SBT Ngữ văn 9 Chân trời sáng tạo Bài 4 Viết trang 61, 62

Với giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 4 Viết trang 61, 62 sách Chân trời sáng tạo hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Văn 9.

Giải SBT Ngữ văn 9 Chân trời sáng tạo Bài 4 Viết trang 61, 62

Quảng cáo

Câu 1 trang 61 SBT Ngữ Văn 9 Tập 1: Dòng nào dưới đây nêu được yêu cầu quan trọng về cách thức khi thực hiện kiểu bài viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc:

a. Phát huy trí tưởng tượng của người viết.

b. Dùng kĩ năng kể chuyện của người viết.

c. Phỏng theo một truyện đã đọc một cách sáng tạo.

d. Kết hợp sử dụng được các yếu tố miêu tả, biểu cảm.

Trả lời:

Phương án c. Phỏng theo một truyện đã đọc một cách sáng tạo.

Câu 2 trang 61 SBT Ngữ Văn 9 Tập 1: Đọc lại bài thơ Sơn Tinh, Thuỷ Tinh của Nguyễn Nhược Pháp và nêu rõ:

a. Một số chi tiết phỏng theo truyền thuyết dân gian Sơn Tinh, Thuỷ Tinh;

b. Một số chi tiết sáng tạo thêm của tác giả.

c. Em học được gì qua cách kể chuyện của Nguyễn Nhược Pháp.

Quảng cáo

Trả lời:

Chi tiết phỏng theo

Chi tiết sáng tạo thêm

Rất nhiều chi tiết, sự kiện đều phỏng theo truyền thuyết. Ví dụ:

– Vua Hùng kén rể.

– Sơn Tinh, Thuỷ Tinh thi tài.

Sơn Tinh mang lễ vật đến trước được đón Mị Nương về núi.

– Thuỷ Tinh đến sau gây hấn, cuộc chiến nổ ra.

– Thuỷ Tinh thua trận nhưng không cam tâm, hằng năm tiếp tục gây hấn.

Ngoại hình, hành vi, lời nói; tâm trạng, cảm xúc của các nhân vật trong văn bản đều do nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp sáng tạo thêm (trích dẫn chi tiết cụ thể trong văn bản thơ).

Một số thu hoạch về cách viết truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc có thể là: cách mô phỏng cốt truyện, nhân vật, cách kết hợp miêu tả, biểu cảm của tác giả Nguyễn Nhược Pháp trong bài thơ.

Câu 3 trang 62 SBT Ngữ Văn 9 Tập 1: Nêu tóm tắt yêu cầu về nội dung của các phần Mở đầu truyện, Diễn biến truyện, Kết thúc truyện đối với kiểu bài Viết một truyện kể sáng tạo đưa trên một truyện đã đọc.

Trả lời:

Mở đầu truyện: Giới thiệu nhân vật/ bối cảnh/ nội dung chính của truyện kể.

Quảng cáo

Diễn biến truyện: Thuật lại diễn biến các sự việc trong câu chuyện theo một trình tự hợp lí; thể hiện được khả năng tưởng tượng và cách kể chuyện sáng tạo; có kết hợp sử dụng các yếu tố miêu tả, biểu cảm trong khi kể chuyện.

Kết thúc truyện: Phù hợp, gây ấn tượng hoặc gợi suy nghĩ đối với người đọc (tuỳ trường hợp có thể giải thích hoặc khái quát ý nghĩa bài học từ truyện kể).

Câu 4 trang 62 SBT Ngữ Văn 9 Tập 1: Thực hành viết theo quy trình với đề bài sau:

Đề bài:

Viết một truyện kể sáng tạo (khoảng 1.000 chữ) phỏng theo một trong những truyện truyền kì hay truyện có yếu tố kì ảo em đã đọc. Truyện kể có sử dụng các yếu tố miêu tả, biểu cảm.

Trả lời:

Bước 1: Chuẩn bị viết

Em tìm đọc một truyện truyền kì hay truyện có yếu tố kì ảo, sau đó, đọc lại yêu cầu về kiểu bài kể chuyện sáng tạo phỏng theo một truyện đã đọc trong sách giáo khoa, sau đó thực hiện theo bốn bước của tiến trình viết.

Quảng cáo

Bước 2: Tìm ý, lập dàn ý

Tìm ý: Chọn đề tài, câu chuyện đã đọc phù hợp để phỏng theo; tóm tắt cốt truyện, liệt kê nhân vật, chọn nhân vật chính,... dự kiến vị trí cài đặt yếu tố miêu tả, biểu cảm,...

Lập dàn ý: Dựa theo bố cục ba phần đã tóm lược ở Bài tập 3.

Bước 3: Viết bài

Dựa trên dàn ý, em viết bài văn ở nhà. Trên lớp, theo hướng dẫn của thầy/cô, em thực hành viết một đoạn văn kể chuyện và sử dụng bảng kiểm dưới đây để tự đánh giá về đoạn văn.

Bài văn mẫu tham khảo:

Có nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi một truyền kỳ về người anh hùng ở làng Gióng, được truy phong là Phù Đổng Thiên Vương, mà nhân dân Việt Nam ta đời đời nhớ ơn.

Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, ở một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng nghèo, sống rất tình nghĩa, phúc đức, cuộc sống khó khăn không khiến họ mệt mỏi hay nản chí thế nhưng tuổi cả hai ngày một lớn mà mong mỏi mãi cũng không có lấy một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai vợ chồng lấy làm buồn lòng lắm, hàng xóm cũng cảm thấy xót xa cho họ. Một hôm trời nắng to, bà lão theo lệ thường ra ruộng làm cỏ, trong lúc đang cặm cụi nhổ cỏ thì bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân người đặc biệt to lớn. Không biết trời xui đất khiến thế nào bà lại đưa chân mình vào ướm thử, sau chuyện ấy bà cũng quên khuấy đi, ba tháng sau bà bỗng cảm thấy người mệt mỏi, chán ăn, đến thầy lang khám bệnh thì hay tin mình có thai. Khi nghe tin cả hai vợ chồng đều rất đỗi vui mừng mà sung sướng, bởi ước nguyện bấy lâu đã trở thành hiện thực, gia đình nhỏ của hai vợ chồng dần trở nên ấm áp hơn cả, ngày ngày chờ đợi đứa con bé bỏng ra đời trong hạnh phúc. Nhưng lạ thay, đã qua chín tháng mười ngày tròn mà người vợ vẫn chưa trở dạ, hai vợ chồng lấy làm lo lắng, đợi mãi đến khi cái thai được tròn mười hai tháng, thì đứa trẻ mới chịu chui từ bụng mẹ ra. Vừa ra đời người ta đã nhận xét rằng đây là một đứa bé có tư chất hơn người, bởi vẻ thông minh sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, vợ chồng ông lão nghe thứ thì lại càng vui mừng hơn cả, đặt cho con cái tên là Gióng, cho dễ nuôi. Cuộc sống một gia đình ba người cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng lạ thay mãi đến ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết đi biết đứng, cha mẹ đặt đâu thì em ngồi đấy, em cũng chưa hề mở miệng nói một câu nào, điều ấy làm cho hai vợ chồng sốt ruột, bồn chồn không yên vì sợ con mình có bệnh lạ.

Năm ấy, giặc ở phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược, giày xéo mảnh đất Lạc Việt, thế giặc mạnh, vua Hùng cùng với các Lạc Hầu, Lạc Tướng rất lấy làm lo lắng. Trước tình hình ấy vua bèn nảy ra một ý, cho sứ giả truyền tin tuyển mộ người tài, đức ra giúp nước. Khi sứ giả vừa loan tin đến đầu làng, thì Gióng bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con”, người mẹ tuy sửng sốt nhưng vẫn chạy ra mời sứ giả vào. Vào đến nơi, sứ giả chỉ thấy một cậu bé ba tuổi và hai vợ chồng đã tuổi xế chiều, thì lấy làm tức giận, tưởng mình bị đùa giỡn, thế nhưng Gióng đã kịp lên tiếng: “Giặc đã hoành hành khá lâu, ta xin nguyện vì bệ hạ, vì non sông xung phong đánh giặc, khẩn cầu ngài về tâu với nhà vua chế tạo cho ta một chiếc roi sắt từ loại sắt tốt nhất, đảm bảo đánh trăm trận mà không gãy, ban cho ta một con chiến mã bằng sắt nặng ngàn cân và một bộ giáp sắt nặng trăm cân, giáo mác xuyên không thủng. Như thế ta có thể yên tâm diệt giặc”. Sứ giả nghe thế thì lấy làm mừng rỡ vì đích thị đây là nhân trung long phượng, là bậc kỳ tài hiếm có nên mới có thể có khẩu khí hiên ngang, oai hùng của võ tướng như thế. Kể từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm gạo ăn cũng không đủ, dân làng người nhà nhà chung tay góp cơm, góp gạo cho Gióng ăn, thầm mong chàng sớm ngày đánh tan lũ giặc xâm phạm bờ cõi.

Mười ngày sau, mọi thứ mà Gióng yêu cầu đều được mang tới cả, lúc này đây từ một đứa bé ba tuổi, Gióng đã trở thành chàng trai cao lớn vượt trội, tầm vóc phi phàm, thân hình cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, từ biệt quê hương và lên đường diệt giặc, trước khi đi Gióng quay lại nhìn cha mẹ “Kiếp này đa tạ phụ mẫu đã sinh dưỡng!”, rồi hướng thẳng phía trước mà đi, con ngựa sắt vốn tưởng là khối sắt không có linh tính, thế nhưng lúc này đây nó lại phát ra tiếng hí vang trời, rồi phóng vụt đi, chốc lát chỉ còn lại cái bóng mờ mờ của người anh hùng, lẫn trong đám bụi thổi tung. Ngựa chạy một đường đến nơi đóng quân của giặc, ngựa đi đến đâu phun lửa đến đấy, thiêu trụi hết lương thực và lều trại của quân địch, chúng hoảng hồn bỏ cả vũ khí mà chạy thoát thân, kẻ giẫm đạp lên nhau, người thì chết dưới vó ngựa. Tráng sĩ vung roi sắt quất liên hồi vào lũ giặc cướp nước, khiến chúng chết như ngả rạ dưới vó ngựa, thế nhưng giặc quá đông, sau ba ngày chinh chiến thì không may roi sắt gãy làm đôi. Lúc này đây tráng sĩ vừa đuổi giặc đến khu vực có những lũy tre già hàng mấy chục tuổi, ngựa sắt phun lửa làm loài tre ấy trở nên vàng bóng. Nhanh trí, tráng sĩ đã dùng sức mạnh nhổ hẳn cây tre to nhất bên đường làm vũ khí thay roi sắt, kỳ diệu thay vốn chỉ là cây cỏ thế nhưng trên tay tráng sĩ, cay tre bỗng trở nên mạnh mẽ không kém gì so với những thứ vũ khí sắc bén khác. Sau bảy ngày chiến đấu, cuối cùng đất nước ta cũng sạch bóng quân thù, chỉ còn lại hàng vạn xác chết chốn sa trường, khung cảnh tiêu điều tan hoang.

Tráng sĩ sau khi diệt giặc thì thúc ngựa chạy vào rừng sâu, tìm nơi có dòng suối nguồn trong trẻo chưa ai biết đến, tắm rửa sạch sẽ, cởi bỏ lại bộ giáp sắt, như một cách báo cáo hoàn thành sứ mệnh, rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. Vua Hùng để tưởng nhớ công ơn đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và cho xây lập đền thờ ngay tại quê nhà, để đời đời được hưởng nhang khói của nhân dân.

Bảng kiểm kĩ năng viết đoạn văn kể chuyện sáng tạo có kết hợp sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm.

Tiêu chí

Đạt

Chưa đạt

Các câu tập trung vào chủ đề/ ý chính

Đoạn văn gồm nhiều câu (ít nhất ba câu).

Có chủ đề, ý chính (các câu trong đoạn xoay quanh một sự việc, tình tiết của câu chuyện tưởng tượng).

Các câu được kết nối phù hợp thành đoạn văn.

Có kết hợp kể chuyện với miêu tả, biểu cảm

Có câu văn kể chuyện.

Có câu văn miêu tả.

Có câu văn biểu cảm.

Có kĩ năng dựng đoạn và diễn đạt

Viết câu đúng ngữ pháp và đúng yêu cầu kể chuyện, miêu tả biểu cảm.

Sử dụng từ ngữ chọn lọc.

Sử dụng ngữ điệu, dấu câu phù hợp.

Bước 4: Xem lại, chỉnh sửa và rút kinh nghiệm

Em sử dụng bảng kiểm dưới đây để kiểm soát kĩ năng viết bài văn kể chuyện và kĩ năng viết đoạn văn kể chuyện:

Bảng kiểm kĩ năng viết một truyện kể sáng tạo mô phỏng truyện đã đọc

Tiêu chí

Đạt

Chưa đạt

Mở đầu truyện

Giới thiệu nhân vật/ bối cảnh/ nội dung chính của câu chuyện.

Có phần dẫn dắt lôi cuốn, thu hút sự chú ý của người đọc.

Đảm bảo nội dung chính của truyện gốc.

Diễn biến truyện

Có nhân vật.

Có cốt truyện.

Sử dụng ngôi kể phù hợp.

Câu chuyện được thuật lại với sự kiện, diễn biến hợp lí.

Thể hiện sự sáng tạo của bản thân người viết (về nhân vật/ sự kiện/ tình huống, bối cảnh/ chi tiết,...).

Kết hợp lời kể với lời miêu tả, biểu cảm.

Làm nổi bật sự kiện, nhân vật chính.

Nội dung truyện kể có ý nghĩa, có tính giáo dục.

Kết thúc truyện

Phù hợp với diễn biến câu chuyện.

Gây ấn tượng hoặc gợi suy nghĩ đối với người đọc.

Kĩ năng sử dụng lời văn kể chuyện

Câu văn giàu hình ảnh.

Lời kể linh hoạt, tự nhiên.

Đảm bảo dung lượng khoảng 1.000 chữ.

Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 4: Con người trong thế giới kì ảo hay khác:

Xem thêm giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 9 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài giải sbt Văn 9 Chân trời sáng tạo của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sách Bài tập Ngữ văn 9 Tập 1 và Tập 2 (NXB Giáo dục).

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 Chân trời sáng tạo khác
Tài liệu giáo viên