Sơ đồ tư duy Chí Phèo dễ nhớ, (hay, ngắn gọn)
Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 11, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy Chí Phèo dễ nhớ, hay nhất với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, .... Hi vọng qua Sơ đồ tư duy Chí Phèo sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của Chí Phèo.
Sơ đồ tư duy Chí Phèo dễ nhớ, (hay, ngắn gọn)
Bài giảng: Chí Phèo (Phần 2: Tác phẩm) - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)
A. Sơ đồ tư duy Chí Phèo
B. Tìm hiểu Chí Phèo
I. Tác giả
- Nam Cao (1915/1917 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri.
- Quê ông ở Lý Nhân, Hà Nam.
- Ông sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung.
- Đề cao con người tư tưởng: Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người".
- Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật
- Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc
- Ông có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh.
II. Tác phẩm
1. Thể loại: Truyện ngắn.
2. Hoàn cảnh ra đời:
- Dựa vào những cảnh thật, người thật mà Nam Cao được chứng kiến và nghe kể về làng quê mình, bức xúc trước hiện thực tàn khốc đó ông đã viết thành truyện năm 1941.
3. Bố cục:
- Phần 1 (Từ đầu đến ….. cả làng Vũ Đại cũng không ai biết): Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi.
- Phần 2 (Tiếp đến…. không bảo người nhà đun nước mau lên): Chí Phèo mất hết nhân tính.
- Phần 3 (còn lại): Sự thức tỉnh về ý thức bi kịch của cuộc đời Chí Phèo.
4. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
- Truyện lúc đầu có tên là “Cái lò gạch cũ” nhằm nhấn mạnh sự xuất hiện của Chí Phèo trong cuộc đời. Cách gọi này dựa vào hình ảnh cái lò gạch bỏ không ở phần đầu và được lặp lại ở câu kết của tác phẩm, điều đó có ý nghĩa nhấn mạnh tính chất quy luật của hiện tượng Chí Phèo, tạo ra ám ảnh trong tâm trí người đọc. Tuy nhiên nhan đề này đã thể hiện cái nhìn bi quan của tác giả về số phận của người nông dân. Sau đó Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là “Đôi lứa xứng đôi”, nhan đề này dựa vào mối tình Chí Phèo - thị Nở, gợi sự tò mò của độc giả. Tuy nhiên, nhan đề này cũng chưa khái quát được ý nghĩa của tác phẩm. Cuối cùng nhan đề “Chí Phèo” được nhà văn đặt khi được in lại trong tập Luống cày.
– Nhan đề “Chí Phèo” cũng là tên nhân vật chính của câu chuyện. Tác giả sử dụng nhan đề này để làm rõ số phận, cuộc đời, bất hạnh, cô đơn, cô độc của nhân vật chính được nhắc đến. Đồng thời, nhan đề này cũng gây ám ảnh, ấn tượng mạnh đối với người đã, đang và sẽ đọc câu chuyện.
– Nhan đề “Chí Phèo” thâu tóm được nội dung của tác phẩm. Chí Phèo là nạn nhân, là sản phẩm của xã hội phong kiến nửa thực dân. Chí là người nông dân lương thiện nhưng lại bị đẩy vào “bước đường cùng” trở thành kẻ lưu manh, côn đồ, mất hết cả nhân hình nhân tính. Trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nam Cao phát hiện trong sâu thẳm con người ấy là bản tính lương thiện. Chỉ cần một chút tình thương nhen nhóm sẽ bùng lên. Cuối cùng nhờ tình yêu của thị nở, Chí được thức tỉnh. Anh đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện rồi giết chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
– Nhan đề đã góp phần bộc lộ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
5. Tóm tắt
Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ hoang trong một lò gạch cũ và được nhặt về nuôi. Khi lớn lên Chí Phèo đi ở hết nhà này nhà khác để nuôi thân. Đến năm 20 tuổi, hắn làm canh điền cho nhà bá kiến và tấm bi kịch cuộc đời hắn từ diễn ra từ đây. Vì bá kiến ghen nên hắn bị giải lên huyện và bị bắt bỏ tù. Hắn ở tù bảy tám năm, sau khi trở về, hắn xuất hiện với bộ dạng khác hẳn ngày xưa với nhiều hình xăm trên mình. Hắn lúc nào cũng say và cứ say là hắn lại đến nhà bá kiến để chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Bá kiến đã biến Chí Phèo thành kẻ tay sai chuyên đâm thuê chém mướn cho lão. Trong tình trạng luôn say mèm, ai cho tiền sai gì hắn cũng làm, hắn trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại luôn làm những trò tác quái phá làng, phá xóm, khiến người dân ai ai cũng khiếp sợ. Cuộc đời hắn không lúc nào tỉnh. Vào một đêm trăng, Phèo say thì gặp thị nở. Đêm đó, họ ăn nằm với nhau. Phèo nửa đêm đau bụng, nôn mửa, sáng hôm sau, thị cho hắn một bát cháo hành. Cũng từ đó hắn khao khát trở về cuộc sống lương thiện và được sống cùng thị nở. Nhưng một lần nữa hắn bị đạp xuống vực vì bà cô của Thị không đồng ý. Chí Phèo tuyệt vọng, lại uống và lại xách dao ra đi, vừa đi hắn vừa chửi rủa sự đời. Hắn cầm dao đến nhà bá kiến đòi trả lương thiện cho hắn. Hắn đâm chết bá kiến rồi tự tử. thị nở nghe tin hắn chết nhìn xuống bụng và nghĩ đến lò gạch.
6. Giá trị nội dung
- Qua truyện ngắn Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy và tình trạng lưu manh hóa.
- Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác tâm hồn của người nông dân lương thiện đồng thời khẳng định bản chất lương thiện ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình lẫn nhân tính.
- Chí Phèo là tác phẩm có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc.
7. Giá trị nghệ thuật
- Tác phẩm thể hiện tài năng truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao: xây dựng nhân vật điển hình bất hủ; nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán chặt chẽ; ngôn ngữ trần thuật đặc sắc.
III. Dàn ý phân tích tác phẩm.
1. Nhân vật Chí Phèo.
a. Từ khi ra đời đến trước ki vào tù.
- Xuất thân:
+ Là đứa con hoang bị bỏ rơi, không cha, không mẹ, không thân không thích.
+ Bị bán trao tay không biết bao nhiêu người, phải đi ở.
- Lớn lên:
+ Hiền lành, cần cù chất phác.
+ Có lòng tự trọng.
+ Có ước mơ giản dị một mái ấm bình yên chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải như bao người nông dân khác.
b. Bị đẩy vào nhà tù, bị tha hóa khi ra tù.
- Nguyên nhân:
+ Cơn ghen của bá kiến đã đẩy Chí vào tù.
+ Nhà tù thực dân phong kiến đã nhào nặn nên con người Chí, biến hắn thành người khác hẳn.
- Ra tù chí xa đọa vào con đường lưu manh hóa.
+ Chí bị hủy hoại hình người: mặt hắn ngang dọc không biết bao nhiêu là sẹo, đầy mình xăm trổ,....
+ Hủy hoại tính người: Chí trở thành tay sai đắc lực cho bá kiến, con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
• Dọa nạt, chửi bới, đập đầu rạch mặt ăn vạ, đâm chém cướp phá đó đều là kì tích bất hảo của Chí.
• Chí chìm trong cơn say liên miên.
• Chí từng bước bán linh hồn cho quỷ dữ.
- Bị xã hội loài người chối bỏ.
+ Tiếng chửi của Chí đầu đoạn trích là minh chứng, hắn càng chửi đáp lại hắn chỉ là tiếng chó sủa.
+ Chí Phèo tiêu biểu cho cả một hiện tượng bi thảm trong xã hội cũ có tính quy luật: hiên tượng lưu manh hóa, bị hủy diệt những giá trị của con người⇒ sức mạnh tố cáo xã hội, giá trị hiện thực sâu sắc.
c. Chí Phèo thức tỉnh khi gặp thị Nở.
* Thức tỉnh:
- Sau cuộc gặp gỡ với thị nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”.
+ Chợt nhận ra ở trong cái lều ẩm thấp của Chí sẽ thấy “chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”.
+ Bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài.
+ Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”.
+ Cảm thấy “sợ rượu” ⇒ dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất.
+ Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói…
+ Hắn đủ tình để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc.
⇒ Cuộc gặp với thị đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên.
* Niềm vui, hi vọng, ước mơ quay trở về.
- Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
- Khi thấy bát cháo hành của thị nở, Chí Phèo ngạc nhiên và thấy “mắt mình như ươn ướt” ⇒ xúc động vì lần đầu tiên có người chăm sóc.
- Thấy thị nở có duyên, cảm thấy vừa vui vừa buồn.
- Hắn muốn làm nũng với thị, thấy lòng thành trẻ con.
- Chí Phèo thèm lương thiện: Tình yêu của thị nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về.
- Tình yêu với thị nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”.
⇒ Gặp thị nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy.
* Thất vọng, đau đớn.
- Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị nở, nởi vậy, khi thị nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn:
+ “Ngẩn người”, “ngẩn mặt”: Thái độ biểu thị sự hiểu ra, nhận thức được tình cảnh của mình ⇒ đáng thương.
+ Thoáng thấy hương cháo hành: hồi tưởng về tình yêu đã trải qua.
+ Hành động: Nắm lấy tay thị ⇒ mong muốn níu kéo hạnh phúc.
+ Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức”.
⇒ Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng.
d. Sự bế tắc trên con đường trở về làm người lương thiện.
- Mối tình với thị nở tan vỡ.
+ Nguyên nhân: định kiến xã hội, bà cô thị không đồng ý.
+ Đến một con người như thị mà Chí cũng không được phép yêu.
⇒ Có thể nói trong cái xã hội ấy Chí đã hoàn toàn bị vứt bỏ, Chí rơi và bi kịch đau đớn khi nhận ra mình không trở trở về cái xã hội bằng phẳng của những người lương thiện được nữa.
- Đến nhà bá kiến.
+ Chí đến đòi lương thiện.
+ Với Chí những khao khát cuộc sống lương thiện lúc này còn quan trọng hơn tính mạng và Chí giết bá kiến rồi tự sát.
+ Cái chết của Chí Phèo mang tính tố cáo xã hội không những đẩy con người vào bước đường tha hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ đi tới cái chết.
+ Ở đây ta còn thấy cảm quan hiện thực sâu sắc của nhà văn Nam Cao: thực trạng mâu thuẫn xung đột ở nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ chỉ có thể giải quyết bằng đấu tranh.
⇒ Chí Phèo điểm hình cho những gì tủi khổ nhất của người nông dân nhưng ở họ vẫn lấp lánh ánh sáng lương thiện.
2. Nhân vật thị Nở.
* Ngoại hình:
- Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hớn”.
+ Ngẩn ngơ: hành động theo bản năng.
+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người.
+ Đã vậy, thị còn nghèo và nhà có mả hủi.
=> Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi.
* Vẻ đẹp
- Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người.
+ Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật thị nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của thị nở.
+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, thị nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo.
+ Thị nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”.
+ Chính thị nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại.
+Tình cảm và sự quan tâm của thị nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một người với sự lương thiện trong căn tính.
=> Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí.
- Thị nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình.
+ Thị nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng.
+ Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí.
+ Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”.
+ Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối.
- Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo
+ Xây dựng nhân vật thị nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo.
+ Ban đầu, thị nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác.
+ Sau đó, chính tình thương của thị nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí.
+ Khi thị nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng ⇒ đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát.
=> Thị nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính.
3. Nhân vật Bá Kiến
- Xuất thân trong một gia đình từng làm bốn đời lý trưởng. Bản thân hắn mưu mô, thủ đoạn, khôn khéo leo lên đỉnh cao danh vọng “khét tiếng đến cả trong hàng huyện”.
- Điển hình cho bộ mặt cường hào ác bá: bất nhân, vô lương tâm, nham hiểm, gian hùng, thối nát, bỉ ổi, là “kẻ già đời trong nghề đục khoét”.
+ “Cái giọng quát rất sang”, bao giờ cũng quát để thử dây thần kinh của nguười khác.
+ Bá kiến có cái giọng cười “Tào Tháo”, và giọng nói ngọt nhạt mà thâm hiểm chết người.
+ Có những thủ đoạn rất khôn ngoan và hiệu quả: “không trị được thì cụ dùng”, “dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”, “mềm nắn rắn buông”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”,...
IV. Bài phân tích
Phân tích bài Chí Phèo - mẫu 1
“Chí Phèo” chỉ là một truyện ngắn và là một truyện ngắn sáng tác trong những ngày đầu mới cầm bút của Nam Cao viết về đề tài nông dân, nhưng tác phẩm chính là sự tổng hợp, kết tinh đỉnh cao của ngòi bút nhà văn. Có thể nói rằng, “Chí Phèo” là một bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Trước hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của người nông dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế hay thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện khác, đó là hình tượng người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính và bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi hình hài của một con người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí từ một anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà Ba, khiến cụ Bá ghen ghét đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông dân chất phác bắt đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra thằng Chí Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cong cớn, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những người nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần. Họ không chỉ bị tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính.
Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xông ra hành hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang thế, Bá Kiến xuất hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào nhà tiếp đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đồng bạc đem về Chí vô cùng hả hê. Từ đó, khi nào hết tiền hắn, lại đến ăn vòi. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm rùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dụng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ, có vườn cho Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, bá kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi. Cũng bắt đầu từ đây, Chí trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại", ai ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.
Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy thị nở đang nằm ngủ. Thị là người nghèo rớt mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích. Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền lành thời trai trẻ bỗng thức dậy, hắn muốn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rồi Chí bị cảm. Thị nở đã ân cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn ăn giải cảm... Tưởng được bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị nở đi buôn chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa thị với Chí Phèo. Do đấy, thị nở đến mắng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi Chí khóc, Chí lại tìm đến rượu, khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó", tức đâm chết hai cô cháu nhà thị nở. Nhưng bước chân thật của Chí cứ thế đến nhà bá kiến. Hắn xông vào bá kiến, vung dao đòi làm người lương thiện. Trong cơn tỉnh say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết bá kiến và cũng tự kết liễu cuộc đời mình.
Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, bao kẻ hả hê, thị nở nghĩ đến Chí “sao có lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy cái lò gạch thoáng hiện, xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”.
Đây là một truyện ngắn mà dung lượng hiện thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp thời gian..., mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Có thể phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (bá Kiến, thị Nở). Đâu đi theo con đường nào cũng cần làm nổi bật rõ nghệ, thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện. Sức mạnh của truyện ngắn trước hết là chi tiết. Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.
Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến kết cấu. Nếu xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện có thể kể được nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao đã rất có ý thức sáng tạo và huy động kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân vật cũng như đắp bổi thêm bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất, Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng để cho thị nở đột nhiên thấy thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình có chửa. Kết truyện nay có sức gợi rất lớn. Điểu này gì nếu không phải là khả năng tái sinh của Chí Phèo? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ còn nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt vấn đề hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy môi trường đã huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành, phần lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không tuân theo trình tự tuyến tính của cốt truyện. Nam Cao bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.
Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử một cách thức sử dụng ngôn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn soi quét, lách sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn cùng thời nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách tân và đóng góp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có nhiều ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Chí Phèo đến nhà bá kiến và kết thúc chuỗi ngày không ước mơ, triền miên trong những cơn say. “Tao muốn làm người lương thiện” câu nói gào lên trong ruột gan Chí, khát vọng vượt khỏi tâm trí, thúc giục hắn đến đây. Nhưng “làm thế nào mất đi những mảnh chai trên mặt”, Chí không thể trở lại con người lương thiện được nữa. Kẻ đã trượt dài trên con đường tha hóa, biến dạng thành ác quỷ,liệu có thể trở lại? Định kiến đã giết chết con người, đúng đã khiến một con người không thể hoàn lương được nữa. Hắn chết, nhưng tâm hồn luôn được sống mãi chẳng phải sẽ tốt hơn, đó là cái chết đau đớn và đầy ám ảnh, Chí Phèo phải chăng muốn nói những lời xám hối muộn màng, lời ăn năn của một con “quỷ dữ” và lời khao khát của người nông dân lương thiện đã tìm lại được ý nghĩa của cuộc đời . Cách kết thúc mở nhưng lại hoàn toàn rơi vào bế tắc, đây cũng là cái chung của văn học trước 1945, khi cái nhà văn vẫn chưa tìm được lối thoát cho bản thân mình.
Truyện ngắn “Chí Phèo” kết thúc nhưng vẫn còn đó những ám ảnh về một chế độ nửa thực dân nửa phong kiến tàn nhẫn. Tác phẩm đã lên án mạnh mẽ, phê phán chính xác một xã hội đầy vô cảm. Với khả năng sáng tạo văn học điêu luyện kết hợp lối viết chân thực đan xen những biện pháp tu từ độc đáo, Nam Cao đã để lại một tuyệt phẩm cho văn học nước nhà. Tác phẩm kết thúc trong nỗi rưng rưng của người đọc, có một tình thương nỗi xót xa lan thấm trong tâm trí của người đọc, còn lại đó cả một nỗi bâng khuâng cho số phận cuộc đời người dân vô tội trước năm 1945, mang cả giá trị nhân sinh sâu sắc vừa có sức mạnh tố cáo.
Phân tích bài Chí Phèo - mẫu 2
“Nền đất ẩm, chiếu manh, trang giấy trắng
Anh khai sinh bao nhân vật cho đời
Nên anh chết như chuyến đi dài hạn
Bởi họ thay anh có mặt giữa muôn người”
(Trần Canh)
Quả thực, giữa những ngã rẽ nhộn nhịp của “nghệ thuật” và “cuộc đời”, nhà văn hiện thực luôn là người dẫn dắt người đọc dấn thân vào một cuộc đời đau khổ, những vòng lặp luẩn quẩn bế tắc mà ẩn chứa bề sâu khôn cùng và mở ra những suy tư, trăn trở mới. Đến với Nam Cao, ta đượ chứng kiến tấn bi kịch đau thương tha hóa tính người trong xã hội cũ qua tác phẩm “Chí Phèo”.
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, “Chí Phèo” là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại được ông viết vào năm 1941.
Mở đầu cho tác phẩm, tiếng chửi của Chí Phèo đã để lại ấn tượng sâu sắc về hình ảnh một kẻ say rượu, đang “vừa đi vừa chửi”. Chí chửi trời, trời cao quá không sao nghe được, Chí chửi đời, đời rộng quá bao la quá và cũng “chẳng là ai” và rồi Chí chửi ngay cả làng Vũ Đại nhưng chẳng ai trả lời vì họ nghĩ “chắc nó trừ mình ra”. Có lẽ với Chí Phèo, điều duy nhất mà Chí có thể đối thoại với cuộc đời là tiếng chửi. Và rồi, Chí lại cất tiếng chửi, “chửi đứa chết mẹ nào không chửi nhau với hắn”. Nhưng một lần nữa, thứ Chí nhận lại được chỉ là sự im lặng, sự thờ ơ đến rợn người. Chí chửi người có lẽ chỉ là cách để hắn thu hút sự chú ý, để được “làm hòa”, được giao tiếp, trò chuyện cùng mọi người. Đau đớn tột cùng là khi hắn cứ chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”. Chí bấy giờ chỉ là một cái bóng, một kẻ tha hóa trong lòng người dân Vũ Đại, là một con quỷ dữ bên lề xã hội. Người dân trong làng không công nhận Chí là một con người, dù chỉ là người dưới đáy xã hội. Cuộc đời yên lặng, lòng người lạnh lùng để lại một Chí Phèo với một khoảng không gian cô độc và sự cô đơn tuyệt đối, một con quỷ dữ “mồ côi” thiếu tình thương từ nhỏ và lớn lên không được làm người.
Trước kia, Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Chí sinh ra là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được cho là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm dục đáng khinh bỉ, nhục nhã. Nhưng Chí đã bị quật ngã ngay lúc Bá Kiến đẩy anh vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa và vô lý, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Khi Chí ra tù, chàng trai hiền lành, lương thiện mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến tha hóa dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm”. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm ghiếc và hành động tàn bạo. Tính Người trong Chí dường như đã cạn kiệt, linh hồn ác quỷ xâm chiếm và tàn phá anh nông dân hiền lành năm nào.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất “Người” trong tâm hồn của một kẻ mà phần “Con” đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại.
Đêm hôm ấy, Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng trong trạng thái cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ, “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” mà không chút đắn đo. Đêm hôm ấy, hành động của Chí chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu. Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở trở thành nguồn sáng ấm áp chiếu rọi vào trái tim của Chí Phèo, thắp lên ngọn lửa, khao khát được hoàn lương, được trở về với thế giới loài người của Chí.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá... Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!. Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo bị cảm. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thét lên: “Ôi sao mà hắn hiền…”. Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy! Việc Thị Nở chăm sóc cho Chí khi bị cảm gió ngoài vườn, thực ra, chỉ là cử chỉ của một lòng tốt bình thường của một con người dành cho một con người. Nhưng trong cái thế giới ngày càng vô tình, tha hóa của làng Vũ Đại, đây là lòng tốt hiếm hoi duy nhất mà Chí nhận được kể từ ngày về làng. Vì thế nó quý giá, nó mới làm cảm động Chí Phèo sâu xa đến thế. Quả thật, cái mà nhân loại thiếu không phải một lòng tốt xa vời và hư ảo của một ông thánh, cũng không phải lòng tốt suông của những nhà lập thuyết viển vông: “Cái mà nhân loại thiếu, đó là một lòng tốt bình thường”, lời nói đó đã luôn vang lên như một điệp khúc khắc khoải trong tác phẩm của Rơmác. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của Nam Cao đối với con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. “Vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong mắt của kẻ si tình”. Người phụ nữ ấy xấu ma chê quỷ hờn đấy nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh! Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
Ngô Văn Giá đã từng nhận xét thị Nở là “ một khối không đồng nhất giữa các mặt của một tính cách”, thị vừa hồn nhiên, giàu tình cảm lại vừa mong manh dễ vỡ, dễ đổi thay. Và bị kịch lại một lần nữa xuất hiện, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà "sao mà đĩ thế?”. Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng làm sao trách được khi mọi người làng Vũ Đại lâu nay nhìn Chí chẳng khác nào con quỷ mang hình người. Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”. Ấy là lần duy nhất hắn níu kéo một mối quan hệ người cũng là giây phút thảng thốt, chới với của một sinh linh đáng thương biết mình đã bị ruồng bỏ. Kẻ không nhận ra nỗi đau của mình sẽ không thể cảm thấy đau được, nhưng Chí Phèo đã không còn say nữa, cho dù uống rượu thì hắn “càng uống càng tỉnh”, lương tri đã tìm về và hắn đủ tỉnh táo để nhận ra bi kịch của mình. Ấy là lần duy nhất hắn níu kéo một mối quan hệ người cũng là giây phút thảng thốt, chới với của một sinh linh đáng thương biết mình đã bị ruồng bỏ.
Như Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ ngoài kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Giờ đây, nỗi đau tột cùng của Chí như vang vọng khắp câu chữ. Nó đã chuyển hóa thành sự căm phẫn tột độ. Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Có lẽ, hắn đã biết kẻ thù của hắn đang ở đâu, kẻ đã gây ra bi kịch cho cuộc đời hắn, khiến hắn phải bán đi linh hồn của mình để rồi suốt đời quẩn quanh, bế tắc trong vòng tội lỗi. Đó chính là Bá Kiến - ngọn nguồn của mọi tội lỗi trong cuộc đời Chí.
Nam Cao cũng giống như Ngô Tất Tố đã thấy trước cái không khí không yên ổn ở nông thôn ta lúc bấy giờ. Đó là mối xung đột giai cấp giữa nông dân và tầng lớp thống trị, giai cấp địa chủ độc ác, khôn lỏi như Bá Kiến tuy im ỉm ngấm ngầm nhưng thực chất có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Và cái chết của Bá Kiến chính là một minh chứng rõ ràng cho mối xung đột lên tới đỉnh điểm. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thì làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.
Đó là khi nào xã hội còn tồn tại cường quyền bạo ngược thì cuộc sống của người nông dân vẫn mãi không thể ngóc đầu lên được. Người dân làng cứ bàn tán xôn xao mà chẳng biết nguyên nhân Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự tử, họ cũng chẳng ngờ rằng vẫn còn những thế lực như Bá Kiến tồn tại ngất ngưởng ở trên đời. Thế cho nên cuộc sống của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám thực sự mãi là một vòng bi kịch lẩn quẩn trong ao tù bế tắc.
“Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm”. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm lại là hình ảnh “cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại...” là một ám ảnh về nỗi buồn nhân sinh của Nam Cao. Nơi đó, thằng bé Chí đã từng bị vứt vào đời, bị cuộc đời chối bỏ. Cái lò gạch cũ là chứng tích của bao số phận bất hạnh, như là bản cáo trạng về một xã hội thù địch với những khát vọng làm người lương thiện, không thừa nhận tình người tình yêu vượt qua khuôn phép. Nam Cao đã kết thúc tác phẩm bằng nỗi buồn dằng dặc của những kiếp người mà ngay lúc ra đời đã là một sự vô nghĩa lý. “Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Tác phẩm “Chí Phèo” mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. “Chí Phèo” còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh. Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện. Họ phải được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ cùng khốn, bế tắc, đầy bi kịch xót xa. “Chí Phèo” là một tác phẩm văn học chân chính như trong quan niệm của Nam Cao: “Tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm phải thể hiện nỗi đau của con người, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn”.
Nam Cao đã thể hiện ngòi bút tài tình của mình qua nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình như Bá Kiến, Chí Phèo, vừa tiêu biểu cho những loại người có bề dày trong xã hội, vừa là những cá tính độc đáo và có sức sống mạnh mẽ. Tâm lí nhân vật được miêu tả thật tinh tế sắc sảo, tác giả có khả năng đi sâu vào nội tâm để diễn tả những diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật. Bên cạnh đó, ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ tác giả, có khi vừa là ngôn ngữ nhân vật. Tác giả như nhập vai vào từng nhân vật, chuyển từ vai này sang vai khác một cách linh hoạt, tự nhiên.
Lev Tolstoy đã từng thắc mắc: “ Khi một nhà văn mới xuất hiện, chúng ta bao giờ cũng tự hỏi: Anh ta là người như thế nào? Liệu anh ta có mang lại điều gì mới trong cách nhìn đời của chúng ta?” Và câu trả lời đã được phơi bày khi Nam Cao xuất hiện trong giới văn học. Qua tác phẩm Chí Phèo, Nam CAo đã đem lại cái nhìn mới mẻ cũng những dư âm khó phai trong lòng người đọc. Trong tâm niệm còn nguyên vị đắng của cuộc đời quẫn bách, ta vẫn tìm thấy ở Nam Cao niềm tin và tình yêu thương của ông dành cho người nông dân cùng khổ nơi Chí Phèo. Hắn như sống mãi trong những trang sách, trong vị đắng chát của cuộc đời nghiệp ngã và trong trái tim luôn thổn thức của người đọc, thắp lên trong tim ta ngọn hải đăng sáng lòa giữa mịt mùng biển khơi để soi lối cho ta tìm về với cõi trong trẻo, hồn hậu, thẳm sâu của lương thiện.
Phân tích bài Chí Phèo - mẫu 3
Nam Cao được biết đến là một cây bút tài hoa trên diễn đàn văn học Việt Nam, những tác phẩm ra đời mang màu sắc hiện thực sâu sắc. Những tác phẩm của ông mang cái nhìn về thời đại và cuộc sống hoàn toàn mới,cũng như hình ảnh trong các tác phẩm cũng đa dạng và phong phú,mang những mảng tính cách mà sự pha trộn sáng tối lại như được tương phản rõ rệt. Chí Phèo là một tác phẩm điển hình khi nhắc tới Nam Cao. Đây là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao, câu chuyện cũng gợi một những ý nghĩa nhân văn sâu sắc
Tác phẩm mở đầu thật đặc sắc và đầy ấn tượng với tiếng vừa đi vừa chửi của Chí Phèo, và xung quanh hắn chỉ có mấy con chó đứng chầu chực sủa. Ngoài mấy con chó, không có ai đáp lời hắn. Mở đầu truyện ngắn rất đỗi tài tình và tự nhiên, giống như chúng ta đang chứng kiến khung cảnh ấy vậy. Những âm thanh hay cụ thể là những tiếng chửi của Chí Phèo lại làm cho mọi thứ trở nên sống động,mọi hình ảnh như mở ra trước mắt.Có thể nói hình ảnh Chí say rượu, vừa đi vừa chửi,chửi những gì mà hắn thấy. Có lẽ, dường như mọi người ở cái làng Vũ Đại đã quen với hình ảnh này của nó, cho nên cứ khi nào hắn chửi mọi người cũng chẳng để ý và nghĩ rằng:” chắc hắn trừ mình ra”. Tới đây ắt hẳn mọi người lại ngạc nhiên tại sao hắn lại có hành động như vậy, theo thông thường người ta chửi bới khi uất ức một chuyện gì hay quá áp lực. Quả là như vậy,hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bỏ hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Vì ghen tuông với sự trẻ trung lực lưỡng của hắn và vì bà Ba để ý tới hắn, nên Bá Kiến tìm cách bỏ tù hắn, để hắn không thể xuất hiện nữa. Như có một sự vô cớ, Chí Phèo vốn dĩ là một người lương thiện, nghèo đói nên đi ở, nhưng trong xã hội đó,ai có tiền có quyền người đó được làm mọi thứ, và cứ thế từ một con người lương thiện, Chí dần bị đẩy vào con đường tha hóa và lưu manh hóa.
Sau khi được thả tù, bộ dạng Chí thay đỏi hẳn,với cái đầu cạo trọc và hàm răng trắng hếu, trên mặt hiện lên vết sẹo dài. Trông hắn chẳng khác gì một con quỷ, quỷ đội lốt trong hình hài của một con người. Và người hắn tìm đến đầu tiên không ai khác chính là Bá Kiến.Khi biết Chí đứng trước nhà mình vừa say vừa ăn vạ, Lí Cường ra mắng hắn,nhưng ngay sau đó,Chí Phèo đã rạch mặt, những vết máu trên khuôn mặt đầy sẹo dọc ngang nằm trước cổng nhà Bá Kiến dưới nhiều con mặt dò xét của người dân nơi đây.Khác với Lí Cường, Bá Kiến là người khôn khéo,khi thấy hình ảnh đó,quay sang Lí Cường mắng sa sả như tỏ ra nhượng bộ, rồi đỡ Chí Phèo dậy. Hắn biết tên Chí Phèo luôn luôn ưa nhẹ,lại thích được mềm mỏng nên sau đó hắn đã mời Chí vào nhà và cho ăn uống hậu hĩnh. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa vì Chí cho rằng đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm dùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ,có vườn cho Chí. Sau khi Chí đã hoàn thành công việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Bắt đầu từ lúc này Chí bõng nhiên trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh.
Dường như cuộc sống và con người của Chí Phèo lúc này đây đã thực sự thay đổi khi một lần trong lúc uống say ,hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị Nở được khắc họa là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích và Họ đã ăn nằm với nhau và thứ tình cảm đó đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Có lẽ hình ảnh bát cháo hành của Thị như liều thuốc tiên đánh thức con người lương thiện luôn giấu kín trong một bộ dạng quỷ dữ của hắn. Cái mùi cháo hành thơm kia như đã bốc lên và cử chỉ quan tâm của Thị đã khiến chí bùi ngùi và chợt nhận ra, anh muốn có một gia đình, với vợ dệt vải chồng đi làm, cứ thế cuộc sống êm đềm trôi qua. Nhưng, dường như niềm vui sướng chưa được bao lâu thì người bà cô đã khuyên Thị không nên ở với hắn,rồi Thị cũng là người duy nhất quay lưng lại với hắn thì cuối cùng cũng bỏ đi. Chiếc thang bắc cầu cho lòng lương thiện của Chí được sang bến bờ được sống như một người bình thường giờ đây hắn cũng không còn nữa. Chính vì thế,mà Chí Phèo đã mang dao tới nhà bá Kiến kết thúc đời bá Kiến và sau đó cũng tự sát, hắn không còn một lựa chọn nào khác.khi nghe được tin này, nhiều người tỏ ra hả hê, còn riêng Thị Nở lại nhìn xuống bụng và nghĩ tới cái lò gạch bỏ hoang không người qua lại.
“Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc mà dường như dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, và tình huống khác nhau…tác phẩm như mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Chúng ta có thể dễ nhận thấy và phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích-từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Dù là theo cách nào đi chăng nữa thì tất cả đều làm nổi bật nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện.
Dường như hình ảnh làng Vũ Đại được ví như một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng ,hiện thực cuộc sống được khơi ra từ những tình huống truyện đặc sắc và những chi tiết nhỏ nhất nhưng khiến độc giả không thể bỏ qua. Truyện ngắn “Chí Phèo” mở đầu và kết thúc theo kết cấu vòng, khi mở đầu truyện với hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang thì kết thúc truyện cũng như vậy, đó là chi tiết khi biết chí phèo tự sát, Thị Nở bỗng đã nhìn ngay xuống bụng mình và lại nghĩ ngay tới hình ảnh cái lò gạch, không biết một cuộc sống sẽ bắt đầu như thế nào, kết thúc mở khiến cho độc giả có nhiều liên tưởng thú vị. Ngôn ngữ trong tác phẩm là một điều không thể bỏ qua, lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của.cốt truyện. Nam Cao dường như đã bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi. Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý ngay từ khi mới đặt tay lên trang giấy. Ông đã thật tài tình khi đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Thông qua đây, việc sử dụng này có ý nghĩa rất lớn đến việc đi sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Chính bởi nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động.
Xem thêm sơ đồ tư duy của các tác phẩm, văn bản lớp 11 hay, chi tiết khác:
- Sơ đồ tư duy Chiếu cầu hiền
- Sơ đồ tư duy Chữ người tử tù
- Sơ đồ tư duy Hai đứa trẻ
- Sơ đồ tư duy Hạnh phúc của một tang gia
- Sơ đồ tư duy Thương vợ
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Lớp 11 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 11 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 11 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 11 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 11 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 11 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - KNTT
- Giải sgk Tin học 11 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 11 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 11 - KNTT
- Lớp 11 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 11 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 11 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 11 - CTST
- Giải sgk Hóa học 11 - CTST
- Giải sgk Sinh học 11 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 11 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 11 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 11 - CTST
- Lớp 11 - Cánh diều
- Soạn văn 11 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 11 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 11 - Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 11 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 11 - Cánh diều