Dàn ý Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh (hay, ngắn gọn)
Dàn ý Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.
Dàn ý Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh (hay, ngắn gọn)
Bài giảng: Vào phủ Chúa Trịnh - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)
Dàn ý Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh
Dàn ý Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh - mẫu 1
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Lê Hữu Trác và đoạn trích tiêu biểu Vào phủ chúa Trịnh: Không chỉ là một danh y mà còn là một nhà văn, nhà thơ. Vào phủ chúa Trịnh là một đoạn trích tiêu biểu trong Thượng kinh kí sự
- Khái quát giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh: Đoạn trích mang giá trị hiện thực sâu sắc
II. Thân bài
1. Giá trị hiện thực là gì?
- Hiện thực: Sự thật đời sống
- Giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học: sự phản ánh hiện thực đời sống một cách chân thực, rõ nét, tạo nên ý nghĩa cho tác phẩm
- Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đoạn trích mang giá trị hiện thực rõ nét bởi Thượng kinh kí sự được viết theo thể kí với đặc điểm ghi chép câu chuyện, sự kiện có thật tương đối hoàn chỉnh mà tác giả trực tiếp chứng kiến
2. Giá trị hiện thực được biểu hiện trong đoạn trích
a. Phản ánh bức tranh hiện thực về quang cảnh nơi phủ chúa
- Vào phủ phải trải qua nhiều cửa gác, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau
+ Vườn hoa: “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”
+ Khuôn viên: có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền lệnh
- Trong phủ:
+ Những nhà: “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy
+ Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng, chén bạc
- Nội cung thế tử:
+ Phải qua năm sáu lần trướng gấm
+ Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”
⇒ Quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng sa hoa, giàu sang và thâm nghiêm, đây là quang cảnh thường thấy trong lịch sử bởi vua chúa là những người đứng đầu cai trị đất nước
b. Phản ánh hiện thực cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa
Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa với rất nhiều những nhiều lễ nghi, khuôn phép, đầy quyền uy, sa hoa nhưng thiếu sinh khí cúng được tác giả phản ánh chân thực:
- Phủ chúa là nơi sa hoa, thâm nghiêm và cũng là nơi đầy uy quyền: Tiếng quát tháo, truyền lệnh, quy tắc lễ nghi được thực hiện nghiêm ngặt:
+ Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đàng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”
+ Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép
+ Lắm kẻ hầu người hạ: ChúaTrịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh, Thế tử bị bệnh có đến 7, 8 thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên
- Phủ chúa là nơi thiếu sinh khí:
+ Sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người: Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”
+ Phản ánh sự thật vị chú nhỏ Trịnh Cán sống trong sự sa hoa nhưng điều cơ bản nhất lại thiếu, đó là sức sống
⇒ Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa được tác giả khắc họa chân thực phù hợp với cung cách sinh hoạt của vua chúa thời kì bấy giờ, đồng thời cho thấy được uy quyền và sự lộng hành của chúa Trịnh lấn át cả cung vua
⇒ Phản ánh sự lộng hành của chúa Trịnh
3. Nét nghệ thuật thể hiện thành công giá trị hiện thực của đoạn trích
- Thể kí: ghi chép sự thật
- Ghi chép tỉ mỉ, chi tiết, chân thực sự việc
- Kết hợp ghi chép sự việc một cách chính xác với bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc
III. Kết bài
- Khẳng định giá trị hiện thực tiêu biểu của đoạn trích
- Nhận định vai trò và tầm quan trọng của giá trị hiện thực đối với thành công của đoạn trích và toàn bộ tác phẩm: Góp một phần không nhỏ làm nên thành công, đưa tác phẩm Thượng kinh kí sự trở thành tác phẩm kí nghệ thuật đích thực đầu tiên ở Việt Nam
Dàn ý Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh - mẫu 2
I. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề: Khái quát vài nét về xã hội phong kiến.
- Nêu vấn đề: Giá trị hiện thực của tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh.
II. Thân bài
- Nhân sự kiện Lê Hữu Trác được lệnh vào cung chữa bệnh cho Thế tử, được tận mắt chứng kiến, cảm nhận về cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa, ông đã ghi chép lại.
- Khung cảnh hoành tráng, nguy nga nơi phủ chúa:
+Những hàng cây cao vút, um tùm, mùi hương hoa thơm nức mũi.
+Đâu đâu cũng có kẻ hầu người hạ túc trực.
+Mọi đồ vật trong phủ chúa đều được sơn son thiếp vàng tráng lệ, có những thứ hình dáng mới lạ, kiểu cách xinh đẹp.
=> Từng đi nhiều nơi, chứng kiến nhiều mĩ cảnh nhân gian, vậy nhưng Lê Hữu Trác cũng phải cúi đầu trước vẻ xa hoa, kiều diễm của phủ chúa.
- Cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa:
+Được mời đến chữa bệnh nhưng tác giả cũng chỉ được đi cửa sau, qua nhiều lần cửa mới đến nơi Thế tử nằm, chào hỏi khép nép...
+Người hầu kẻ hạ ở phủ chúa nhiều không kể xiết.
+Khi được mời dùng cơm trong phủ chúa: Mọi thứ đều được làm bằng vàng, bạc; đồ ăn toàn của ngon vật lạ, những mĩ vị nhân gian mà ông chưa một lần nếm thử.
=> Đời sống của chúa Trịnh hết sức xa xỉ, tha hồ hưởng thụ cuộc sống nhung lụa mặc lời kêu khóc lầm than của dân chúng.
- Bức tranh phù phiếm về cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa được khắc họa rõ nét qua căn bệnh của thế tử: Một đứa trẻ tầm 5, 6 tuổi an nhàn hưởng thụ mọi vinh hoa phú quý trên đời, không phải hoạt động, ăn no, mặc ấm
=> Tạng phủ yếu, bệnh tật lâu ngày không khỏi dẫn đến héo mòn khí huyết, da khô, gầy gò, nổi đầy gân xanh
=> Mặc bệnh do ăn ở quá sung sướng.
=> Chính sự đối lập giữa cuộc sống xa hoa, tráng lệ, ăn chơi sa đọa của chúa Trịnh với đời sống nghèo khổ lầm than của nhân dân lao động đã nổ ra các cuộc đấu tranh đứng lên đòi lại công lí cho mình.
III. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị hiện thực của tác phẩm.
- Đánh giá về thái độ, tình cảm của Lê Hữu Trác qua việc phản ánh hiện thực.
Dàn ý Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh - mẫu 3
I. Mở bài: Giới thiệu đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
II. Thân bài: Cảm nghĩ giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh"
1. Bức tranh hiện thực của phủ chúa Trịnh
a. Quang cảnh phủ chúa Trịnh
- Một nơi vô cùng xa hoa, tráng lệ và thâm nghiêm
- Màu sắc chủ đạo của phủ là đỏ và vàng
- Không khí ngột ngạt
=> Tác giả miêu tả rất chi tiết và sắc sảo
b. Cuộc sống và sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh:
- Nơi nhiều nguyên tắc, luật lệ
- Cuộc sống xa hoa nhưng thiếu đi sinh khí
- Thể hiện sự lộng quyền của chúa Trịnh
2. Thái độ của tác giả đối với cung cảnh và cách sinh hoạt nơi phủ chúa
- Tác giả không đồng tình với cuộc sống xa xỉ và xa hoa của chúa Trịnh
- Lê Hữu Trác dửng dưng trước những quyến rũ lợi danh tại phủ chúa
- Cuộc đấu tranh nội tâm của tác giả
III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về giá trị hiện thực của đoạn trích
- Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh thể hiện rất sâu sắc và chân thật về quang cảnh và cuộc sống trong phủ chúa Trịnh, một cuộc sống xa hoa nhưng thiếu sinh khí và ngột ngạt.
- Đối với Lê Hữu Trác thì không có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục cũng chỉ là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.
Dàn ý Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh - mẫu 4
I. Mở bài
Giới thiệu về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh và khái quát giá trị hiện thực được thể hiện trong đoạn trích
II. Thân bài
- Tác giả Lê Hữu Trác đã ghi lại và phản ánh trong tác phẩm của mình đời sống xa hoa, giả dối và đầy thị phi của tầng lớp vua quan:
+Quang cảnh xa hoa, lộng lẫy trong các dinh thự và phủ các
+Vườn hoa với "cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương"
+Nhà "Đại đường", "Quyển bồng", "Gác tía" với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng.
+"những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy" cùng "mâm vàng, chén bạc"
- Giá trị hiện thực của tác phẩm còn được tạo nên thông qua những chi tiết về cung cách sinh hoạt trong phủ chúa:
"có tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường" và "cáng chạy như ngựa lồng".
"người giữa cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi".
- Tác giả còn gián tiếp lên án và tố cáo đời sống xa hoa, bệnh hoạn của giới quý tộc, quan lại đương thời.
--> Giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh" đã làm nên tính chân thực của "Thượng kinh kí sự" qua bút pháp kí sự vô cùng đặc sắc của tác giả.
--> Thông qua giá trị hiện thực của tác phẩm, độc giả còn thấy được giá trị nhân đạo ẩn chứa một cách sâu sắc.
+Thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với cuộc sống cơ cực, lầm than của nhân dân.
+Bức tranh về xã hội phong kiến đã được phác họa trong sự đối lập giữa đời sống của tầng lớp quan lại và cuộc sống của những người dân
III. Kết bài
Khái quát giá trị hiện thực của đoạn trích.
Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh - mẫu 1
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được biết đến không chỉ với danh tiếng của một danh y lỗi lạc, nhân từ và một ẩn sĩ thanh cao, cứng cỏi mà còn là tác giả của cuốn "Thượng kinh kí sự" nổi tiếng. Đầu năm 1782, do danh tiếng y thuật vang xa, ông được lệnh triệu ra kinh đô để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Nhờ những tư liệu, ghi chép trong chuyến đi, ông đã hoàn thành tác phẩm "Thượng kinh kí sự" với giá trị hiện thực sâu sắc. "Vào phủ chúa Trịnh" là một trong những trích đoạn đặc sắc thể hiện rõ điều này bằng việc lên án, tố cáo cuộc sống xa hoa, quang cảnh lộng lẫy cùng những tầng lớp vua quan trong bộ máy xã hội phong kiến.
Trước hết, dưới con mắt tỉnh táo, tinh tế của một ẩn sĩ, tác giả Lê Hữu Trác đã ghi lại và phản ánh trong tác phẩm của mình đời sống xa hoa, giả dối và đầy thị phi của tầng lớp vua quan thông qua những chi tiết về quang cảnh xa hoa, lộng lẫy trong các dinh thự và phủ các. Đó là vườn hoa với "cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương", đó là những nhà "Đại đường", "Quyển bồng", "Gác tía" với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và "những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy" cùng "mâm vàng, chén bạc" được dùng lúc tiếp khách ăn uống. Tất cả khung cảnh vàng son lộng lẫy xa hoa của phủ chúa đã được phóng chiếu qua đôi mắt và sự quan sát, tinh tế và tỉ mỉ của tác giả.
Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực của tác phẩm còn được tạo nên thông qua những chi tiết về cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Ngay từ lúc tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh chúa thì điều này đã được làm nổi bật: "có tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường" và "cáng chạy như ngựa lồng". Khi đặt chân vào phủ chúa, tác giả quan sát thấy cảnh tượng "người giữa cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi". Quang cảnh đó đã khiến cho tác giả không khỏi ngạc nhiên:
"Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây"
Câu thơ của tác giả đã minh chứng rõ thêm về quyền uy nơi phủ chúa. Chính ông cũng đã bộc bạch trước cảnh xa hoa đó rằng: "Mình vốn cũng là con em nhà quan, sinh trưởng nơi phồn hoa, khắp chốn trong cấm thành, chỗ nào cũng từng quen thuộc, duy có quang cảnh phủ chúa thì chỉ được nghe nói tới mà thôi. Nay được đến đây, mới biết hết là sự giàu sang của vua chúa, quả là không ai sánh kịp". Những câu thơ hay lời bình luận của tác giả cũng đã làm nổi bật giá trị về mặt thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Đó là sự xuất hiện của thời gian tâm lí. Bên cạnh thời gian vật lí là những con số về ngày giờ, năm tháng và niên hiệu, tác giả còn dành ra những khoảng không để chiêm nghiệm về các sự kiện đã diễn ra, khiến cho mỗi một sự miêu tả trong tác phẩm đều chứa đựng những suy nghĩ và cảm xúc của tác phẩm.
Bằng ngòi bút chân thực và sắc nét, trong đoạn trích này, tác giả còn gián tiếp lên án và tố cáo đời sống xa hoa, bệnh hoạn của giới quý tộc, quan lại đương thời. "Bệnh" của Trịnh Cán đã được ông nhận xét như sau: "là do sinh trưởng ở nơi màn the trướng gấm, ấm nó quá sức, tạng phủ kém yếu, lại thêm bị ốm lâu nên tinh huyết hao kiệt,...". Chúa Cán vốn là trẻ con hồn nhiên nghiễm nhiên trở thành nạn nhân của sự sung túc, thừa thãi và dưỡng dục sai lầm. Trước những căn bệnh như thế này, việc cứu chữa sẽ được các ngự y tiến hành như thế nào? Tác giả lại tiếp tục khéo léo lên án đám thầy thuốc Bắc Hà với căn bệnh ngu dốt, nhưng ảo tưởng, tham lam và nhỏ nhen. Đó là đám "y lại" chuyên đố kị, dèm pha lẫn nhau, không vì đạo làm thuốc mà vì danh lợi. Bằng những nét bút miêu tả khá tự nhiên, chân thực, Hải Thượng Lãn Ông đã bắt mạch, lên đơn những căn bệnh của chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Bên ngoài lớp vỏ bọc hoàn hảo của quang cảnh xa hoa lộng lẫy và cung cách sinh hoạt đầy quyền uy, hòa nhoáng và thịnh trị là những mầm bệnh đang phát tác, thể hiện sự mục rỗng và báo hiệu sự khủng hoảng tất yếu của chế độ xã hội phong kiến đương thời.
Giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh" đã làm nên tính chân thực của "Thượng kinh kí sự" qua bút pháp kí sự vô cùng đặc sắc của tác giả. Đó là sự kết hợp thành công của đôi mắt quan sát tỉ mỉ cùng ngòi bút ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất để tạo nên cái thần của cảnh và vật thấm đẫm trong từng con chữ và xuyên suốt trang văn.
Thông qua giá trị hiện thực của tác phẩm, độc giả còn thấy được giá trị nhân đạo ẩn chứa một cách sâu sắc. Bằng sự quan sát và ghi chép về quang cảnh xa hoa lộng lẫy, tác giả đã gián tiếp thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với cuộc sống cơ cực, lầm than của nhân dân. Bức tranh về xã hội phong kiến đã được phác họa trong sự đối lập giữa đời sống của tầng lớp quan lại và cuộc sống của những người dân. Thông qua tác phẩm này, chúng ta càng thấm thía hơn nữa câu ca quen thuộc của người xưa về sự tàn bạo và trắng trợn trong lối sống của đại đa số tầng lớp quan lại:
"Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".
8. Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác mẫu 7
"Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".
Bọn vua chúa phong kiến đa số là những tên cướp ngày. Chúng cướp của nhân dân một cách công khai bằng đủ thủ đoạn tàn ác để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống. Lên Hữu Trác, một danh y lỗi lạc, một văn nhân tài ba của nước ta ở thế kỉ XVIII đã một phần nào nói lên được thực trạng này qua tác phẩm Thượng kinh kí sự. Trong kí sự này, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có một giá trị hiện thực sâu sắc khi phản ánh được cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa.
Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được vời ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vua chúa phòng kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất,trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.
Mở đầu bài kí là Khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có của phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong lòng tác giả: Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thấm, gió đưa thoang thoảng mùi hương… Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!
Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng "tôi" . Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.
Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi bước đều có người của phủ chúa đi theo. Trên đường đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm "Hậu mã quân túc trực". Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lặ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp.
Càng vào sâu bên trong, sự ngạc nhiên của tác giả càng lớn:
Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đổ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chỉ có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.
Khung cảnh trong phủ chúa đã được Lê Hữu Trác khái quát qua mấy câu thơ tức cảnh:
Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt,
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại càng khác xa chốn dân gian. Lần đầu tiên trong đời, với tư cách là khách mời, tác giả được dùng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ … Không một lời bình luận, tác giả để các chi tiết tự toát lên ý nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ còn đóng vai trò bù nhìn, mọi quyền lực chính trị đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ. Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm. Quyền lợi của vua chúa không còn đồng nghĩa với quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nổi lên ở khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn về bản chất của triều đình phong kiến đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay lưng trước con đường hoạn lộ đầy cám dỗ của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.
Đoạn văn miêu tả nơi cung cấm khá tỉ mỉ, vừa có giá trị hiện thực sắc sảo vừa ngầm chứa thái độ giễu cợt nhẹ nhàng của tác giả: Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy, đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có một cái sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cải giả bằng đổng. Bên sập đặt một cái ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ.
Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt Xem chừng Thánh thượng thường thường vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay người rút lui vào màn để tôi xem mạch Đông cung cho thật kĩ:
Qua hình dáng và bệnh tình của Đông cung thế tử được tác giả miêu tả khá kĩ, người đọc cứ thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái của triều đình phong kiến Việt Nam thời đó: … thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò. Đó là vì nguyên khỉ đã hao mòn, thương tổn quá mức. Quả là chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm nay đã già cỗi, lạc hậu và khó bề cứu chữa.
Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kĩ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe ch? để tham khảo. Từ thực trạng bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp nhất: Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bổi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất.
Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khải của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy( bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tì thổ thì yên…
Danh y Lê Hữu Trác thừa sáng suốt để kê một phương thuốc hoà hoãn cho thế tử vì sợ nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Là một bậc chân Nho, ông tỏ ra nắm rất vững lẽ xuất xử của người quân tử. Quyết định lánh xa vòng danh lợi của ông trong hoàn cảnh ấy là vô cùng đúng đắn.
Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở "Đông cung". Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng. Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp . Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện,không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này . Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .
Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đã không ngần ngại để cái "Tôi" đóng một vai trò quan trọng. "Vào phủ chúa Trịnh" thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí,người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: "Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn".
"Vào phủ chúa Trịnh" trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh,chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sông xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ coi thường lợi danh của mình. Đối với ông thì không có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục cũng cho là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.
Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh - mẫu 2
Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác ngoài việc là một thầy thuốc nổi tiếng với tác phẩm Hải Thượng y tông tâm lĩnh, thì bản thân ông cũng là một người có tài văn chương, với những đóng góp đáng ghi nhận trong nền văn học Việt Nam. Một trong những cuốn nổi tiếng nhất trong bộ sách trên của ông đó là Thượng kinh ký sự. Ở đó ta sẽ có cơ hội được nhìn lại lịch sử Việt Nam thế kỷ 18, một thời kỳ mà ở đó có sự phân tranh gay gắt giữa vua Lê và chúa Trịnh. Người ta ví rằng một triều đình có hai hoàng cung cùng song song tồn tại, điều đó đã đẩy cuộc sống nhân dân vào cảnh khốn cùng. Ta sẽ được tìm hiểu về một trong hai hoàng cung quyền uy, xa hoa tột bậc đó, chính là phủ chúa Trịnh qua lời của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.
Lê Hữu Trác (1724-1791), hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Trấn Hải Dương (Hưng Yên), quê mẹ ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông vừa là một danh y lỗi lạc, vừa là một nhà văn tài hoa. Tác phẩm của ông chỉ có một bộ duy nhất là Hải Thượng y tông tâm lĩnh, rất đồ sộ, là tâm huyết của cả cuộc đời ông viết trong gần 40 năm trời bền bỉ.
Thượng kinh ký sự là quyển vĩ của bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, viết nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, cuốn sách chính là kết quả của chuyến đi này.
Bằng những quan sát rất tinh tế của mình, Lê Hữu Trác đã tái hiện một cách rất sinh động bức tranh hiện thực nơi phủ chúa Trịnh. Ông tự đặt mình vào vị trí của một vi thầy thuốc nhà quê, một người dân lao động lần đầu tiên được bước chân vào phủ Chúa, để diện kiến bề trên, để thực sự thấy được cái cuộc sống xa hoa tột độ của giai cấp thống trị thời bấy giờ là như thế nào. Đây thật sự là cái nhìn của một bậc trí thức lương tâm và trung thực. Tác giả quan sát sự vật theo trình tự không gian và thời gian, đi từ ngoài vào trong. Trước hết ấn tượng đầu tiên của Lê Hữu Trác là cảnh vật tươi đẹp nơi phủ Chúa: “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đưa thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”, rồi thì quang cảnh rộng lớn, đẹp mắt, “những dãy hành lang quanh co nối tiếp”, cảnh người qua lại nhộn nhịp “như mắc cửi”. Chỉ mới bấy nhiêu thôi đã khiến cho Lê Hữu Trác, vốn lớn lên trong nhung gấm, giàu sang cũng phải mở rộng tầm mắt mà âm thầm cảm thán “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác người thường!”. Trong đôi mắt của một thầy thuốc quê mùa, phủ Chúa thực chẳng khác nào chốn bồng lai tiên cảnh, “ngư phủ đào nguyên” cả, thực tươi đẹp không kể xiết.
Thế rồi khi bước vào nội cung, Lê Hữu Trác mới biết được cái cung cấm giàu sang nghiêm ngặt đến như thế nào. Khắp nơi nơi là đình đài, lầu các cao rộng, cảnh cung cấm được sơn son thếp vàng tỉ mỉ, rực rỡ, chưa kể những đồ vật bày biện bên trong toàn là những thứ “nhân gian chưa từng thấy”. Rồi thì không khí ngào ngạt các mùi hương thơm của nến, của hoa nhưng lại mang đến cảm giác tù đọng, ngột ngạt vô cùng, thứ nhất là vì cái không khí thâm nghiêm, thứ hai là vì cái vẻ tráng lệ xa hoa phi thực quá mức, khiến cho mọi thứ không còn giữ được vẻ đẹp tự tại ban đầu. Như vậy, qua đôi mắt quan sát tinh tường của Lê Hữu Trác ta đã thấy quang cảnh phủ Chúa hiện lên một cách chân thực và sinh động. Đó là một nơi xa hoa, tráng lệ, rực rỡ, không một nơi nào có thể sánh bằng, tuy nhiên cái đẹp vượt quá mức thường khiến cho cuộc sống vương giả trở nên ngột ngạt, tù hãm, dường như mất đi cái phần sinh khí tự nhiên của sự sống.
Đó là về cảnh sắc, về cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa ta lại càng thấy được cái mức độ xa xỉ tột cùng của đấng bề trên lúc bấy giờ. Một mâm cơm để mời các ngự y mà cái chén cái bát nào cũng bằng vàng, bằng bạc, đồ ăn thì toàn của ngon vật lạ, Lê Hữu Trác thầm nghĩ “bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Rồi thì đường vào phòng bệnh của thế tử tuyệt nhiên chẳng có một cái cửa nào, mà được phủ bởi năm sáu lần trướng gấm, cách biệt với bên ngoài. Trong phòng chỉ có một thế tử cùng với chúa vậy mà một đám người hầu, rồi lại một đám cung nhân chầu trực dù chẳng mấy khi có việc cần. Cũng chính cái lối sống, sung sướng xa hoa tột độ, nhưng ngột ngạt tù túng ấy đã khiến một đứa trẻ mới năm sáu tuổi mắc bệnh nặng. Lúc này đây màn che trướng phủ, sơn hào hải vị, lụa là gấm vóc lại cũng đang khiến con người ta trở nên bệnh tật, thế mới có câu cái gì quá cũng không tốt, là vậy.
Rồi thì căn nguyên bệnh tật của thế tử cũng là lời sâu xa của Lê Hữu Trác về tình hình đất nước lúc bấy giờ, “nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức”, khó có thể chữa chạy. Ông đắn đo rất nhiều trong lúc chữa bệnh cho thế tử, không phải là không chữa được mà cốt là ông sợ mình bị giữ chân, bị cuốn vào cái vòng danh lợi luẩn quẩn không thể thoát thân được. Cuối cùng, ông kê một phương thuốc hòa hoãn cho thế tử, bệnh sẽ khỏi nhưng lại không hết ngay và ông có thể an tâm rút về núi tiếp tục hành nghề mà không phải hổ thẹn với ơn nghĩa quốc gia bao đời.
Đoạn trích có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh cái lối sống xa xỉ, hoang dâm vô đạo của phủ Chúa, chèn ép nhân dân bởi sưu cao thuế nặng, chỉ vì phục vụ cho cuộc sống xa hoa tột bậc của chúng, để nhân dân phải sống trong cảnh lầm than, kêu trời không thấu, kêu đất chẳng hay. Lúc này đây cảnh cung cấm tráng lệ nơi phủ Chúa chính là nỗi đau của của nhân dân, là cái xiềng xích đang ngày đêm đang áp lên đôi vai gầy của những người dân cùng khổ. Đồng thời đoạn trích cũng là tấm lòng coi thường danh vọng của Lê Hữu Trác, vị danh y ấy chỉ yêu tha thiết cái cảnh thanh bình, tự do nơi quê nhà, được hành y cứu người. Còn cái cuộc sống tuy xa hoa, sung sướng kia tuy hào nhoáng như rốt cục cũng phải chịu luồn cúi, khuôn phép thì có hay ho gì đâu.
Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh - mẫu 3
Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông) là một danh y có tâm huyết và đức độ. Đồng thời, ông cũng là một nhà văn, nhà thơ có những đóng góp đáng ghi nhận cho văn học nước nhà. Tiêu biểu trong số đó là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trong “Thượng kinh kí sự” đã để lại những giá trị hiện thực sâu sắc.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã chứng kiến được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Hiện thực trong phủ chúa được ông miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa. Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thực.
Đầu tiên là quang cảnh trong phủ chúa. Từ khi bước chân vào phủ chúa, Lê Hữu Trác đã bắt đầu quan sát thật tỉ mỉ. Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. “Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Rồi khi vào bên trong, tác giả lại càng bất ngờ bởi sự xa hoa hơn cả bên ngoài. “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng.”
Nhưng thế đã là gì, cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại còn khiến ta thêm ngạc nhiên hơn nữa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Thế tử nếu có bị bệnh cũng phải đến bảy tám vị thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên. Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ được làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới. Trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép.
Khi khắc họa cuộc sống nơi phủ cháu như vậy, đặt trong sự so sánh với cảnh ngộ lầm than của nhân dân ngoài kia. Nhà văn còn muốn qua đó tố cáo xã hội phong kiến mục rỗng đã đẩy cuộc sống của nhân dân vào khổ cực.
Tóm lại, “Vào phủ Chúa Trịnh” là một bức tranh hiện thực sắc nét về sinh hoạt của vua chúa thời xưa. Cụ thể là những uy quyền và cuộc sống xa hoa của chúa. Qua đoạn trích, chúng ta cũng thấy được bức chân dung tự họa của tác giả. Đó là một con người trung thực, một danh y có tài và thờ ơ với vinh hoa phú quý, một lòng lo cho nhân dân xã tắc.
Giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh - mẫu 4
Chúng ta thường biết đến Hải Thượng Lãn Ông là một người thầy thuốc thế nhưng ông còn là một nhà văn nữa. Cuộc đời ông sáng tác không nhiều nhưng đã để lại những tác phẩm có giá trị và giàu ý nghĩa. Tiêu biểu đó là tác phẩm vào phủ chúa Trịnh. Có thể nói qua tác phầm ấy giá trị hiện thực được thể hiện rất rõ.
Trước hết vào phủ chúa Trịnh được xảy ra trong hoàn cảnh triều đình chúa Trịnh Sâm vời Lê Hữu Trác vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán. Mặc dù bản thân không muốn những ông vẫn phải vào theo lệnh chúa. Và những hiện thực nơi đây được nhìn qua con mắt của ông khiến cho chúng ta thấy được cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào.
Hiện thực phủ chúa được tác giả miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cách thức trong cung nữa. Mọi thứ nơi đây hiện lên thật sự rất cụ thể.
Trước hết là quang cảnh nơi đây, bước chân vào phủ chúa tác giả không hết khen ngợi bởi sự xa hoa sang trọng nơi đây. Nào là những cây cối mà chưa thấy ở đâu, những cây cối ấy toàn những của quý, cây quý cả. Quý như thế mà trong phủ chúa lại có rất nhiều rất um tùm nữa. Phải nói qua đây ta thấy cuộc sống nơi đầy giàu sang phú quý. Không chỉ có những loại cây quý hiếm để làm cảnh đẹp nơi đây thêm phần sang trọng mà phủ chúa còn có những loài chim cũng quý nữa. Nào là danh hoa đua thắm nào là chim kêu véo von. Có thể nói mới đặt chân vào phủ chúa mà tác giả đã vẽ lên những hiện thực nơi phủ chúa sang trọng với những loại cây, loài chim quý hiếm. Đó hẳn là người giàu sang lắm mới có thể trồng những danh hoa kia trong nhà.
Không những thế càng đi sâu vào trong phủ thì Lê hữu Trác càng vẽ lên khung cảnh chúa với sự xa hoa mỹ lệ. Tác giả thấy nhưng không ham muốn danh lợi, đặc biệt ông cũng thể hiện thái độ không thích sống một cuộc sống tiện nghi quá như thế. Phải chăng chính vì tiện nghi quá cho nên thế tử kia mới mắc bệnh tật. Khung cảnh phủ chúa được tiếp tục thể hiện qua những đại đường, quyền bổng. Ở đây người ta thấy được những màu vàng chói lọi. Có thể nói màu vàng thể hiện sự giàu sang phú quý và chính vì thế mà trong phủ chúa những vật từ nhỏ cho đến lớn đều được sơn son thếp vàng. Cuộc sống vua chúa nơi đây quả thật chẳng khác nào thiên đường mà nhiều người muốn. Từ những cây cột ở đại đường đều được sơn thếp sơn vàng. Hay là những đũa chén, mâm ăn cơm, những vật dụng tưởng chừng nhỏ bé bình thường ấy cũng được mạ vàng. Nếu như có những mâm vàng chén bạc quý giá thì người ta chỉ để làm vật quý giá trưng bày mà thôi thế mà ở đây là một vật dụng để ăn cơm. Có được một thứ mạ vàng hay bằng vàng là một sự quý giá lắm rồi thế mà ở đây từ vật to đến vật lớn đều là vàng cả. Cuộc sống hiện lên thật sự đầy đủ và giàu sang.
Không những thế cung cách trong cung cũng phần nào thể hiện được giá trị hiện thực của tác phẩm này. Để vào được trong cung thì phải qua nhiều lần bẩm báo trong phủ thì mới được vào. Những thứ của chúa thì gọi là thánh giống như là nhà vua vậy. Lê Hữu Trác vào cung vì có thánh chỉ cũng cần phải qua nhiều cửa mới đến nơi. Mọi người ở đây cung kính với chúa. Riêng bản thân chúa Trịnh Sâm thì có biết bao nhiêu là cung tần mĩ nữ vây quanh mình để chờ được hầu hạ ngài. Có thể nói cuộc sống ấy đúng là cách sống của những bậc vua chúa. Tuy nhiên sống như thế thì lấy tiền ở đâu ra?.
Không những thế khi vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán thì dù chỉ mà một đứa trẻ trong cung vậy thôi nhưng những người ngự y dù đã rất già cũng phải vái lạy thái tử rồi mới được bắt mạch kê đơn. Căn phòng ấy cũng khá lộng lẫy, thái tử thì ở sau những bức chướng gấm quý giá như để che chở lấy tấm thân gọi là ngọc ngà kia. Những ngự y túc trực quanh đó và cuối cùng Lê hữu Trác đã tìm ra phương thuốc để chữa bệnh cho Trịnh Cán.
Trước những sự phản đối của đa số những thầy thuốc trong cung Lê Hữu Trác vẫn thể hiện sự uyên thâm của bản thân mình khiến cho những ngự y kia phải khâm phục.
Qua đây ta thấy rõ ràng cuộc sống ăn chơi xa hoa nơi phủ chúa. Trả lời cho câu hỏi vậy những cây cối um tùm danh hoa đua thắm kia là ở đâu ra?, tiền đâu mà có thể có cuộc sống ăn chơi như thế?. Có thể khẳng định tiền chính là những cống nộp của nhân dân. Trong tình hình đất nước chia làm hai như thế những chúa Trịnh không lo cuộc sống cho dân, trị được nước và đi vào lòng dân chúng mà ở đây chúa lại có cuộc sống chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Qua đây ta thấy được hiện thực đất nước ta trong những năm ấy, trong khi nhân dân sống một cách khổ cực thì chúa lại có một cuộc sống không ai sánh bằng.
Như vậy qua đoạn trích vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác chúng ta thấy tác phẩm này thấm nhuần giá trị hiện thực của xã hội Việt nam những năm ấy. Cuộc sống vua chúa ăn chơi, xa đọa hưởng lạc thú mà quên đi nhiệm vụ trị an đất nước của mình.
Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:
Phân tích giá trị hiện thực đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh (Bài văn mẫu 1)
- Phân tích giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh (Bài văn mẫu 2)
Phân tích đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh của Lê Hữu Trác (Bài văn mẫu 1)
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Lớp 11 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 11 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 11 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 11 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 11 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 11 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - KNTT
- Giải sgk Tin học 11 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 11 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 11 - KNTT
- Lớp 11 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 11 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 11 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 11 - CTST
- Giải sgk Hóa học 11 - CTST
- Giải sgk Sinh học 11 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 11 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 11 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 11 - CTST
- Lớp 11 - Cánh diều
- Soạn văn 11 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 11 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 11 - Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 11 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 11 - Cánh diều