10+ Phân tích nhân vật Huấn Cao (hay, ngắn gọn)

Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

10+ Phân tích nhân vật Huấn Cao (hay, ngắn gọn)

Dàn ý Phân tích nhân vật Huấn Cao

Quảng cáo

I. Mở bài

- Giới thiệu hình tượng nhân vật trung tâm trong Vang bóng một thời của tác giả tài hoa Nguyễn Tuân: Những nho sĩ cuối mùa tuy thất thế nhưng vẫn giữ thiên lương và sự trong sạch của tâm hồn

- Huấn Cao trong Chữ người tử tù (in trong VBMT) là một trong số đó. Hiện lên trong tác phẩm là một con người mang tài hoa, khí phách và thiên lương

Quảng cáo

II. Thân bài

1. Huấn Cao- người nghệ sĩ tài ba

- Huấn Cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp.

- Tài năng của ông đã được nói tới một cách kính nể qua cuộc nói chuyện giữa Quản ngục và thơ lại:

    + Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người có tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”

- Tài năng ấy được thể hiện qua thái độ sùng kính của Quản ngục: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời

- Sự tài hoa thể hiện trong cảnh cho chữ: “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ”

⇒ Huấn Cao thực sự đã trở thành một người nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp

2. Huấn Cao – con người của khí phách hiên ngang, bất khuất

- Khí phách hiên ngang thể hiện trong cuộc nói chuyện của quản ngục:

    + “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”

    + coi nhà tù thực dân như chốn không người, “ra tay tháo cũi xổ lồng như chơi”, có tài bẻ khóa vượt ngục

    + “văn võ kiêm toàn”

⇒ lí tưởng sống cao đẹp, dám chống lại triều đình mà ông căm ghét, khinh bỉ.

- Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa chống lại triều đình.

- Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông:

⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho

- Khí phách thể hiện qua thái độ thán phụccủa quản ngục và thầy thơ lại

Quảng cáo

- Khí phách thể hiện qua thái độ của bọn lính: kiêng nể “tên này nguy hiểm và ngạo ngược nhất trong bọn”

- Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”

⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.

- Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì ...vào đây”.

⇒ Không khuất phục trước cường quyền.

⇒ khí phách của một người anh hùng.

3. Huấn Cao – người mang thiên lương đáng trọng

- Tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “Không vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ” ⇒ trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỉ.

- Khi chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân

- Khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ

⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.

- Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa ... trong thiên hạ”

⇒ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.

⇒ Huấn Cao là một anh hùng - nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.

Quảng cáo

4. Sự thống nhất của tài hoa, khí phách, thiên lương làm nên cảnh cho chữ - “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”

- Hình tượng Huấn Cao đang “dậm tô nét chữ” trên “tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ” trong hoàn cảnh “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” ở nơi tù ngục tối tăm ⇒ kết tinh cho tài hoa, khí phách, thiên lương

- thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn

5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao

- Đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo

- Nghệ thuật tương phản đối lập

- Ngôn ngữ miêu tả nhân vật giàu chất tạo hình.

III. Kết bài

- Khái quát những nét nghệ thuật tiêu biểu xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao

- Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về nhân vật: Huấn Cao là một tấm gương về vẻ đẹp toàn tài con người hôm nay hướng tới

Phân tích nhân vật Huấn Cao - mẫu 1

   Nguyễn Tuân - người nghệ sĩ suốt một đời “đi tìm cái đẹp, cái thật”. Nhắc đến Nguyễn Tuân ta không quên nhắc đến tập truyện “Vang bóng một thời” được nhà nghiên thời” gồm 11 truyện mang cảm hứng sáng tác của ông trước Cách mạng tháng Tám là ca ngợi những con người tài hoa, tài tử của “Một thời vang bóng”. Tiêu biểu là nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” một con người tài hoa viết chữ đẹp, một nhân cách thiên lương trong sáng đồng thời cũng là người anh hùng hiên ngang, bất khuất.

   Huấn Cao là nhân vật được xếp vào danh mục của con người tài hoa, người anh hùng có chí lớn tuy không thành bị bắt giam nơi cửa ngục nhưng vẫn có khí chất ngang tàn, hiển hách để lại danh tiếng lẫy lừng. Sự thống nhất giữa cái tài và cái tâm, giữa cái đẹp và cái hùng đã làm cho Huấn Cao sáng rực giữa chốn ngục tù với thiên lương cao đẹp.

   Trước tiên ta bàn về Huấn Cao với tư cách là một người anh hùng. Nhân vật Huấn Cao được xây dựng trên nguyên mẫu ông Cao Bá Quát_một người tài ba nổi danh văn hay chữ tốt nhưng lận đận trên con đường hoạn lộ công danh cuối cùng chọn cho mình một lối đi riêng, ông cùng với các sĩ phu yêu nước tổ chức nổi dậy khởi nghĩa tại Mỹ Lương thuộc vùng Sơn Tây chống lại triều đình và đã hi sinh ở cuối thế kỉ XIX. Dân tộc ta “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có” những con người như Cao Bá Quát đi vào sáng tác Nguyễn Tuân là Huấn Cao làm sáng rực cho chí khí anh hùng của thời đại. Khí phách anh hùng của Huấn Cao được biểu hiện trước tiên là qua suy nghĩ của viên quản ngục ông là một con người chọc trời khuấy nước “có tài bẻ khóa và vượt ngục”, “một tên tù có tiếng là nguy hiểm”, kẻ đứng đầu bọn phản nghịch chống lại triều đình. Chính ấn tượng đầu tiên đó của viên quan coi ngục cho thấy Huấn Cao không phải là một tên phạm nhân tầm thường. Khí phách hiên ngang của ông còn được thể hiện ngay những giờ phút đầu tiên xuất hiện ở trại giam với hành động “thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái” khiến cho rệp rơi như một trận mưa mặc cho lời đe dọa, quát nạt của bọn lính canh. Đó là hành động biểu thị sự tự do, cái tôi ngông trong con người Huấn Cao muốn làm gì thì làm cho bằng được. Một sự ngang tàn hiếm thấy trong người hùng ấy là sự ung dung, tự tại khi trong ngục tù “thản nhiên nhận rượu thịt” của viên quản ngục coi đó là một điều rất bình thường. Có mấy ai khi cái chết đã được báo trước mà vẫn an tâm ăn uống được như vậy? Điều đặc biệt là khi ông làm ra vẻ khinh bạc viên quản ngục “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây” xưa nay ta chỉ thấy quản ngục đánh mắng tử tù hiếm thấy điều ngược lại là tử tù sỉ nhục quan coi ngục. Khi nhận được công văn phải ra pháp trường ông bình thản đón nhận cái chết. Với người hùng thì hoài bão, chí hướng mới là quan trọng chứ đáng chi đâu “Cái chết nhẹ tựa lông hồng”. Ông là một con người không sợ cường quyền, không sợ binh đao cũng chẳng sợ bất cứ thứ gì. Ông xứng với cái chí nam nhi của cha ông “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”.

   Huấn Cao còn là một người nghệ sĩ tài hoa với tài viết chữ đẹp - nghệ thuật thư pháp. Đây là một môn nghệ thuật được kết tinh bởi nét đẹp của hội họa và sự tinh túy của văn chương tạo nên những câu đối với nét chữ thanh đậm, uốn lượn tạo hình tạo khối trên nền của bức hoành phi, tấm lụa trắng hay bộ tứ bình. Những nét chữ thể hiện được cái tài, cái tâm tình của một tay bút tài hoa điêu luyện có học vấn uyên thâm và cốt cách thanh cao. Nguyễn Tuân không để cho nhân vật của mình xuất hiện trực tiếp mà qua lời đối thoại của viên quản ngục với thầy thơ lại: “Huấn Cao, hay là cái người mà khắp tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp đó không?” Ngoài ra cái tài của ông Huấn còn được thể hiện qua sở nguyện, mong muốn của viên quản ngục “có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đố do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Nguyễn Tuân đã miêu tả cái tài của ông Huấn qua sở nguyện của viên quản ngục để làm nổi bật lên chất nghệ sĩ tài hoa tài tử hiếm có trên đời mà bao người khao khát mong có được.

   Huấn Cao còn là một con người có thiên lương trong sáng. Nếu chỉ có tài hoa nghệ sĩ và khí phách anh hùng thôi thì chưa đủ làm người cần có cái tâm bởi “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” theo như Nguyễn Du nhận xét. Nếu Huấn Cao một con người “đầu đội chân đạp đất” mà không có tâm thì sẽ trở thành kẻ lạnh lùng và sự cố tình khinh bạc đối với viên quản ngục sẽ làm mất đi thiện cảm của độc giả đối với ông. Nhưng Huấn cao lại là một con người có thiên lương thanh cao, thuần khiết. Điều đó được thể hiện qua các phương diện sau:

   Thứ nhất: trong thái độ của ông đối với quan coi ngục bởi ông cho rằng hắn ta chỉ là một kẻ tầm thường, nhưng sau khi thấy được sự chân tình, tấm lòng biệt nhưỡng liên tài và sở nguyện cao quý của viên quản ngục mà cảm động vô cùng. Ông ân hận vì “Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Qua chi tiết ấy cho thấy quan niệm sống, lẽ sống của Huấn Cao là sống sao cho xứng đáng với lòng người, nếu phụ lòng một người đáng được trân trọng là một tội lỗi khó có thể tha thứ.

   Thứ hai: thể hiện trong tính cách con người ông “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Không phải ai Huấn Cao cũng viết chữ cho, trong cuộc đời ông mới cho chữ ba lần là ba người bạn chí cốt của mình. Tiền tài, danh vọng không thể mua chuộc, cường quyền bạo lực cũng không thể ép buộc “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đố bao giờ”. Huấn Cao một con người coi khinh danh lợi, trọng nghĩa khí anh tài.

   Thứ ba: phẩm giá của Huấn Cao được tỏa sáng rực rỡ nhất trong cảnh cho chữ trước khi ông bị ra chém đầu. Trong không gian ngục tù tăm tối, hôi hám, bẩn thỉu “tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” ấy diễn ra cảnh tượng cho chữ xưa nay chưa từng có. Không chỉ cho chữ ông còn cho viên quản ngục lời khuyên vô giá “Thầy quản nên tìm về quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Huấn Cao là người rất quý trong thiên lương dù cho đó là một người bình thường trong xã hội ông cũng luôn muốn người ta sống đúng với bản chất, giá trị của mình.

   Như vậy Huấn Cao là một nhân vật hiếm có, để lại ấn tượng sâu sắc trong lịch sử văn học dân tộc. Nếu như nhắc đến một nho sĩ tài ba sẽ khiến ta nghĩ ngay đến những con người dùi kinh mài sử với bộ dạng thư sinh nho nhã, cuộc đời họ luôn bị khống chế bởi tư tưởng trung quân ái quốc chứ nào có sức mạnh và khí phách hiên ngang như ông Huấn. Hay nhắc đến người hùng ta sẽ chỉ nghĩ đến những có sức mạnh của “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” chứ nào có tài hoa uyên bác như ông Huấn. Huấn Cao là một con người vừa có tài vừa có tâm có tầm.

   Hình tượng nhân vật đẹp nhất trong đời văn học của Nguyễn Tuân trước cách mạng là ông Huấn Cao mềm lòng trước cái thiện cái đẹp nhưng lại hiên ngang bất khuất trước cái ác, cái xấu. Qua hình tượng nhân vật nhà văn đã kín đáo thể hiện tình cảm yêu mến trân trọng giá trị truyền thống dân tộc và lòng yêu nước sâu sắc đồng thời thể hiện quan niệm thẩm mĩ của mình: “Không có cái đẹp tách rời cái chân cái thiện” và nhân cách đẹp là sự kết hợp hài hòa giữa cái tài và cái tâm. Đây là một quan niệm thẩm mĩ tiến bộ của Nguyễn Tuân và nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” đã minh chứng cho điều đó.

Phân tích nhân vật Huấn Cao - mẫu 2

   Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, trước cách mạng tháng tám ông coi cái đẹp như là một thứ tôn giáo riêng của mình, ông tìm về cái đẹp ở thời vang bóng. Đó có thể là thú thưởng trà, ngắm trăng cầu kì, là cách ăn kẹo mạch nha,… tất cả đều được ông nâng lên một tầm cao mơi. Trong những thú vui đó không thể không nhắc đến thú vui chơi chữ tao nhã được Nguyễn Tuân tái hiện trong tác phẩm Chữ người tử tù với nhân vật Huấn Cao. Tác phẩm không chỉ nói về một thú vui tao nhã mà còn nói lên cốt cách, khí chất của một con người tài hoa là Huấn Cao.

    Huấn Cao là một nhà Nho, một chí sĩ yêu nước. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân không nói về học vấn của ông nhưng người đọc đã phần nào đoán định được tài năng văn chương kiệt xuất của ông. Nguyễn Tuân chỉ đề cập đến cái viết chữ đẹp đẽ, vuông vắn nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn của ông Huấn: “chữ ông đẹp lắm, vuông lắm”, có chữ ông treo ở trong nhà là niềm vinh dự, hạnh phúc của bất cứ ai. Và viên quản ngục cũng khao khát có được chữ của ông Huấn Cao. Trong những ngày Huấn Cao trong ngục, quản ngục đã có thái độ và cái nhìn biệt nhỡn với riêng ông. Khác với phong tục nhận tù nhân ngày thường, viên quản ngục đón những người tù mới bằng cặp mắt hiền lành “lòng kiêng nể, tuy cố giữ kin đáo mà cũng đã rõ quá rồi”. Quản ngục, kính trọng, nể phục tài năng cũng như cốt cách của ông Huấn. Huấn Cao không chỉ viết chữ đẹp mà ông còn có tài võ. Con người này quả là chỗ tuyệt mĩ, văn võ song toàn. Xưa nay con người ta được văn mất võ, được võ mất văn, mấy ai được như ông Huấn, toàn vẹn ở cả hai. Đây quả là con người tuyệt mĩ, hoàn hảo.

    Mộng lớn không thành, Huấn Cao bị bắt, giam vào ngục và chờ ngày bị xử chém. Vậy nhưng thử thách đó cũng là cơ hội để ông bộc lộ những vẻ đẹp khác của bản thân: vẻ đẹp của khích phách kiên cường và thiên lương trong sáng. Chữ Huấn Cao đẹp và là một báu vật đối với mọi người nhưng trước giờ ông chưa bao giờ vì bị đe dọa bởi quyền lực hay bị mê hoặc bởi tiền bạc mà cho chữ ai bao giờ. Đối với ông cho chữ là một việc thiêng liêng, bởi vậy cần phải tìm được đúng người biết nâng niu, trân trọng thì mới có thể cho chữ. Là một người theo con đường Nho học, nhận thấy những bất công, ngang trái của thời đại, Huấn Cao đã dám lựa chọn một con đường khác, khởi nghĩa để chống lại triều đình thối nát. Khởi nghĩa thất bại, bị bắt ông đến nhà giam trong tư thế hiên ngang, bất khuất. Đứng trước tên quản ngục, ông không hề khúm núm, sợ hãi, động tác dỗ gong mạnh mẽ dứt khoát, bất chấp những lời đe dọa của lính ngục: “Huấn Cao lanh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gong xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Hành động Huấn Cao cùng các bạn tù giỗ gông. Huấn Cao ở vị trí đầu thang gông – ngay trong tình thế bi đát vẫn đứng ở vị trí chủ soái.

    Ông bình thản đón nhận trước sự biệt đãi của viên quản ngục. Không những vậy, Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Trước quản ngục – người đại diện cho uy quyền, cho luật pháp lúc bấy giờ ông không hề sợ hãi, ông không sợ nhà tù, những món đòn roi mà chúng hành hạ, ngay cả khi nhận được tin xâu, mai sẽ bị giải đi để thi hành án chém, Huấn Cao vẫn bình tĩnh mỉm cười. Ông quả là một con người dũng cảm, có tinh thần gang thép, quả đáng để cho người ta ngưỡng mộ.

    Đằng sau một con người gang thép, bản lĩnh còn là hình ảnh một Huấn Cao có thiên lương trong sáng, một tấm lòng đầy dịu dàng. Khi biết được tâm nguyện hết sức cao đẹp của viên quản ngục, Huấn Cao đã không ngần ngại mà lập tức đồng ý cho chữ, ông ân hận thực lòng: “Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao cảm động thực sự trước tấm lòng của viên quản ngục, bởi có mấy ai trong hoàn cảnh đề lao chỉ có lừa lọc và tàn nhẫn mà vẫn như được sở thích trong sáng, đẹp đẽ đến vậy. Có lẽ trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời, Huấn Cao đã tìm được cho bản thân người bạn tri âm, tri kỉ biết quý trọng và nâng niu cái đẹp.

    Phẩm chất đẹp đẽ đó của Huấn Cao đã một lần nữa được tỏa sáng, được thể hiện trọn vẹn trong cảnh cho chữ, cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Thông thường người ta cho chữ và xin chữ ở những nơi sạch sẽ, yên tĩnh, tôn nghiêm, trang trọng. Cảnh cho chữ và xin chữ trong tác phẩm diễn ra ở nhà tù tối tăm, bẩn thỉu, xưa nay chỉ tồn tại cái xấu và cái ác, và đây cũng là đêm cuối cùng trước khi Huấn Cao chịu án tử hình. Ông đã dành những gì tinh hoa, đẹp đẽ nhất để viết lại những dòng chữ cuối cùng để lại cho đời. Trong khung cảnh tối tăm, ẩm thấp ấy, một người tù cổ đeo gong, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên miếng lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ. Những người đứng bên cạnh khúm núm trước đại diện của cái đẹp, của thiên lương, họ trân trọng, nâng niu từng con chữ mà ông Huấn viết lên. Những con người đó đã bị cái đẹp chinh phục hoàn toàn. Không chỉ vậy, Huấn Cao còn mang đến sự cảm hóa chưa từng có đến quản ngục, khuyên quản ngục hãy rời xa nơi này, để giữ cho thiên lương dược lành vững, ở mãi nơi này cũng đến nhem nhuốc cái đời thương thiên. Viên quản ngục đáp trả bằng những hành động, cử chỉ khiến ta cảm động: bái lĩnh đón nhận, vái người tử tù một cái… Cảnh cho chữ là sự kết tinh vẻ đẹp nhân cách của nhân vật và kết tinh giá trị tư tưởng tác phẩm.

    Nghệ thuật xây dựng nhân vật mang nhiều dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn, đó là con người tài tử, tài hoa. Sử dụng thủ pháp cường điệu, phóng đại và đối lập để đậm tô các nét tính cách của nhân vật. Ngôn ngữ giàu chất tạo hình, dùng nhiều từ Hán Việt mang màu sắc cổ kính, gợi về cái đẹp của một thời vang bóng.

    Qua nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã gửi đến thông điệp ý nghĩa về cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu xa, cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, ánh sáng sẽ chiến thắng bóng tối. Thông qua việc ca ngợi Huấn Cao tác giả tôn vinh những nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc, tôn vinh một trang anh hùng dũng liệt. Ca ngợi Huấn Cao là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước. Đồng thời ông cũng thể hiện quan điểm thẩm mĩ tiếng bộ, ông cho rằng cái đẹp bao giờ cũng phải đi cùng cái thiện. Cùng với những nét nghệ thuật đặc sắc về ngôn ngữ, giọng điệu đã góp phần xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao.

Phân tích nhân vật Huấn Cao - mẫu 3

    Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi tác phẩm cửa ông là đều là những trang văn tài hoa và hấp dẫn, Trọng số đó, ngoài những tùy bút, truyện ngắn Chữ người tử tù cũng là một thành công lớn của ông.

    Huấn Cao là một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất, không có sức mạnh quyền thế, bạc vàng nào có thể khuất phục Huấn Cao... Những con người chọc trời khuấy nước, đếm trên đầu ngón tay, người ta cũng chẳng còn biết nữa.. Một con người khẳng khái như vậy còn sợ gì cường quyền hay tham gì tiền bạc?

    Là người chọc trời khuấy nước, riêng một giang sơn không chịu được triều đình phong kiến đang ngày càng suy thoái, mục ruỗng, Huấn Cao chống lại triểu đình ây. Bị gọi là giặc nhưng là vì nghĩa lớn, vì lí tưởng lớn nên điều đó có hể gì. Đến khi bị bắt giam, sắp lên đoạn đầu đài vẫn coi thường: Đến cái chết ông cũng chẳng sợ nữa. Huấn Cao có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng, ông vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh, dù đang bị cầm tù.

    Dưới con mắt Huấn Cao, bọn cầm quyền chỉ là một lũ tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc giữa một đống cặn bã. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi ông có cần gì nữa không, ông trả lời như tát vào đối phương: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần một điều, là ngươi đừng đặt chân vào đây. Đó là cái khí phách, cái tư thế hiên ngang lồng lộng dù khi đang giữa cái nền xám xịt của ngục tù.

    Là con người chọc trời khuấy nước, hiên ngang bất khuất, không biết sợ cái gì nhưng Huấn Cao lại ca ngợi, quý trọng bản chất tốt đẹp của con người, ca ngợi thiên lương. Lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của Huấn Cao. Lời ấy là tiếng lòng là tâm huyết của ông. Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã... ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.

    Ông yêu cái đẹp và cảm thông với người biết yêu cái đẹp. Huấn Cao hiểu được tấm lòng quản ngục thì sẵn sàng chó chứ, bởi ông cảm là cảm cái bản chất thiên lương.

    Huấn Cao là người tài hoa rất mực, bên cạnh cầm kì, thi, họa, ông còn có tài viết chữ, chữ của ông nức cả một vùng, chữ ông đẹp lắm, vuông lắm. Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỉ: Ông biết cái tài của mình và không vì nó mà ai ông cũng sẵn sàng cho. Đời ta cũng mới viết có hai lọ tứ bình và một bức tranh trung đường cho ba người bạn của ta thôi. Và lần cho chữ cuốỉ cùng của đời ông là một ngoại lệ, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã xảy ra bởi vì cảm cái tấm lòng. Đoạn cho chữ có thể nói là một đoạn rất hay thể hiện tài năng của Nguyễn Tuân trong miêu tả, dựng cảnh và thể hiện tài năng của nhân vật Huấn Cao.

    Cái cao đẹp đôi lập với dơ bẩn. Chơi chữ đẹp, viết chữ đẹp là một nét đẹp thanh tao, long trọng thường diễn ra trong cảnh thanh khiết của thiên nhiên và lòng người. Song ở đây là cả một sự đốì lập. Tuy nhiên, đối lập mà không có gì mâu thuẫn cả. Lấn át tất cả cái dơ dáy hôi hám của tù ngục, ánh sáng của đuốc, mùi thơm của mực, lụa, đã tỏa sáng lung linh.

    Tất cả thể hiện một ý nghĩa sâu sắc: cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, giữa mảnh đất chết bởi một người cũng sắp chết (một tử tù). Và lời khuyên của Huấn Cao cho thấy: cái đẹp không thể cùng sống với cái ác được.

    Nhân vật Huấn Cao như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một thời nhất thiết là con người tài hoa. Ở Huấn Cao, bên cạnh tài hoa, có vẻ đẹp khí phách của một người có trách nhiệm đối với thời cuộc. Đó là nét độc đáo của Huấn Cao so với nhân vật khác trong Vang bóng một thời.

    Ngôn ngữ văn xuôi điêu luyện, nghệ thuật miêu tả tinh nhạy của Nguyễn Tuân đã toát lên không khí một thời đã qua. Nhân vật Huấn Cao, con người khí phách tài hoa có trách nhiệm cao đối với đất nước. Nó cũng là sự giãi bày nỗi niềm.. Khát khao theo đuổi một lí tưởng cao cả của người thanh niên Nguyễn Tuân khi bước chân vào đời. (Trương Chính).

Phân tích nhân vật Huấn Cao - mẫu 4

Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân là tác phẩm viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Trong Vang bóng một thời, truyện ngắn Chữ người tử tù có một giá trị lớn lao, nổi bật. Ai đã từng đọc Chữ người tử tù đều rung động cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao. Huấn Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí. Ông là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất.

Huấn Cao là một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài, có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn của Nguyễn triều, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội phong kiến thối nát. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh cái chết.

Tư thế của Huấn Cao hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền đen quánh của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao trước hết phải nhắc đến cái tài. Huấn Cao là một người nổi tiếng về thư pháp. Trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung Quốc đến Việt Nam thì thư pháp là cả một nghệ thuật cao quý, là biểu hiện cho tâm hồn và tri thức, là vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao, thèm muốn.

Ngoài ra, Huấn Cao còn có tài bẻ khoá vượt ngục coi nhà tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để chọc trời khuấy nước. Nhưng trong cái xã hội phong kiến bóc lột người, nhân tài như lá mùa thu ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng thất thế. Nguyễn Du đã từng viết về Từ Hải - một anh hùng thời cổ: Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn.

Song vị hùm thiêng Huấn Cao này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng Huấn Cao vẫn kiên cường, bất khuất, vẫn dũng khí. Do đó, người đọc không chỉ nhận ra Huấn Cao là một người có tài mà ông còn là người có dũng khí, hiên ngang trước cường quyền, trước một cái chết treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của Huấn Cao, đồng thời Nguyễn Tuân cũng hết sức trân trọng cái tâm của Huấn Cao. Bởi chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Nguyễn Du). Cái tâm của ông cũng vuông lắm, cao khiết và đầy sức chinh phục như nét chữ của ông vậy. Có lẽ phong cách tức là con người đã được thể hiện rất rõ ở đây.

Mặc dù viết chữ Nho đẹp lẽ ra ông phải trung thành với đạo thánh hiền, giữ mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ theo triều đình. Nhưng không! Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm, thà làm giặc triều đình sống theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bi đát, bị kết án tử hình nhưng ông vẫn không hề tỏ thái độ run sợ, không mảy may tiếc nuối, hối hận.

Huấn Cao - ngôi sao Hôm chính vị ấy - bước vào ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách ung dung. Trong con mắt của bọn lính ông thật cao thượng, bất khuất, khinh đời. Ngay cả với gông xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn ngang tàn, lạnh lùng. Huấn Cao ung dung, lãnh đạm trước mặt bọn lính, không thèm chấp mấy lời đe doạ. Ông bình thản ăn những món ăn do quan ngục biệt đãi, coi như mình có quyền hưởng thụ, ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mắt nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân, nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó không run sợ, không căm hờn, oán hận, không van xin, cầu khẩn. Đó là một cái nhìn của kẻ dám làm dám chịu. Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt của quản ngục: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".

Con người khuấy nước chọc trời chẳng biết nể sợ ai. Trong đời trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ, nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ, thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài bữa cơm thịt của hai con người vô danh tiểu tốt ở chốn tù ngục bé nhỏ này làm sao lung lay được ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là nhân cách lý tưởng mà con người của ngàn năm qua vẫn ao ước. Cái thái độ khinh đời, ngang tàn đó phải chăng làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Huấn Cao đã mang đến chốn lao tù này một ánh sáng kỳ ảo, huyền diệu, lung linh, chói rọi, soi sáng đạo lý làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào quang toả sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của chốn đề lao.

Huấn Cao - vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng trí mà còn là một con người có trái tim nhân hậu. Khi biết thiện ý của quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động. Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung, độ lượng, chia sẻ nỗi niềm cùng với hai người bạn mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người thầy quản đây lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.

Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia mềm lòng. Chính cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và những sở thích cao quý, hướng về văn minh, văn hoá mới cảm hoá được trái tim dường như được đúc bằng thép ấy. Thái độ của Huấn Cao đối với quản ngục không phải là sự trả ân đối với người đã đối xử tử tế với mình, mà là sự trân trọng, cảm động trước một nhân cách "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Quản ngục sống giữa bùn nhơ nhớp mà vẫn giữ được thiên lương, biết trọng người tài, kính cái đẹp.

Ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu toả ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹp nhân cách Huấn Cao. Ở đây vẻ đẹp này toả hương thơm ngát hơn lúc vào hết. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, một cảnh tượng đầy kịch tính diễn ra, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Đó là sự tương phản giữa một bên là một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián với một bên là tấm lụa trắng tinh, căng phẳng và với ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. Ba đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch tinh khôi.

Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của nền văn minh, văn hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa đê tiện và cái trong trẻo cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu tính tạo hình với trình độ nghệ thuật điêu luyện, gần như đạt đến sự hoàn mĩ.

Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực, bó đuốc của trí tuệ, của niềm tin, của hy vọng và trong khung cảnh thật nghiêm trang, thật thiêng liêng này, Huấn Cao dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, quyến rũ vào cho ra đời những nét chữ tuyệt tác. Ở đây không còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về chân lý của cái đẹp. Ngôi sao – Huấn Cao đang tỏa sáng, làm bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ cái màn đêm ngự trị ngàn đời ở đây, đem đến nơi đây một vẻ đẹp khác thường. Giờ phút này, tại nơi đây, sức mạnh của cái đẹp và chân lý đã được khẳng định.

Sức mạnh ấy không khuất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không giày xéo áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta đứng dậy, tự nguyện đi theo nó để hướng tới cái CHÂN -THIỆN - MỸ trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn. Và ở đây cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con người (Đô-xtôi-ep-xki). Cái đẹp đăng quang, cái xấu xa đã phải chìm xuống nhường chỗ cho cái đẹp.

Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái thiên lương ở mỗi con người. Huấn Cao cho chữ như chuyển giao một nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp để cái đẹp mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được khắc hoạ bằng ngòi bút lãng mạn cứ sừng sững hiên ngang hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ cái cuộc sống đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt, trì trệ.

Phải chăng đó là quan niệm thẩm mỹ của Huấn Cao hay của là của chính Nguyễn Tuân: cái đẹp phải gắn với cái thiện không thể ở chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó của Huấn Cao đã khiến cho ngục quan cảm động vái người tù một cái và rưng rưng: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.

Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm hồn. Hay nói khác đi, Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang đầy rẫy những cái xấu xa, tội lỗi, biểu tượng cho thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, để vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.

Dựng lên hình tượng với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp chật chội. Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn. Có thể nói Chữ người tử tù với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.

Phân tích nhân vật Huấn Cao - mẫu 5

Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà… Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang bóng một thời. Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.

Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang đến cho người đọc bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu tả đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.

Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:

Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm lặn lội tìm gươm báu
Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)

Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ. Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời.

Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.

Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.

Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô “ta – ngươi”, miệt thị hạ nhục “Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là…” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái chết, coi thường cái chết.

Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của con người tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá một thời. “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng “có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Tuy nhiên, ông lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù. Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.

Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài… thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Lời nói rất chân tình, xúc động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí. Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao: VIẾT THƯ PHÁP.

Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián. “Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa hơn thì ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện… Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương” (Lưu Thế Quyền)

Viết thư pháp là nơi thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng. Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời.

Kỳ lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó không còn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ còn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử”.

Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.

Thành công của Chữ người tử tù là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”.

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 11

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.

chu-nguoi-tu-tu.jsp

Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên