Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (hay, ngắn gọn)
Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.
Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (hay, ngắn gọn)
Bài giảng: Vào phủ Chúa Trịnh - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)
I. Mở bài
- Giới thiệu những nét tiêu biểu nhất về tác giả Lê Hữu Trác và đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh: Một con người toàn tài với quan niệm: “ngoài việc luyện câu văn cho hay, mài lưỡi gươm cho sắc, còn phải đem hết tâm lực chữa bệnh cho người”, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm Thượng kinh kí sự của ông
- Đoạn trích đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác
II. Thân bài
1. Là con người coi thường danh lợi
- Ban đầu, khi đứng trước khung cảnh xa hoa, lộng lẫy của phủ chúa:
+ Cảm thán: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn với người thường!”
+ Vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng vương giả trong phủ với “gác vẽ, rèm châu, hiên ngọc, vườn ngọc” có hoa thơm, chim biết nói…
- Tuy nhiên, đằng sau đó, tác giả cũng gián tiếp phê phán cuộc sống sa hoa nhưng thiếu sinh khí trong phủ chúa thông qua:
+ Sự miêu tả tỉ mỉ sự sa hoa giàu sang
+ Khi được mời dùng cơm: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia” ⇒ giọng điệu mỉa mai
+ Cảm nhận về con đường vào nội cung của thế tử: Ở trong tối om, không thấy cửa ngõ gì cả, “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi” ⇒ Không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và tự do
+ Ẩn chứa trong bài thơ là giọng điệu mỉa mai phê phán: “Cả trời Nam sáng nhất là đây!” (phơi bày hiện thực về sự sa hoa của chúa Trịnh)
⇒ Con người coi thường danh lợi
2. Là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ
- Tâm trạng của Lê Hữu Trác khi kê đơn cho thế tử có sự mâu thuẫn, giằng co:
+ Hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật
+ Muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông.
- Cuối cùng phẩm chất, lương tâm của người thầy thuốc đã chiến thắng. Ông chữa bệnh tận tình bằng tài năng của mình, thẳng thắn đưa ra những cách chữa bênh hợp lí
⇒ Cách lí giải về bệnh tình thế tử Trịnh Cán cho thấy Lê Hữu Trác là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ
3. Là con người có cốt cách thanh cao
- Luôn coi việc nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình làm tôn chỉ để hành động đúng đắn
- Xem thường danh lợi, yêu thích tự do, mong muốn được sống thanh đạm nơi quê mùa: Suy nghĩ của Lê Hữu Trác khi ông chữa bệnh cho thế tử
⇒ Sự coi thường danh lợi của Lê Hữu Trác, mong muốn sống cuộc đời tự do, chữa bệnh cứu người của ông cho thấy một cốt ách thánh cao của một danh y
III. Kết bài
- Khẳng định lại những nét đẹp tâm hồn và nhân cách của tác giả Lê Hữu Trác thể hiện qua đoạn trích và nêu những nét nghệ thuật thể hiện thành công điều đó
- Bày tỏ quan điểm cá nhân về vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác và liên hệ bản thân
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 1
Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo "Thượng kinh ký sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.
"Thượng kinh ký sự” ghi lại hành trình của ông lên Kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn "Vào Trịnh phủ ” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kỹ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp "đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp", người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, "truyền báo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen...”
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá "kì lạ”. Nhà "Đại Đường” còn gọi là "Quyển Hồng”. Là cái tầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác Tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “ phòng Chè".
Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi". Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hóa nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn, cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê - Trịnh, cảnh giàu sang "khác hẳn mgười thường”.
Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đô nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử - con bệnh - là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi Thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt". Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây”
Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu Mã”, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn”, nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ’’. Ông thầy thuốc mà danh tiếng "như sấm động ” đã suy nghĩ và nói: “tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Chốn đế đô cung cấm là nơi “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê- Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ ngon của lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ “cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả ‘‘Thượng kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống.
Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì "ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:
“Quê mùa cung cấm chưa quen ,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”
Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sâm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho Thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bảng công danh: "Cũng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết!”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết: “ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu đi”, hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5, 6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!
Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xong quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”, về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. "Lưng khôn uốn, lộc nên từ” là thế.
Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cúi lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:
“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tê sắc. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên... ”
Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đặt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu "Lãn Ông” thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.
Đoạn văn “Vào Trịnh phủ” thật hay và thú vị, ta cảm thấy mình được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê - Trịnh. Đoạn văn cũng như tác phẩm “Thượng kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử.
Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, nó đã phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê - Trịnh.
Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hóa.
“Vào Trịnh phủ ”, đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu vào một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 2
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác là tác phẩm đặc sắc, đánh dấu sự phát triển mới của thể loại kí Việt Nam thời trung đại. Với tác phẩm này, tác giả đã ghi lại những cảm nhận của bản thân trước hiện thực về cảnh vật và con người mà mình tận mắt chứng kiến từ lúc nhận được lệnh triệu về kinh đô chữa bệnh cho thế tử Cán đến lúc xong việc, về tới nhà ở Hương Sơn. Và có thể nói, đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" là một trong số những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm, vẽ lại một cách chân thực cuộc sống nơi phủ chúa. Đặc biệt, qua đoạn trích còn giúp chúng ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Trước hết, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hiện lên là một con người coi thường danh lợi. Bước vào khung cảnh lộng lẫy, nguy nga, tráng lệ và nghiêm trang, cung kính nơi chốn phủ chúa với những gác tía, "Đại đường", "Quyển bồng" Lê Hữu Trác đã bộc lộ cảm xúc của mình một cách trực tiếp. "Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường." Với những câu văn đã dẫn ở trên có thể thấy được thái độ ngỡ ngàng, bất ngờ của tác giả trước khung cảnh nơi phủ chúa. Tuy nhiên, ẩn sau cái thái độ ngỡ ngàng ấy, ông cũng gián tiếp lên tiếng phê phán cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi phủ chúa. Thái độ phê phán ấy của ông thể hiện qua cách ông miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách chi tiết, tỉ mỉ, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, dường như ông đã dẫn người đọc đi chiêm ngưỡng hết mọi nơi trong phủ chúa và để rồi cuối cùng ông khép lại bằng một bài thơ miêu tả cảnh phủ chúa nhưng xét đến cùng chính là tiếng lòng của ông:
Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!
Đồng thời, thái độ phê phán cảnh sống xa hoa nơi phủ chúa còn được thể hiện qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt khi ông nói về những đồ dùng trong phủ chúa lúc được mời ăn cơm: "Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia". Như vậy, xét đến cùng, ẩn sau cách miêu tả tỉ mỉ quang cảnh xa hoa nơi phủ chúa và thái độ mỉa mai trong cách ghi chép, miêu tả chính là một Hải Thượng Lãn Ông coi thường danh lợi, tiền bạc, không đồng tình với cuộc sống xa hoa nhưng thiếu khí trời nơi chốn phủ chúa.
Không dừng lại ở đó, Lê Hữu Trác còn là một thầy thuốc tài giỏi, có kinh nghiệm trong nghề, giàu lương tâm, đức độ và luôn giữ cho mình một lối sống, một cốt cách thanh cao. Có thể nói, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán trong nội tâm Lê Hữu Trác có sự giằng co, mâu thuẫn giữa một bên là ông hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật với một bên là muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông. Nhưng để rồi, đến cuối cùng, tấm lòng, lương y của người thầy thuốc cùng với việc ông luôn lấy việc nối tiếp lòng trung thành của cha ông làm tôn chỉ, làm lẽ sống đã chiến thắng tất cả mọi suy tư, trăn trở, mâu thuẫn trong ông, để rồi cuối cùng ông đưa ra phương pháp, cách thức chữa trị bệnh cho thế tử - căn bệnh mà nhiều thầy thuốc đã không tìm ra cách chữa trị. Tuy nhiên, việc Lê Hữu Trác sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật xét đến cùng là sự biểu hiện cho lòng yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm nơi quê nhà, không vướng bận vinh hoa phú quý của ông. Thêm vào đó, tài năng, kinh nghiệm trong nghề thầy thuốc của ông không chỉ được thể hiện trực tiếp ở việc chữa khỏi bệnh cho thế tử Cán mà còn ở lời nhận xét của Quan chánh đường "Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều."
Tóm lại, qua đoạn tríchVào phủ chúa Trịnh giúp chúng ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bên cạnh là một thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm còn là một người giàu y đức, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp - coi thường tiền bạc, vinh hoa, yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao đẹp của ông là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ sau ngưỡng mộ và học tập, noi theo.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 3
Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê - chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn ông.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chôn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khúc gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!"
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (...). Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức độ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - mẫu 4
Vào khoảng thế kỷ thứ XVII, XVIII vua Lê mải ăn chơi, hưởng thụ không lo việc nước, cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực, các thế lực phong kiến nổi loạn ở khắp nơi. Bên cạnh triều đình bù nhìn của nhà Lê và Phủ Chúa lộng lẫy đầy quyền, kinh thành một lúc tồn tại hai Hoàng cung, hiện thực rối ren và suy thoái ấy đã khiến nhiều nhà nho chân chính, có cốt cách thanh cao tìm về chốn xa xôi ở ẩn. Lê Hữu Trác cũng không ngoại lệ, nhưng dù ở đâu ông vẫn luôn hướng lòng mình, lắng nghe những âm thanh vang vọng từ cuộc sống lầm than của nhân dân. Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh”, đã làm rõ vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của Lê Hữu Trác. Đó là một người thầy thuốc tài, đức vẹn toàn, coi thường danh lợi.
Hải Thượng Lãn Ông là một trong những nhà nho nặng lòng với đất nước, Ông là một danh y, không chỉ chữa bệnh mà còn soạn sách và mở trường dạy nghề thuốc để truyền bá y học, luôn luôn cố gắng hết sức mình để đóng góp cho sản phẩm thật đáng trân trọng. Đó là những bài thuốc hay, những trang văn tràn đầy tâm huyết và hơn hết đó là một nhân cách cao quý của một con người. Với tập ký “Thượng kinh ký sự”, Lê Hữu Trác đã thể hiện tài năng của mình với tư cách người thầy thuốc, nhà sử học và nhà văn, với tư cách là nhà văn, Ông đã đưa thể loại kí sự lên một tầm cao mới. Đoạn trích “Vào Phủ Chúa Trịnh”, là một đoạn trích đặc sắc, tiêu biểu của tác phẩm, nó đã tái hiện chi tiết và cụ thể hành trình của tác giả vào phủ chúa để khám bệnh cho thế tử, từ đó dần hé lộ những đức tính tốt đẹp của tác giả.
Đầu tiên, Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước cảnh kinh đô. Đó là một mê cung với những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, điếm hậu mã quân túc trực, được xây dựng với kiến trúc cầu kỳ, xinh đẹp trong điếm có cột và bao lớn lượn vòng, đại đường, gác tía, quyển bồng rất lớn cao và đẹp. Ở đây cột đều sơn son thếp vàng, trước sập là hai bên bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian trước nay chưa từng thấy, bữa cơm trong phủ dùng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon, vật lạ. Cái cảnh giàu sang của vua, chúa thường khác hẳn so với người thường. Lê Hữu Trác vốn con quan, sinh trưởng ở nơi phồn hoa cũng phải thốt lên “cả trời Nam sang nhất là đây”, tác giả không phải con người đam mê vinh hoa, phú quý, ham danh, chức, tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp, trong nhân cách con người ông. Chính vì thế đứng trước danh lợi, cái cảnh giàu sang cực điểm ông chỉ cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng mà thôi.
Tiếp theo chân dung của một người thầy thuốc hiện lên chi tiết, quá trình khám bệnh cho thế tử Trịnh cán, quá trình ấy diễn ra rất nhanh, rất gấp, phải tuân theo một loạt các phép tắc, từng hành động, cử chỉ đều phải bấm báo và được quan chánh đường, truyền lệnh thì mới được phép thực hiện. Lê Hữu Trác bắt mạch, rồi xem thân hình của thế tử, ngay lập tức ông đã vận giải được nguyên nhân của căn bệnh, đó là cuộc sống quá thừa về vật chất, mà thiếu khí trời, ông vô cùng tin tưởng vào khả năng của mình, thế nhưng tâm trạng thì vô cùng khó xử. Mọi sự đấu tranh quyết liệt giữa một bên là lương tâm của người thầy thuốc, một bên là sự trói buộc của công danh, nếu như chữa khỏi bệnh thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không thể tiếp tục cuộc sống tự do, tự tại mà mình yêu thích. Nếu không chữa bệnh sẽ không đúng với lương tâm của người thầy thuốc, cuối cùng ý đức, trách nhiệm nghề nghiệp, tấm lòng đối với cha ông cũng như phẩm chất trung thực của một danh y đã chiến thắng sở thích cá nhân. Từ đó cho ta thấy Lê Hữu Trác, không những là một nhà văn tài hoa và còn là một danh y có kiến thức y học uyên thông, là một người thầy thuốc y đức lớn, tâm huyết với nghề, cốt cách thành cao, coi thường danh lợi.
Thế kỉ thứ XVIII, văn học Việt Nam phát triển rực rỡ, với sự ra đời của nhiều tác phẩm văn học, có giá trị nghệ thuật cao và chứa đầy giá trị nhân văn “thượng kinh ký sự” của Lê Hữu Trác cũng góp phần làm nên thành công ấy. Thành công của đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh”, trước hết phải kể đến giọng điệu kể chuyện rất chân thực, mộc mạc của tác giả, đó là sự xen kẽ rất tự nhiên của lời kể, lời bình và thơ Lê Hữu Trác chú ý đến việc tả cảnh và tường thuật sự việc. Nhưng chính cách kể và cách tả ấy lại kín đáo, bộc lộ tâm sự, tình cảm, thái độ của nhà văn. Ngòi bút tinh tế của tác giả, có vẻ ông không phê phán một điều gì cả, hình ảnh phủ chúa hiện lên trong tác phẩm với những cung điện kiêu xa, cầu kỳ, với những con người quyền uy tuyệt đối như Chúa Trịnh Sâm, quan chánh đường, các danh y của 6 cung, hai viện, thế tử Trịnh cán, tất cả như vô nghĩa bởi bệnh tật. Không một ai thực sự có năng lực, bản lĩnh, từ đó người đọc phần nào nhận ra được bộ mặt xã hội phong kiến Việt Nam thời kỳ vua Lê, Chúa Trịnh.
Hình ảnh Lê Hữu Trác là một tấm gương sáng cho nền y học nước nhà, tài năng y đức, phẩm chất tốt đẹp của tâm hồn ông sống mãi trong lòng người dân đất Việt.
Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:
- Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác qua Vào phủ Chúa Trịnh (Bài văn mẫu 2)
Phân tích đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh của Lê Hữu Trác (Bài văn mẫu 1)
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Lớp 11 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 11 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 11 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 11 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 11 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 11 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - KNTT
- Giải sgk Tin học 11 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 11 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 11 - KNTT
- Lớp 11 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 11 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 11 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 11 - CTST
- Giải sgk Hóa học 11 - CTST
- Giải sgk Sinh học 11 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 11 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 11 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 11 - CTST
- Lớp 11 - Cánh diều
- Soạn văn 11 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 11 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 11 - Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 11 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 11 - Cánh diều