SBT Ngữ văn 9 Chân trời sáng tạo Bài 8 Viết trang 50, 52

Với giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 8 Viết trang 50, 52 sách Chân trời sáng tạo hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Văn 9.

Giải SBT Ngữ văn 9 Chân trời sáng tạo Bài 8 Viết trang 50, 52

Quảng cáo

Câu 1 trang 50 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu:

Nét đặc sắc nghệ thuật đầu tiên của bài thơ này là hình ảnh. Bài thơ có sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng mà đặc sắc nhất là loại hình ảnh thứ hai. Sau câu thơ mở đầu Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác như lời tâm sự của người con miền Nam nói với Bác, ba câu thơ tiếp theo tập trung khắc hoạ hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê Việt Nam: Tre quanh lăng. Từ lâu, cây tre, hàng tre bát ngát xanh đã trở thành biểu tượng của xứ sở với những phẩm chất cao quý như thẳng, thuỷ chung, can đảm. Nhưng với tác giả, một người vừa trải qua ngay cuộc chiến đấu ở chiến trường miền Nam, thì phẩm chất nổi bật của cây tre là kiên cường, vững vàng trước mọi giông bão bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng còn được nhắc lại ở khổ thơ cuối bài (cây tre trung hiếu) như một ấn tượng sâu đậm nhất của tác giả về khung cảnh quanh lăng Bác.

Quảng cáo

Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ hai cặp câu với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi. Câu Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng là một hình ảnh thực, còn một mặt trời trong lăng rất đỏ là một hình ảnh ẩn dụ vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ (như mặt trời) vừa thể hiện được sự tôn kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác. Tương tự, dòng người đi trong thương nhớ là hình ảnh thực, còn câu Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân là một ấn dụ rất đẹp và sáng tạo về tình cảm yêu kính của nhân dân dành cho Bác. Ở khổ thơ thứ ba, hình ảnh ẩn dụ vầng trăng sáng trong dịu hiền gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác. Tâm trạng xúc động của tác giả còn được biểu hiện trực tiếp qua hai câu thơ:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Trời xanh cũng là một hình ảnh ẩn dụ về Bác. Bác tuy đã đi xa nhưng vẫn còn sống mãi với non sông, đất nước, như trời xanh kia là vĩnh cửu. Dù vẫn tin là thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người! Có thể nói những hình ảnh biểu tượng như mặt trời, tràng hoa, trời xanh, vầng trăng vừa quen thuộc, gần gũi (vì được tạo thành từ những hình ảnh thực) lại vừa có sức biểu cảm và giá trị biểu tượng lớn lao.

Quảng cáo

Điều tôi ấn tượng về nghệ thuật của bài thơ còn là giọng điệu. Bài thơ có giọng điệu rất phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc. Đó là giọng điệu vừa trang nghiêm, sâu lắng vừa tha thiết, đau xót, tự hào khi vào viếng lăng Bác. Giọng điệu ấy được tạo nên bởi nhiều yếu tố: Thể thơ, nhịp điệu, từ ngữ và hình ảnh. Thể thơ tám chữ, nhưng có những dòng thơ bảy hoặc chín chữ tuỳ theo cung bậc cảm xúc. Cách gieo vần trong từng khổ thơ cũng không cố định, có khi liền, có khi cách. Nhịp thơ nhìn chung là nhịp chậm; diễn tả sự trang nghiêm, thành kính, lắng đọng trong tâm trạng nhà thơ. Riêng khổ thơ cuối, nhịp thơ nhanh hơn, với điệp từ muốn làm được lặp lại ba lần, thể hiện mong ước thiết tha và nỗi lưu luyến của tác giả.

Nhưng đối với tôi, cái ấn tượng đậm nét về bài thơ không chỉ là đặc sắc về phương diện nghệ thuật mà còn là chủ đề của tác phẩm: Tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi viếng lăng Bác. Tấm lòng tha thiết, chân thành ấy được thể hiện thông qua hệ thống hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng đặc sắc như trên đã phân tích cùng giọng điệu thơ trang trọng, đau xót xen lẫn tự hào. Vì thế, có thể nói bài thơ là minh chứng cho một chân lí trong sáng tạo thơ ca, từng được nhà thơ Viên Mai đời nhà Thanh khẳng định trong “Tuỳ Viên thi thoại” “Làm thơ cốt ở tấm lòng, hãy để tấm lòng điều khiển bàn tay”.

Quảng cáo

(Theo Phân tích tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại từ góc nhìn thể loại,

Nguyễn Văn Long, NXB Giáo dục, 2009)

a. Vẽ sơ đồ thể hiện các luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong văn bản.

b. Em có nhận xét gì về cách sắp xếp luận điểm của tác giả trong bài viết?

c. Nhận xét về cách văn bản phân tích chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.

Trả lời:

a. Sơ đồ thể hiện các luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong văn bản:

- Luận điểm 1: Chủ đề của tác phẩm

+ Lí lẽ; Tấm lòng thành kính của nhà thơ dành cho Bác

+ Bằng chứng: Niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi viếng lăng Bác.

- Luận điểm 2: Những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật và tác dụng đối với việc thể hiện nội dung

+ Lí lẽ:  Sự kết hợp giữa hình ảnh thực (hàng tre, mặt trời đi qua trên lăng, dòng người), hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng (mặt trời, tràng hoa, trời xanh, vầng trăng) và tác dụng của chúng trong việc thể hiện chủ đề.

+ Bằng chứng: Giọng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc (vừa trang nghiêm, sâu lắng vừa thiết tha, đau xót, tự hào)

b. Nhận xét về cách sắp xếp luận điểm của tác giả trong bài viết: Nêu luận điểm về hình thức nghệ thuật của bài thơ, sau đó nêu luận điểm về chủ đề.

c. Nhận xét về cách văn bản phân tích chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật: Đầu tiên, người viết đưa ra luận điểm, sau đó sử dụng lí lẽ và các bằng chứng lấy từ tác phẩm để làm rõ cho luận điểm.

Ví dụ: Ở luận điểm 1, người viết đưa ra lí lẽ 1 “Bài thơ có sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng mà đặc sắc nhất là loại hình ảnh thứ hai”. Để làm rõ cho lí lẽ này, người viết đã phân tích các hình ảnh thực (hàng tre quanh lăng, mặt trời đi qua trên lăng, dòng người,...) kết hợp với các hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng (mặt trời trong lăng, tràng hoa, trời xanh, vầng trăng,...) để làm rõ tình cảm tôn kính, yêu thương chân thành, sâu sắc của tác giả bài thơ dành cho Bác.

Câu 2 trang 52 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Dựa vào bảng kiểm ở Bài 2 (Giá trị của văn chương – Ngữ văn 9, tập một, bộ sách Chân trời sáng tạo), thiết kế bảng kiểm kĩ năng viết bài văn nghị luận phân tích một bài thơ: chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.

Trả lời:

Bảng kiểm kĩ năng viết bài văn nghị luận phân tích một bài thơ: chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật

Tiêu chí

Đạt

Chưa đạt

Mở bài

Giới thiệu tên bài thơ, thể loại, tên tác giả (nếu có)

   

Khái quát nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ (chủ đề, hình thức nghệ thuật nổi bật)

   

Thân bài

Trình bày luận điểm về chủ đề bài thơ

   

Phân tích lí lẽ và bằng chứng để làm sáng tỏ một vài khía cạnh nội dung của chủ đề

   

Trình bày luận điểm về những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ

   

Phân tích lí lẽ và bằng chứng để làm sáng tỏ những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ

   

Kết bài

Khẳng định lại ý kiến về chủ đề, những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của bài thơ 

   

Nêu suy nghĩ, cảm xúc hoặc bài học rút ra từ bài thơ

   

Diễn đạt

Không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp 

   

Sử dụng từ ngữ phù hợp

   

Có phần mở bài lôi cuốn, hấp dẫn

   

Có cách kết bài ấn tượng, đặc sắc

   

Câu 3 trang 52 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Thực hiện đề bài sau:

Đề bài: Câu lạc bộ Văn học trường em tổ chức cuộc thi viết với chủ đề “Văn học và tuổi trẻ”. Em hãy chọn một bài thơ/ đoạn trích ngâm khúc mà mình yêu thích (thể thơ song thất lục bát, lục bát,...) để viết bài nghị luận và tham gia cuộc thi.

Trả lời:

Bước 1: Chuẩn bị trước khi viết

Trả lời các câu hỏi: Đề tài bài viết là gì? Bài được viết nhằm mục đích nào? Người đọc là ai? Họ mong chờ điều gì ở bài viết này? Từ đó, lựa chọn cách trình bày phù hợp, hiệu quả.

Đề bài yêu cầu em chọn một bài thơ mà mình yêu thích, không bắt buộc về thể thơ. Nếu em muốn chọn một bài thơ thể song thất lục bát hoặc đoạn trích ngâm khúc, tham khảo một số gợi ý sau:

- Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến).

- Bà má Hậu Giang (Tố Hữu).

- Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ (Cung oán ngâm, Nguyễn Gia Thiều).

- Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn).

Sau khi chọn được đề tài, tiến hành thu thập và lập bảng thống kê tư liệu như hướng dẫn ở Bài 2.

Bước 2: Tìm ý và lập dàn ý

Em tiến hành tìm ý cho bài viết bằng cách điền vào Phiếu tìm ý phân tích bài thơ (xem phiếu tham khảo ở Bài 8 trong sách giáo khoa) và sắp xếp thành dàn ý hoàn chỉnh, dựa vào Tri thức về kiểu bài ở Bài 2.

Ví dụ, đối với bài thơ Viếng lăng Bác (Viễn Phương) được phân tích ở bài tập 1, dàn ý có thể như sau:

- Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, khái quát chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.

- Thân bài:

+ Luận điểm 1: Những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.

• Lí lẽ 1: Hình ảnh thơ (kèm phân tích bằng chứng lấy từ tác phẩm). 

• Lí lẽ 2: Giọng điệu (kèm phân tích bằng chứng lấy từ tác phẩm). 

+ Luận điểm 2: Chủ đề của tác phẩm.

• Khía cạnh thứ nhất: Tấm lòng thành kính của nhà thơ dành cho Bác (kèm phân tích lí lẽ, bằng chứng để làm sáng tỏ nội dung chủ đề).

• Khía cạnh thứ hai: Niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi viếng lăng Bác (kèm phân tích lí lẽ, bằng chứng để làm sáng tỏ nội dung chủ đề).

– Kết bài: Khẳng định lại ý kiến về chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật; nêu suy nghĩ, tình cảm, bài học rút ra từ tác phẩm.

Bước 3: Viết bài

Từ dàn ý, em viết bài văn hoàn chỉnh; chú ý đảm bảo không mắc lỗi chính tả, dùng từ; diễn đạt mạch lạc. Cần viết mở bài lôi cuốn, hấp dẫn và kết bài ấn tượng, đặc sắc (xem hướng dẫn ở Bài 2). Có thể tham khảo Bảng kiểm kĩ năng viết bài văn nghị luận phân tích một bài thơ: chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật (đã làm ở bài tập 2) trước khi viết để đảm bảo bài viết đi đúng hướng, đáp ứng được yêu cầu của kiểu bài.

Bài tham khảo:

Đã từ lâu, tình bạn đã được đề cập đến trong các tác phẩm văn học. Nguyễn Khuyến là nhà văn sở hữu số lượng lớn các bài thơ mang chủ đề rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày như thế. Nếu như trong Bạn đến chơi nhà, ông dùng giọng văn hóm hỉnh, khôi hài để nói về tình bạn không màng vật chất, thì sang bài thơ Khóc Dương Khuê, giọng thơ đã thay đổi hẳn. Cả bài thơ như tiếng khóc nấc lên trong sự buồn bã của Nguyến Khuyến khi đến đám tang của người bạn Dương Khuê. Đặc biệt trong 16 câu thơ cuối:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Nỗi xót thương cho người bạn quá cố càng được thể hiện đậm nét.

Nguyễn Khuyến xuất thân là nhà nho, có tài văn chương, đỗ đầu cả ba kỳ thi nên còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông thường viết về gia đình, bạn bè, quê hương và châm biếm bọn thực dân. Bài thơ Khóc Dương Khuê ban đầu được viết bằng chữ Hán, sau được Nguyễn Khuyến dịch lại bằng chữ Nôm. Dương Khuê là bạn của Nguyễn Khuyến, mặc dù kém tuổi nhưng Dương Khuê cũng đỗ chức tước cao, trở thành tri âm của Nguyễn Khuyến. Mười sáu câu thơ cuối là nỗi đau đáu, thương xót của Nguyễn Khuyến trước sự ra đi đột ngột của bạn.

Hai câu thơ mở đầu được nhà thơ viết bằng giọng văn khôi hài, nhưng chua xót, bộc lộ sự đau lòng của ông:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày.”

Quả thật, Nguyễn Khuyến hơn Dương Khuê bốn tuổi, nhưng Nguyễn Khuyến vẫn gọi Dương Khuê bằng giọng thân mật “tôi - bác”. Câu thơ “đau trước bác mấy ngày” sử dụng biện pháp ẩn dụ, ý chỉ sự ra đi của Dương Khuê quá đột ngột, khiến tác giả không thôi giật mình và đau đớn.

Trong bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc trầm lắng, đau thắt lòng:

“Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng mà mải lên tiên.”

Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm, nói tránh và biện pháp nói quá rất khéo léo,, ý nhị. Để chỉ sự ra đi của người bạn thân, ông dùng những từ “vội về ngay”, “chán đời”, “vội vàng”, “lên tiên”, với mục đích để giảm đi sự đau thương, nhưng sao câu thơ vẫn đau bội phần như vậy. Nói tránh đi sự ra đi của bạn, Nguyễn Khuyến phóng đại nỗi đau của mình “chân tay rụng rời”. Chắc hẳn, vì quá bất ngờ, ông đã không kìm được cảm xúc mà suy sụp, đau như “chân tay rụng rời”.

Trước kia, tất cả những thú vui trên cõi đời đều có ông và Dương Khuê hưởng thụ. Nhưng nay, những niềm vui đó bỗng trở nên chán chường, vô nghĩa bởi đã mất bạn rồi:

“Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa;

Giường kia treo cũng hững hờ,

Đàn kia gãy củng ngẩn ngơ tiếng đàn.”

Rượu luôn là thức uống yêu thích của thi nhân, thế nên mới có thi tửu. Nhưng rượu chỉ ngon khi được uống cùng bạn hiền. Biện pháp điệp từ “không” ba lần liên tiếp trong một câu thơ như nhân lên ba lần sự vô vị, không ham muốn thi tửu của Nguyễn Khuyến khi không có bạn. Hôm nay không mua rượu, không phải do không có tiền, mà là do không còn tri âm.

Bài thơ vẫn còn dang dở, chưa viết xong, bởi với ông, mất bạn rồi thì còn ai để đọc. Một lần nữa, biện pháp điệp ngữ lại xuất hiện, điệp từ “ai” và”đưa” hai lần, kết hợp với biện pháp chơi chữ “viết đưa ai” - “ai biết mà đưa”. Đây như một vòng luẩn quẩn, viết xong cũng không biết đưa cho ai, mà cũng không có ai để đưa. Mất đi Dương Khuê, Nguyễn Khuyến gần như mất đi cả một người đọc tri kỉ của mình.

Các sự vật tạo niềm vui khác như giường, đàn cũng mất đi sự sống, trở nên “hững hờ” và “ngẩn ngơ”. Đây là hai từ láy rất đặc sắc trong đoạn thơ, đồng thời là hai từ ngữ nhân hóa, khiến các sự vật tưởng như vô cảm ấy cũng đang hòa dần với nỗi đau mất mát bạn của nhà thơ. Sau cùng, thú vui để thưởng ngoạn với bạn, mất bạn rồi, thú vui cùng dần trở thành nỗi buồn sâu lắng.

Đau đớn là vậy, xót thương là vậy, nhưng Nguyễn Khuyến cũng đành chấp nhận sự thật rằng bạn đã đi xa:

“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương.

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Nguyễn Khuyến trách móc, hờn dỗi bạn khi “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở”. Đây là một điều vô lý nhưng hết sức hợp lý. Vô lý bởi Dương Khuê mất do tuổi già, nên cho dù nhà thơ có trách móc, van nài thì Dương Khuê cũng đâu thể nghe thấy được. Nhưng hợp lý là bởi, Nguyễn Khuyến quá nhớ thương Dương Khuê, mong muốn bạn ở lại với mình, nên mới buông lời mà trách nhẹ nhàng thế.

Mãi đến tận cuối bài thơ, ta mới thấy xuất hiện giọt nước mắt của nhà thơ. Nhưng sao giọt nước mắt ấy lại “như sương”, mà còn phải ‘ép” mới ra? Đọc đến đây, ta chợt nhớ lại giọt nước mắt cũng phải “ép” mới ra của Lão Hạc trong tác phẩm của Nam Cao. Một phần cũng là do tuổi cao nên khó chảy nước mắt. Nhưng phần nhiều, do lão quá đau khổ vì mất cậu Vàng, nên không thể khóc thành dòng được nữa. Cũng như vậy, Nguyễn Khuyến cũng nói một phần do “tuổi già”, nhưng thật ra, sâu trong thâm tâm, ông đau lòng đến độ thật khó để có “hai hàng chứa chan”. Nước mắt chảy ngược vào trong, như thể ông đang “nuốt” cái thương bạn vào trong bụng.

Bằng những câu thơ sử dụng ngôn ngữ bình dân mộc mạc, gần gũi, từng câu thơ chất chứa cảm xúc mãnh liệt, sử dụng tài tình biện pháp nhân hóa, phép điệp ngữ, biện pháp so sánh, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ lòng thương bạn, đau đớn muôn phần khi mất bạn, nhưng đồng thời cũng thể hiện thái độ chấp nhận sự thật. Đọc bài thơ, ta càng thêm trân trọng hơn những tình bạn đẹp đẽ, trong sáng giữa đời thường.

Bước 4: Xem lại và chỉnh sửa, rút kinh nghiệm

Đọc lại bài viết, dựa vào Bảng kiểm kĩ năng viết bài văn nghị luận phân tích một bài thơ: chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật để tự đánh giá và chỉnh sửa bài viết (nếu có). Ghi lại các kinh nghiệm bản thân thu nhận được để viết tốt hơn ở những lần sau.

Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 8: Những cung bậc tình cảm (Thơ song thất lục bát) hay khác:

Xem thêm giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 9 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài giải sbt Văn 9 Chân trời sáng tạo của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sách Bài tập Ngữ văn 9 Tập 1 và Tập 2 (NXB Giáo dục).

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 Chân trời sáng tạo khác
Tài liệu giáo viên