ đẹp thiên nhiên trên đường giải tù như “Đi đường”, “Chiều tối”, “Giải đi sớm”, “Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh”, “Hoàng hôn”, “Nắng sớm”… Có nhiều bài thể hiện tinh thần trào lộng, cười cợt với đau khổ của Bác như: “Pha trò”, “Đi Nam Ninh”, “Hụt chân ngã”, “Ghẻ”, “Báo động”, “Dây trói”, “Đáp xe lửa đi Lai Tân”. Những bài thơ trên rõ ràng là không “nói chuyện thép”, không “lên giọng thép” nhưng lại có “tinh thần thép”, tinh thần kiên cường bất khuất của một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc. Xin dẫn ra đây một bài thơ trong tập “Nhật kí trong tù” của Bác không “nói chuyện thép” không “lên giọng thép” mà có “tinh thần thép”: “Trong tù không rượu cũng không hoa, Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ; Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.” Bài thơ không nói gì đến thép, chỉ nói đến rượu và hoa, chỉ có hai nhân vật là nhà thơ (thi gia) và trăng (nguyệt). Giọng điệu lại trữ tình , tha thiết. Trước trăng sáng , Bác muốn có rượu và hoa để thưởng trăng. Đó là cái thú của các thi nhân xưa nay. Lí Bạch đã từng “nâng côc mời trăng sáng” (cử bôi yêu minh nguyệt). Nguyễn Khuyến đã từng say dưới trăng thu “mắt lao không vầy cũng đỏ hoe”. Bác cũng là thi gia , sao không được tự do mà thưởng nguyệt? Tất nhiên trong cái nhà tù “rệp bò lổm ngổm như xe cóc , muỗi lượn nghênh ngang tựa máy bay” ấy thì nói gì đến “rượu” và “hoa”. Vì thiếu những điều kiện thưởng trăng cho xứng với trăng nên Bác hơi bối rối. Vì vậy khó có thể dịch được cái tâm trạng bối rối thoảng qua trong mấy chữ “nại nhược hà”. Một chút băn khoăn bối rối rất thi sĩ. Nhưng rồi Người lại làm chủ được tình thế. Thôi thì thưởng trăng với tất cả tấm lòng yêu mến và ngưỡng mộ vậy: “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.” Tôi tưởng tượng thấy nhà tù bấy giờ tối mịt , vài tia trăng lọt vào khe cửa sắt , Bác hướng về phía khe cửa ngắm trăng , mà Bác đã tiều tuỵ đi rất nhiều. Cái cảnh một cụ giả răng rụng , tóc bạc ,chân bị cùm ngồi ngắm trăng qua khe cửa tù , chao ôi , thơ Bác có thể làm kinh động lòng người là ở cái sự thật này đây. Trong hoàn cảnh ấy mà vẫn có được cảm hưng thơ , vẫn giữ được tư thế ung dung thì người làm thơ phải có tinh thần “thép” để vượt lên mọi gian khổ khủng khiếp của nhà tù. Chất thơ ấy , trước hết phải là chất thép. Hình tượng thi sĩ ấy bản chất phải là một chiến sĩ “uy vũ bất năng khuất”. Bài thơ tứ tuyệt hai mươi tám chữ không có chữ nào là chữ “thép” nhưng chữ nào cũng có “thép”. Giọng điệu thơ trữ tình , mượt mà , uyển chuyển mà có “tinh thần thép” , chất thép ấy , “tinh thần thép” ấy đã toát ra từ nhà cách mạng vĩ đại Hồ Chí Minh.

Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong - mẫu 3

Hồ Chủ Tịch là một nhà văn, nhà thơ lớn. Người suốt đời chiến đấu bảo vệ độc lập tự do của dân tộc. Hình ảnh nhà thi sĩ trong con người Cộng sản lão thành và vĩ đại ấy bao giờ cũng là một chiến sĩ cầm vũ khí sắc bén của tư tưởng cách mạng, đứng vững ở mũi nhọn tấn công trên mặt trận văn học nghệ thuật. Từ trong ngục tù đen tối của nhà lao Tưởng Giới Thạch, Bác đã nói lên quan điểm nghệ thuật của mình bằng mấy câu thơ tràn đầy ý nghĩa : “ Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp Mây gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong” ... Nay ở trong thơ nên có thép. Thép ở đây là chất chiến đấu của thơ. Muốn thơ ca có thép thì nhà thơ phải có sẵn thép trong tâm hồn. Nhà thơ phải biết xung phong, tức là nhà thơ phải là người lính xung kích trên trận tuyến văn hoá. Có như thế thơ ca mới thành vũ khí, thơ ca mới làm tổ trong lòng người đọc, thơ ca mới làm nên cơm, nên áo. Rõ ràng văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, cũng là một bộ phận của cách mạng, có tác dụng phục vụ cách mạng. Thơ ca là một thứ nghệ thuật mà quần chúng nhân dân dễ cảm xúc nhất. Nhưng đối với cuộc cách mạng vô sản, thơ ca có tác dụng tốt hay xấu đều do trách nhiệm của người sáng tác. Nhà văn Quách Mạc Nhược Trung Quốc có nhận xét rằng : Cả tập thơ “ Nhật kí trong tù” chỉ có một chữ “ thép”, nhưng câu nào, dòng nào ta cũng thấy thép cả. Thép trong thơ Bác : Thép của lòng yêu nước. Bôn ba ở nước ngoài bao năm vì độc lập, tự do dân tộc, Bác Hồ đã hiến trọn đời mình cho Đảng. Bị bắt giam, nhớ nước, Bác không ngủ được : Một canh - hai canh - lại ba canh Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh. Thép trong thơ Bác, thép của lòng yêu tự do. Bác là con người tự do và chiến đấu để bảo vệ tự do. Trong “ Nhật kí trong tù”, thép còn là ở nghị lực phi thường, cái ung dung điềm đạm của con người mắt nhìn thấu tương lai, tay nắm vững chân lí. Bị giam và bị giải đi hơn bốn chục nhà lao, Bác vẫn sống lạc quan, tin tưởng ở thắng lợi ngày mai. Trong thơ ca kháng chiến của Người ta cũng thấy chất thép ấy. Cuộc sống ở chiến khu bận rộn, gian khổ về vật chất, nhưng ta vẫn thấy cái ung dung, thanh thoát của một con người đang làm nhiệm vụ trọng đại của lịch sử : Non xa xa, nước xa xa Nào phải thênh thang mới gọi là Đây suối Lê-nin, kia núi Mác Hai tay xây dựng một sơn hà Thật là thép, nhưng thép ở đây đã được tôi luyện hơn nhiều. Đặc biệt trong những bài thơ chúc Tết gần đây, hình ảnh xung phong trên chiến trường của nhà thơ càng phát triển cao độ. Vẫn một lòng yêu mến độc lập, tự do và lấy đó làm lí tưởng chiến đấu cho quần chúng nhân dân : Vì độc lập, vì tự do Đánh cho Mĩ cút, đánh cho nguỵ nhào ....

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official




Các loạt bài lớp 12 khác
Tài liệu giáo viên