30+ Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo (hay, ngắn gọn)

Bài giảng: Đại cáo bình ngô - Phần 2: Tác phẩm - Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)

Đề bài: Phân tích Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi.

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

Quảng cáo

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và vị trí tác phẩm đại cáo bình Ngô trong nền văn học.

- Khái quát về tư tưởng nhân nghĩa: Là tư tưởng quan trọng chủ đạo trong bài. Tư tưởng này mang tính nhân văn và có giá trị nhân đạo sâu sắc.

II. Thân bài

1. Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa

- Tư tưởng nhân nghĩa xuất phát từ quan niệm Nho giáo: là mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí.

Quảng cáo

- Tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm của Nguyễn Trãi: Chắt lọc những hạt nhân cơ bản nhất, tích cực nhất của của Nho giáo để đem đến một nội dung mới đó là:

    + Yên dân: Làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, no đủ, hạnh phúc.

    + Trừ bạo: Vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.

→Đó là tư tưởng rất tiến bộ, tích cực và phù hợp với tinh thần của thời đại

2. Sự thể hiện của tư tưởng nhân nghĩa trong Đại cáo bình Ngô.

Quảng cáo

a. Nhân nghĩa gắn với sự khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc.

Đứng trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc bằng một loạt dẫn chứng đầy thuyết phục:

- Nền văn hiến lâu đời

- Lãnh thổ, bờ cõi được phân chia rõ ràng, cụ thể

- Phong tục tập quán phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc

- Có các triều đại lịch sử sánh ngang với các triều đại Trung Hoa.

→Khẳng định độc lập dân tộc là chân lí, sự thật hiển nhiên mà không ai có thể chối cãi, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc

→Đây là tiền đề cơ sở của tư tưởng nhân nghĩa bởi chỉ khi ta xác lập được chủ quyền dân tộc thì mới có những lí lẽ để thực thi những hành động “nhân nghĩa”

Quảng cáo

b. Nhân nghĩa thể hiện ở sự cảm thông, chia sẻ với nỗi thống khổ của người dân mất nước.

Đứng trên lập trường nhân bản, tác giả liệt kê hàng loạt những tội ác dã man của giặc Minh với nhân dân ta:

- Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ,..

- Bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật: nặng thuế khóa, nơi nơi cạm đất

- Phá hoại môi trường, sự sống: tàn hại giống côn trùng, cây cỏ,...

- Bóc lột sức lao động: Bị ép xuống biển mò ngọc, người bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,..

- Phá hoại sản xuất: Tan tác cả nghề canh cửi,...

→Nỗi căm phẫn, uất hận của nhân dân ta trước tội ác của giặc

→Niềm cảm thông, xót xa, chia sẻ với nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng

c. Nhân nghĩa là nền tảng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.

- Cuộc chiến của ta ban đầu gặp vô vàn khó khăn: Lương hết mấy tuần, quân không một đội

- Nhưng nghĩa quân biết dựa vào sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản công giành được thắng lợi to lớn:

    + Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù

    + Nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành chúng chiếm đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc.

→Tư tưởng nhân nghĩa với những hành động nhân nghĩa đã khiến quân và dân có sự đoàn kết, đồng lòng tạo thành sức mạnh to lớn tiêu diệt kẻ thù bởi tất cả mọi người đều cùng chung một mục đích chiến đấu

d. Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo của dân tộc.

- Sau khi tiêu diệt viện binh, quân ta đã thực thi chính sách nhân nghĩa

    + Không đuổi cùng giết tận, mở đường hiếu sinh.

    + Câp thuyền, phát ngựa cho họ trở về.

- Để quân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức

→Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân văn, chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt

→Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy trì quan hệ ngoại giao sau chiến tranh của dân tộc ta với Trung Quốc.

III. Kết bài

- Khái quát, đánh giá lại vấn đề

- Liên hệ tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại nay: vẫn còn được ngợi ca và là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên ứng với mỗi hoàn cảnh cụ thể nó lại mang những ý nghĩa giá trị khác.

Bài văn mẫu 1

   Nguyễn Trãi đã từng viết: “Bui có một lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”, câu thơ đã cho thấy khí tiết, tấm lòng suốt một đời vì dân vì nước của ông. Nguồn gốc tạo nên tấm lòng đẹp đẽ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa là kim chỉ nam, chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo được viết cũng không phải nằm ngoài vòng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm này của ông.

   Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã khẳng định:

   Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

   Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

   Nhân là khái niệm trung tâm của tư tưởng nho gia, nhân tức là yêu thương con người; nghĩa là những điều hợp lẽ phải, làm theo khuôn phép xử thế. Mạnh Tử đã kết hợp hai khái niệm này tạo thành “nhân nghĩa” là nguyên tắc ứng xử cơ bản trong quan hệ giữa con người với nhau, giữa con người phải yêu thương nhau. Đến Nguyễn Trãi, ông đã nâng tư tưởng lên một tầm cao mới, nhân nghĩa với Nguyễn Trãi không chỉ dừng ở hành xử yêu thương mà còn phải là làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn “yên dân” và cách thức hành động chính là “trừ bạo”. Trừ bạo ở đây chính là tiêu diệt quân Minh xâm lược, để đem lại cuộc sống an bình, hạnh phúc cho nhân dân. Cả đời ông luôn lo nghĩ cho dân, luôn mong nhân dân sống trong an ấm, no đủ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi phương”, ông lo cho dân bằng tất cả tấm lòng, tình yêu thương bao la. Đây là tư tưởng vô cùng tiến bộ và cho đến ngay nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Câu luận đề này chính là sợ dây đỏ để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ tác phẩm của mình.

   Để làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lật mở những trang sử hào hùng trong quá khứ của dân tộc để thấy được thất bại thảm hại của những kẻ luôn mang tư tưởng xâm lược nước khác, giọng văn ở đây thật hào sảng:

   Lưu Cung tham công nên thất bại,

   Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

   Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

   Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

   Không chỉ ở quá khứ, mà ngay cả ở thời điểm hiện tại, quân Minh đã gây ra biết bao tội ác cho nhân ta: “Người bị bắt xuống biển còng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc”… Tội ác của chúng “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” khiến cho “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần dân chịu được?”. Đọc những câu thơ ta như cảm nhận được hết nỗi đau khổ, tủi nhục mà nhân dân đã phải chịu đựng suốt bao năm qua và càng căm tức hơn những tội ác của quân Minh đối với người dân vô tội.

   Chính bởi tội ác khiến cả trời đất không dung tha như vậy nên Lê Lợi đã phất cờ, đứng lên khởi nghĩa, dành lại độc lập cho dân tộc: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/ Ta gắng chí khắc phục gian lao”. Chính Lê Lợi đã hiện thực hóa tư tưởng nhân nghĩa, tiêu diệt kẻ cường bạo để đem lại cuộc sống bình yên cho muôn dân: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Sau bao năm tháng nếm mật, nằm gai, nghĩa quân trải qua biết bao thử thách, cuối cùng ngày một lớn mạnh, nhận được sử ủng hộ của muôn dân: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Toàn dân đoàn kết một lòng đem hết sức mạnh thể chất và tinh thần chống lại bọn cuồng Minh. Bởi đây là cuộc kháng chiến chính nghĩa nên thế và lực của ta ngày một cải thiện, từ thế bị động, yếu ớt ta chuyển sang thế chủ động, liên tục tấn công như vũ bão, giáng những đòn mạnh mẽ làm kẻ thù không kịp trở tay: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”. Quân ta đi đến đâu chiến thắng đến đó, uy lực và sức mạnh không gì có thể sánh nổi: “Gươm mài đá, đá núi cùng mòn/…/Đánh hai trận tan tác chim muông”. Trái lại, kẻ thù lộ diện là những kẻ ham sống sợ chết, khi thất bại kẻ đầu hàng, kẻ dày xéo lên nhau hòng thoát thân: “lê gối dâng tờ tạ tội” “trói tay để tự xin hàng”. Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt thất bại thảm hại của kẻ thù với câu văn giàu hình ảnh: thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước, khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân,… Biện pháp liệt kê đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, giọng văn hào hùng, sảng khoái, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khẳng định lại một lần nữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng ấy đã đem lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta.

   Tư tưởng nhân nghĩa còn được thể hiện trong cách đối đãi với kẻ thù. Mặc dù giặc Minh gây ra những tội ác tày trời với nhân dân ta, nhưng khi chúng bại trận, thua thảm hại, cầu hòa, quân ta lập tức đồng ý: Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng/ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đây là hành động đối xử hết sức nhân văn, nhân bản với kẻ thù, cho chúng một con đường sống, cấp vài nghìn thuyền cho chúng về nước. Cách làm này vừa khiến chúng thua trong tâm phục khẩu phục, vừa tạo điều kiện cho nhân dân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức sau những năm dài gian lao chiến đấu, đồng thời đây cũng là cơ hội để triều đình mới xây dựng đất nước vững mạnh cả về kinh tế và quân sự. Quả là “Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay”.

   Chiến công oanh liệt được kết thúc bằng lời tuyên bố đầy khí thế, hào hùng: “Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh”. Tư tưởng nhân nghĩa đã đem lại sức mạnh vô biên cho quân dân ta, giúp dân ta giành được thắng lợi vẻ vang, không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc mà còn cho thấy tư thế, tầm vóc của một dân tộc luôn sống và đề cao đạo lý nhân nghĩa.

   Với ngòi bút chính luận sắc sảo, lập luận sắc bén hùng hồn, dẫn chứng phong phú thuyết phục, Nguyễn Trãi đã tạo nên một áng thiên cổ hùng văn cho muôn đời. Giá trị của áng thiên cổ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời cho đến mãi muôn đời sau.

Bài văn mẫu 2

   Nhà vua, nhà thơ Lê Thánh Tông từng viết:

    Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo

    (Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê)

   Chẳng phải ngẫu nhiên mà bậc minh quân nhà Lê lại viết về bậc khai quốc công thần - Nguyễn Trãi như thế. Nhìn lại cuộc đời đầy vinh quang mà thảm khốc của Ức Trai, càng thấy tấm lòng ấy sáng rực cả non sông, chiếu sáng muôn đời. Từ cuộc sống trần thế đến văn chương, nhân cách, đức độ và cống hiến của ông luôn trọn vẹn. Mà một trong những điều làm nên sự toàn đức toàn tài đó chính là tư tưởng cốt lõi cả cuộc đời ông – tư tưởng nhân nghĩa. Bản Bình Ngô đại cáo, một áng văn chính luận xuất sắc của Nguyễn Trãi đã thể hiện sáng ngời tư tưởng ấy.

   Xuất phát từ một quan niệm đạo đức Nho gia, nhân nghĩa được hiểu là cách ứng xử tốt đẹp giữa người với người trong xã hội. Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh tới cách hành xử thuộc về lối sống cá nhân, một trong những điểm rất nhân văn của đạo Nho. Thế nhưng trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi lại viết:

    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

   Vẫn là nhân nghĩa ấy, nhưng Ức Trai lại đưa ra cách hành xử không còn ở góc độ cá nhân nữa, mà là yên dân mang tầm quốc gia, dân tộc. Muốn thực hành nhân nghĩa tức là phải làm cho nhân dân có được cuộc sống yên ổn, bình an. Cái gốc của nhân nghĩa là ở nhân dân. Đây là điều hoàn toàn mới mẻ. Vẫn biết Nguyễn Trãi luôn hành động, cống hiến cuộc đời mình cho dân, tôn thờ dân, nhưng không nghĩ rằng ông lại việc "lấy dân làm gốc" để luận bàn về việc nhân nghĩa thông thường. Cách hành xử đơn thuần ấy qua thẩm thấu của một trái tim quảng đại, một nhân cách lớn luôn biết lo cho dân trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý ở đời. Điều này khiến chúng ta liên tưởng tới Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập viết ở thế kỉ XX, cũng "suy rộng ra" từ những quyền rất cơ bản của con người, thành quyền chính đáng của dân tộc. Có lẽ cả Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đều nhìn nhận những vấn đề có tính triết lý thực ra lại bắt nguồn từ những điều yêu cầu rất đỗi bình thường. Vì vậy khi Nguyễn Trãi đưa ra quan điểm nhân nghĩa ở tác phẩm này, giá trị của tư tưởng ấy trở nên to lớn, đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của hệ thống lí luận tư tưởng dân tộc Việt Nam.

   Tuy nhiên, nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đề cập tới ở đây không hề chung chung, trừu tượng mà nó là việc nhân nghĩa, tức là phải hành động để luôn luôn duy trì sự yên ổn của nhân dân. Cứ vậy thì trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, sống dưới cảnh ngang tàng, bạo ngược của kẻ xâm lăng, nhân nghĩa chính là trừ bạo. Người thực thi nghĩa vụ này là quân điếu phạt, sức mạnh của quân đội mới đủ sức để đánh đuổi kẻ thù.

   Ngay từ mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã hiện lên một cách rõ ràng, cụ thể. Nguyễn Trãi thể hiện trực tiếp và coi đó là mạch nguồn chi phối toàn bộ bản "tuyên ngôn". Ông khẳng định, không có nhân nghĩa không có nước Đại Việt hôm nay. Bởi nước Nam dựng xây Tổ quốc bằng các yếu tố thiết lập trên tinh thần nhân nghĩa. Có nền văn hiến, có lãnh thổ, có phong tục, có lịch sử, có hào kiệt,… đều từ cái gốc nhân nghĩa mà ra. Dân ta gìn giữ chủ quyền, đấu tranh không mệt mỏi cũng để cho dân được hưởng độc lập, tự do. Quốc gia nào lớn bé gì có ý đồ xâm lược đều động chạm vào quyền lợi độc lập của dân, mà chưa kể lịch sử đã ghi nhận những việc, những chứng cớ đã từng như thế và những kẻ ấy đã bị trừng trị thích đáng. Nhân nghĩa là đứng lên bảo vệ dân, giữ gìn đất nước cũng được coi là hành động chính nghĩa sáng ngời. Vì thế ngay khi mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi xác lập được coi như là một cơ sở đạo lý, pháp lý hùng hồn nhất. Bài cáo từ đây đã có nền móng vững trãi, sắc bén để đi đến tuyên ngôn độc lập.

   Giáo sư Đinh Gia Khánh từng nhận xét: "Tư tưởng nhân nghĩa này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước". Đúng vậy, nếu ở phần đầu bài cáo cơ sở lí luận được soi chiếu từ tư tưởng nhân nghĩa thì đến những phần sau một quá khứ đau thương mà rất đỗi anh hùng cũng được khơi dậy từ đó. Nhân nghĩa là việc cốt lõi để dân được yên. Vậy mà thời khắc rối ren của lịch sử năm ấy, dân đâu có được yên. Mượn cớ chính sự phiền hà của nhà Hồ mà quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Chúng mang theo những luận điệu xảo trá, dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế suốt hai mươi năm trời để ngang nhiên tiến vào Đại Việt để vơ vét của cải, để ép buộc dân lành, đến cả côn trùng, cây cỏ cũng chẳng tha. Trong Bài 8 – Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi viết: "Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc bạo tàn, lấn cướp nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư?". Đứng trên lập trường của nhân dân, dưới ánh sáng của nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đầy đau đớn, phẫn uất. Trước tòa án nhân nghĩa, âm mưu và hành động của giặc Minh không thể dung tha.

   Vẫn bằng điểm tựa ấy, nhà văn đã dựng lại bức tranh lịch sử đầy tráng lệ, hào hùng về quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Xuyên suốt phần tái hiện lại quá trình ấy, nhân nghĩa vẫn là tư tưởng soi đường và nó được đẩy thành:

    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

    Lấy chí nhân để thay cường bạo.

   Đại nghĩa – chí nhân được hiện thân qua hình tượng vị chủ tướng Lê Lợi – vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Cũng bởi nhân nghĩa mà Người đã vượt qua bao gian khổ, nuốt căm hờn và nung nấu ý chí đấu tranh. Để từ đó ngọn đuốc nhân nghĩa chói ngời làm nên những trận đánh liên tiếp, rung chuyển cả đất trời. Người đọc cảm nhận được khí thế hừng hực, ngút ngàn của quân ta được đặt trong thế tương phản đối lập với sự thất bại thảm hại nhục nhã, ê chề kẻ địch. Ta sĩ khí đã hăng/ quân thanh càng mạnh, càng đánh quân ta đã hăng lại càng hăng. Địch mới mấy trận đầu mà đã nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân thì rồi sau này có tiếp thêm quân chi viện cũng cứ thế mà nối tiếp nhau những thất bại. Cảnh thảm hại của kẻ thù trên chiến trường là minh chứng hùng hồn cho kết cục làm trái với nhân nghĩa luân thường. Chứng cớ trong quá khứ còn ghi:

    Lưu Cung tham công nên thất bại,

    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

   Giờ đây lịch sử lặp lại, thậm chí có phần thê thảm hơn:

    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

    Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.

    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,

    Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

   Đó là cái giá phải trả cho những kẻ làm việc trái với nhân nghĩa cũng chính là công lao to lớn của quân điếu phạt Lam Sơn đã thành công trong việc lo trừ bạo để cho đất nước thanh bình, dân chúng được an yên. Chiến thắng ấy là tất yếu, là chiến thắng của tinh thần nhân nghĩa, của đội quân nhân nghĩa.

   Và quân đội Lam Sơn rất xứng đáng là đội quân nhân nghĩa. Bởi cách hành xử đối với kẻ thua cuộc của tướng sĩ Lam Sơn đầy tính nhân văn, là việc làm chưa từng thấy xưa nay: Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh. Vậy hóa ra nhân nghĩa đâu chỉ bởi cho dân mình yên ổn, mà còn tạo cơ hội sống cho kẻ thù khi chúng thua cuộc. Việc cấp cho chúng năm trăm chiếc thuyền, vài nghìn cỗ ngựa… khiến giặc chẳng những thua trong đau đớn, nhục nhã mà còn thêm sợ hãi, nể phục hơn. Nhân nghĩa là cao thượng, bao dung. Mãi sau này, khi giặc Mĩ thua ta cũng được cấp nơi ăn ở, máy bay để chúng trở về nước. Phải chăng nó bắt nguồn từ truyền thống sâu xa, giàu tính nhân nghĩa có từ thời Lam Sơn đại thắng?

   Có thể thấy Nhân nghĩa là tư tưởng tiềm ẩn mà có người gọi là "mỏ quặng quý" phải khai thác, đào sâu, còn cái lộ thiên là lòng yêu nước, thương dân. Thật vậy, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn chặt với tư tưởng trung quân ái quốc, "dân vi bản" (lấy dân làm gốc). Lòng yêu nước thương dân là hiện thực hóa, cụ thể hóa cho tinh thần nhân nghĩa sáng ngời của Ức Trai. Bởi vậy, mới có quân điếu phạt lo cho dân yên, mới có chân lý độc lập chủ quyền để đập tan ý đồ xâm lăng của kẻ xấu, mới có một bản cáo trạng đanh thép đối với giặc Ngô đã chà đạp, tàn nhẫn với nhân dân ta và mới có một chặng đường gian nan mà vẻ vang của nhân dân bốn cõi chống lại kẻ thù. Lòng yêu nước thương dân đã mang tới một tinh thần nhân nghĩa giàu tính nhân văn, biểu hiện cao cả của chủ nghĩa nhân đạo, vốn là truyền thống đạo lý của dân tộc, cũng là một trong những nội dung quan trọng của giai đoạn sau trong văn chương trung đại.

   Nguyễn Trãi - Ức Trai đã ra đi trong một nỗi oan khiên thảm khốc, đau đớn, xót xa xé lòng… đó là những cảm xúc của bất kỳ người dân Việt Nam nào khi nhớ đến ông. Chỉ có thể là tư tưởng nhân nghĩa cả đời mà ông theo đuổi, cả đời ông cống hiến, xả thân đã thấm nhuần non sông, soi tỏ biết bao thế hệ con cháu Việt Nam thì chúng ta mới có cảm xúc trào dâng nghẹn ngào đến như vậy. Và mỗi lần như thế, cũng chỉ cần đọc lại Đại cáo bình Ngô để thêm một lần thấu hiểu giá trị to lớn mà tinh thần nhân nghĩa Ức Trai để lại cho muôn đời.

Bài văn mẫu 3

   Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.

   Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân "cuồng Minh", ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở "bình Ngô", tuyên bố đất nước Đại Việt bước vào kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.

   Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác cũa Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng "nhân nghĩa’' trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo, ông viết:

    "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".

   Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ "yên dân". Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải "trừ bạo" là trừ những kẻ sách nhiễu dân.

   Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội, một nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì "tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước". Chính vì "nhân nghĩa", vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ nhân dân ta như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống dân lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng ta phải trừng phạt. Như vậy có nghĩa là "việc nhân nghĩa", hành động nhân nghĩa không phải một cái gì đó trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng "việc" cụ thể là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các nguồn phản động chống triều đình để xây dựng xã hội "vua sáng, tôi hiền". Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của "đại nghĩa"-.

    "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

    Lấy chí nhân để thay cường bạo".

   Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. Ớ đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:

    "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ".

   Tội án "trời không dung, đất không tha" ấy của giặc Minh:

    "Trúc Nam Sơn không ghi hết tội

    Nước Đông Hải không rửa sạch mùi".

   Tội ác ấy phải trừng phạt. "Quân điểu phạt trước lo trừ bạo". Quân ở đây là nhân dân: tập hợp thành đội quân "đại nghĩa - chí nhân" để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là, triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ "Cáo bình Ngô", nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu lên một quan điển về quyền dân tộc, và do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đỉnh đạc và tự hào.

    "Như nước Đại Việt ta từ trước

    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

    Núi sông bờ cõi đã chia

    Phong tục Bắc Nam cũng khác

    Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phương".

   Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:

    "Lưu Cung tham công nên thất bại

    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".

   Thế mà nay bọn giặc Minh "mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn". Nhân nghĩa mà lại thế Lí? Thế đứng của một dân tộc trong nhân nghĩa bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo "lỗi đạo", ngạo mạn, xấc xược...

   Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta "lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều" đã làm nên chiến thắng.

    "Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

    Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.

    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.

    Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn".

   Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kè thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:

    "Đánh một trận, sạch không kình ngạc

    Đánh hai trận, tan tác chim muông".

   Miêu tả cuộc tổng chiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định "vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo".

   Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. "Chí nhân, đại nghĩa" là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truvền thống của con người Việt Nam. ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.

Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên chúng ta đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Có gì quý hơn sinh mạng con người? "Người, ta là hoa của đất’’ do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho "bốn phương biển cả thanh bình"... đối với quân giặc đã bị "cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng", chúng ta đã "chẳng giết hại" mà cho chúng "đường hiếu sinh". Chúng ta có cái thế để "xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó khi bọn giặc đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng". Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được "an dân" không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi dân ta được "nghỉ sức" trong thanh bình:

    "Xã tắc từ đây vững bền

    Giang sơn từ đây đổi mới".

   Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.

   Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quôc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại muốn cùng bỉnh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi chốn đồng cỏ" (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).

   Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và ước vọng "bốn phương biển cả thanh bình". Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.

   Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những phi công Mỹ ngụy. Họ đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tàn phá đất nước ta, gây bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy mà khi bắt sống những kẻ ấy, ta vẫn đối xử nhân đạo và sau ngày toàn thắng 30-4-1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.

    "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

    Lẩy chí nhân để thay cường bạo".

   Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc Minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng "thiên cổ hùng văn" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.

Đã có lời giải bài tập lớp 10 sách mới:

Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 10

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.

dai-cao-binh-ngo.jsp

Giải bài tập lớp 10 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên