30+ Phân tích nhân vật Thị Kính (hay, ngắn gọn)
Bài văn Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo Quan Âm Thị Kính hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn Phân tích nhân vật Thị Kính hay hơn.
- Phân tích nhân vật Thị Kính (mẫu 1)
- Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Kính
- Phân tích nhân vật Thị Kính (mẫu 2)
- Phân tích nhân vật Thị Kính (mẫu 3)
- Phân tích nhân vật Thị Kính (mẫu 4)
- Phân tích nhân vật Thị Kính (mẫu 5)
- Phân tích nhân vật Thị Kính (mẫu 6)
- Phân tích nhân vật Thị Kính (mẫu 7)
- Phân tích nhân vật Thị Kính (mẫu 8)
30+ Phân tích nhân vật Thị Kính (hay, ngắn gọn)
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 1
Trong vở chèo Quan Âm Thị Kính ta không chỉ thấy một Sùng bà độc ác bất nhân mà còn thấy hình ảnh của nàng Thị Kính hiền thục, nết na nhưng chịu nhiều bất công, ngang trái. Phẩm chất cũng như số phận của nàng được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích Nỗi oan hại chồng.
Thị Kính là cô gái xinh đẹp, nết na con nhà nghèo khó. Thiện Sĩ mến vì dung nhan và đức hạnh nên đã kết duyên với nàng. Cuộc sống vợ chồng yên ấm, hạnh phúc. Một hôm, khi Thị Kính đang ngồi khâu vá còn chồng ngồi đọc sách thì bỗng Thiện Sĩ mệt mỏi nên thiu thiu ngủ. Thị Kính quạt cho chàng và bỗng thấy chiếc râu mọc ngược nên bèn lấy dao xén đi. Thiện Sĩ giật mình, bất giác hô hoán và bố mẹ chồng nàng vào, vu cho nàng tội danh giết chồng.
Trước hết Thị Kính là một người phụ nữ hiền thảo, yêu thương, quan tâm, chăm sóc cho chồng: “Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc/ Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta. Râu làm sao một chiếc trồi ra?/ Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược/ Khi chàng thức giấc biết làm sao được/ Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng/ Dạ thương chồng lòng thiếp sao an/ Âu dao bén, thiếp xén tày một mực”. Những lời tỏ bày đó cho thấy nàng là một người phụ nữ hết sức chăm chỉ, chịu khó, may vá thuê thùa, chu đáo lo cho chồng yên giấc ngủ (quạt cho chồng). Không chỉ vậy nàng còn là người thương chồng, cho rằng mình có bổn phận làm đẹp mặt chồng, bởi đẹp chồng cũng là đẹp mặt ta, chính bởi vậy nàng mới toan lấy dao xén chiếc râu mọc ngược. Vốn đó là hành động thể hiện sự yêu thương, chu đáo nhưng không ngờ lại chính là nguồn cơn cho nỗi oan, sự bất hạnh cho nàng sau này.
Dù là một người phụ nữ có dung nhan và phẩm chất tốt đẹp nhưng nàng lại là người có số phận bất hạnh. Trước những hành động độc ác của mẹ chồng: chửi mắng, sỉ nhục, đẩy ngã, Thị Kính vẫn có thái độ hết sức hòa nhã. Nàng năm lần kêu oan: ba lần với mẹ chồng, một lần với chồng và một lần với bố đẻ. Nhưng cả năm lần ấy đều trở thành vô ích. Với Sùng bà những lời giải thích của nàng chỉ càng như đổ thêm dầu vào lửa, bà ta không nghe bất cứ lời nào, bởi Sùng bà đã mặc định nàng là kẻ có tội, hơn nữa là kẻ bất nhân, độc ác nên những lời giải thích của Thị Kính chỉ như nước đổ lá khoai. Nàng tìm đến sự cảm thông của chồng nhưng cũng vô ích, vì Thiện Sĩ là kẻ nhu nhược, không bảo vệ được người vợ yêu quý, cũng là kẻ đớn hèn, thiếu hiểu biết khi chưa hỏi rõ nguồn cơn đã la lớn khiến Thị Kính mang án oan giết chồng. Chỉ có duy nhất người sinh ra nàng là Mãng ông mới hiểu và thông cảm cho nàng nhưng ông cũng lực bất tòng tâm.
Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà một cách tàn nhẫn, cha của nàng bị đẩy ngã, đến đây kịch được đẩy lên đến cao trào. Thị Kính đau khổ vì hôn nhân tan vỡ, vì bị đuổi ra khỏi nhà không thương tiếc, nàng còn đau khổ hơn khi chứng kiến cha mình bị làm nhục. Bởi vậy nàng đã lựa chọn ra đi. Trước khi rời khỏi nơi đã từng là tổ ấm của mình nàng nhìn lại: thúng khâu, chiếc kỉ, thúng sách,… những hình ảnh, vật dụng vốn trước đây là niềm hạnh phúc với nàng thì giờ đây lại là chứng nhân cho một vụ án oan. Cái nhìn của nàng vừa luyến tiếc, nhớ thương vừa đau đớn, xót xa.
Nàng lựa chọn xuống tóc đến nơi cửa chùa làm nơi nương tựa. Sự lựa chọn của nàng là tất yếu bởi: nàng không thể ở lại nhà chồng, Sùng ông Sùng bà và ngay cả chồng nàng căm ghét nàng, đổ cho nàng tội giết chồng. Nàng cũng không thể về nhà, để làm mất mặt cha mẹ. Bởi trong xã hội phong kiến, khi con bị đuổi khỏi nhà chồng là một nỗi nhục lớn cho gia đình. Lối thoát duy nhất của nàng là giả trai đi tu. Nàng hi vọng rằng ở nơi cửa Phật nàng sẽ có cuộc sống bình yên, sẽ được Phật chứng giám cho tấm lòng trong sạch của mình. Sự lựa chọn này cho thấy nàng chưa có ý chí vượt lên hoàn cảnh mà bị thụ động trước hoàn cảnh. Đồng thời nó cũng phản ánh số phận bế tắc của người phụ nữ trong xã hội cũ. Lên án xã hội vô nhân đạo với những con người tốt bụng, lương thiện.
Bằng nghệ thuật kịch đặc sắc, tình huống kịch gay cấn, hấp dẫn đã dựng lên chân dung Thị Kính thật đẹp đẽ mà cũng đầy bất hạnh. Các tác giả dân gian vừa ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời cũng là tiếng nói cảm thương cho số phận bất hạnh của họ trước những thế lực xấu xa trong xã hội.
Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Kính
1. Mở bài
- Giới thiệu chung về thể loại chèo (khái niệm, đặc trưng cơ bản của thể loại,...)
- Giới thiệu khái quát về vở chèo "Quan m Thị Kính" và trích đoạn "Nỗi thương mình" (khái quát nội dung chính, những nét đặc sắc về giá trị nghệ thuật,...)
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Nhân vật Thị Kính trong vở chèo "Quan m Thị Kính".
2. Thân bài
a. Thị Kính là người phụ nữ dịu dàng, nết na, hết mực lo toan cho gia đình và yêu thương chồng.
- Thị Kính là con gái trong một gia đình nông dân nghèo nhưng đẹp người, đẹp nết và có lẽ chính vì cảm mến dung nhan, phẩm hạnh của nàng nên Thiện Sĩ đã cưới nàng về làm vợ.
- Thị Kính là một người phụ nữ chăm chỉ, chịu thương, chịu khó với công việc thêu thùa, may vá mỗi ngày.
- Chu đáo, quan tâm chồng của nàng khi nàng vừa may vá vừa quạt cho chồng ngủ.
- Yêu thương, lo lắng và thương chồng của Thị Kính, bởi nàng thấy đẹp mặt chồng cũng chính là đẹp mặt mình, nàng thấy mình có trách nhiệm, nghĩa vụ chăm lo cho vẻ đẹp của chồng
b. Thị Kính là người phụ nữ có số phận đau khổ và bất hạnh
- Bị nghi oan muốn giết chồng:
+ Sùng bà - mẹ của Thiện Sĩ đã dùng những lời lẽ cay độc, tàn nhẫn để mắng chửi, sỉ nhục và thậm chí còn đẩy ngã Thị Kính: Thị Kính vẫn rất hòa nhã, nàng phân bua, hết lần này đến lần khác kêu oan nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa.
+ Tìm đến chồng với hi vọng được minh oan nhưng cũng trở nên vô nghĩa.
+ Tìm đến cha đẻ nhưng ông cũng không thể làm gì khác để có thể giúp cho con.
→ Như vậy, dù bị oan, nhưng đến cuối cùng, không ai có thể đứng ra để giúp đỡ hay minh oan cho Thị Kính, một mình nàng phải chịu sự đơn độc trong sự vô tình của mọi người với nỗi đau khổ và bất lực đến tột cùng.
- Thị Kính quyết định giả trai, đi tu, nương nhờ nơi cửa chùa:
+ Sự lựa chọn ấy của Thị Kính như một lẽ tất yếu, bởi lẽ nàng đã bị đuổi khỏi nhà chồng, càng không thể trở về nhà cha mẹ đẻ bởi đó là điều lễ giáo phong kiến không cho phép.
+ Cho thấy sự sự bế tắc của nàng nói riêng, của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung bởi đấy là sự lựa chọn thụ động trước sự nghiệt ngã, xô đẩy của hoàn cảnh.
3. Kết bài
Khái quát những nét cơ bản về nhân vật Thị Kính và nêu cảm nhận về vở chèo nói chung, nhân vật Thị Kính nói riêng.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 2
Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian, chèo là một loại hình nghệ thuật đặc sắc, là một thể loại kịch sân khấu mang đậm tính dân tộc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhiều yếu tố khác nhau như kịch, múa, hát, kể chuyện,... Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, sự phát triển của nghệ thuật, chèo vẫn giữ được vị trí quan trọng, góp phần bồi đắp, nuôi dưỡng tâm hồn những người con đất Việt với nhiều tác phẩm độc đáo, đặc sắc và vở chèo "Quan Âm Thị Kính" là một trong số những vở chèo như thế. Vở chèo "Quan Âm Thị Kính" nói chung, đoạn trích "Nỗi oan hại chồng" nói riêng đã thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp cũng như nỗi oan khuất, sự bế tắc của nhân vật Thị Kính.
Trước hết, nhân vật Thị Kính hiện lên là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp - dịu dàng, nết na, hết mực lo toan cho gia đình và yêu thương chồng. Thị Kính là con gái trong một gia đình nông dân nghèo nhưng đẹp người, đẹp nết và có lẽ chính vì cảm mến dung nhan, phẩm hạnh của nàng nên Thiện Sĩ đã cưới nàng về làm vợ. Kết hôn với Thiện Sĩ, Thị Kính luôn là một người phụ nữ nết na, hết mực lo cho chồng.
"Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc,
Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta.
Râu làm sao một chiếc trồi ra?
Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược
Khi chàng thức giấc biết làm sao được.
Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng,
Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an
Âu dao bén, thiếp xén tày một mực.
Những lời nói, lời bày tỏ ấy của Thị Kính đã cho thấy nàng là một người phụ nữ chăm chỉ, chịu thương, chịu khó với công việc thêu thùa, may vá mỗi ngày. Đồng thời, nó cũng cho thấy sự chu đáo, quan tâm chồng của nàng khi nàng vừa may vá vừa quạt cho chồng ngủ. Nhưng có lẽ không dừng lại ở đó, những lời bộc bày ấy của nàng còn cho thấy sự yêu thương, lo lắng và thương chồng của Thị Kính, bởi nàng thấy đẹp mặt chồng cũng chính là đẹp mặt mình và hơn ai hết, nàng có trách nhiệm, nghĩa vụ chăm lo cho vẻ đẹp của chồng. Lòng thương chồng ấy đã khiến nàng quyết định cầm dao cắt râu cho chồng nhưng đâu ngờ rằng, chính hành động ấy đã khiến nàng phải chịu một nỗi oan, nỗi uất ức sau này.
Là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng ra Thị Kính phải có một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc và vui vẻ, thế nhưng người phụ nữ ấy lại có một số phận đầy đau khổ và bất hạnh. Vì muốn cắt cái râu mọc người cho chồng, Thiện Sĩ tỉnh giấc khi chưa hiểu rõ ngọn ngành đã hét lớn, cho rằng Thị Kính muốn giết mình. Trước sự việc ấy, Sùng bà - mẹ của Thiện Sĩ đã dùng những lời lẽ cay độc, tàn nhẫn để mắng chửi, sỉ nhục và thậm chí còn đẩy ngã Thị Kính. Tuy nhiên, trước những lời nói và hành động của mẹ chồng, Thị Kính vẫn rất hòa nhã, nàng phân bua, hết lần này đến lần khác kêu oan nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa. Với Sùng bà, những lời nàng nói như chỉ thêm dầu vào lửa, như nước đổ lá khoai, bởi bà đã cho rằng Thị Kính là người có tội, là kẻ tàn ác và bất nhân. Quá bất lực trước hành động và lời nói của mẹ chồng, nàng tìm đến chồng với hi vọng Thiện Sĩ sẽ hiểu và giúp nàng minh oan. Nhưng trái với suy nghĩ của mình, Thiện Sĩ cũng không thể giúp gì cho nàng, bởi lẽ chàng là một con người nhu nhược và hơn thế nữa, cũng vì Thiện Sĩ chưa hiểu rõ mọi chuyện đã hét toáng lên khiến Thị Kính bị mang oan. Đau đớn và bất lực, Thị Kính tìm đến Mãng Ông nhưng ông cũng không thể làm gì khác để có thể giúp cho con. Như vậy, dù bị oan, nhưng đến cuối cùng, không ai có thể đứng ra để giúp đỡ hay minh oan cho Thị Kính, một mình nàng phải chịu nỗi oan vô lí trong sự vô tình của mọi người với nỗi đau khổ và bất lực đến tột cùng.
Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà với nỗi oan khuất không thể lí giải còn cha của nàng thì bị đẩy ngã. Chắc hẳn sẽ chẳng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thị Kính lúc này - hôn nhân, gia đình tan vỡ, mất lòng tin ở chính những người thân trong gia đình và hơn thế nữa đó chính là việc nàng đã phải chứng kiến cảnh cha mình bị làm nhục. Tận cùng của nỗi đau và sự bất lực và có lẽ cũng không còn sự lựa chọn nào khác, Thị Kính quyết định ra đi. Trước khi từ giã tổ ấm của mình, nàng vẫn không quên ngoái đầu nhìn lại thúng khâu, chiếc kỉ, thúng sách,... - những kỉ vật của một thời hạnh phúc, ấm êm nhưng nó lại cũng chính là nhân chứng cho nỗi oan ức của nàng. Ngoái nhìn lại tất cả với một nỗi đau đớn, xót xa và cả sự luyến tiếc. Rời khỏi nhà, nàng quyết định nương nhờ nơi cửa chùa. Sự lựa chọn ấy của Thị Kính như một lẽ tất yếu, bởi lẽ nàng đã bị đuổi khỏi nhà chồng, càng không thể trở về nhà cha mẹ đẻ bởi đó là điều lễ giáo phong kiến không cho phép. Nàng giả trai đi tu, nương nhờ cửa Phật với mong mỏi sẽ có được cuộc sống yên bình và nơi thanh tịnh ấy sẽ chứng minh cho sự trong sạch của nàng. Nhưng đồng thời, sự lựa chọn ấy của nàng cũng cho thấy sự sự bế tắc của nàng nói riêng, của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung bởi đấy là sự lựa chọn thụ động trước sự nghiệt ngã, xô đẩy của hoàn cảnh.
Tóm lại, vở chèo "Quan Âm Thị Kính" nói riêng, trích đoạn "Nỗi thương mình" nói riêng với cách xây dựng xung đột kịch gay gắt cùng cách miêu tả nhân vật độc đáo, hấp dẫn đã thể hiện được những nét đặc sắc về nhân vật Thị Kính - một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu nỗi oan khuất bi thảm, bế tắc. Thị Kính chính là hình ảnh đại diện cho người phụ nữ trong xã hội xưa.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 3
Trong vở chèo Quan Âm Thị Kính ta không chỉ thấy một Sùng bà độc ác bất nhân mà còn thấy hình ảnh của nàng Thị Kính hiền thục, nết na nhưng chịu nhiều bất công, ngang trái. Phẩm chất cũng như số phận của nàng được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích Nỗi oan hại chồng.
Thị Kính là cô gái xinh đẹp, nết na con nhà nghèo khó. Thiện Sĩ mến vì dung nhan và đức hạnh nên đã kết duyên với nàng. Cuộc sống vợ chồng yên ấm, hạnh phúc. Một hôm, khi Thị Kính đang ngồi khâu vá còn chồng ngồi đọc sách thì bỗng Thiện Sĩ mệt mỏi nên thiu thiu ngủ. Thị Kính quạt cho chàng và bỗng thấy chiếc râu mọc ngược nên bèn lấy dao xén đi. Thiện Sĩ giật mình, bất giác hô hoán và bố mẹ chồng nàng vào, vu cho nàng tội danh giết chồng.
Trước hết Thị Kính là một người phụ nữ hiền thảo, yêu thương, quan tâm, chăm sóc cho chồng: “Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc/ Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta. Râu làm sao một chiếc trồi ra?/ Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược/ Khi chàng thức giấc biết làm sao được/ Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng/ Dạ thương chồng lòng thiếp sao an/ Âu dao bén, thiếp xén tày một mực”. Những lời tỏ bày đó cho thấy nàng là một người phụ nữ hết sức chăm chỉ, chịu khó, may vá thuê thùa, chu đáo lo cho chồng yên giấc ngủ (quạt cho chồng). Không chỉ vậy nàng còn là người thương chồng, cho rằng mình có bổn phận làm đẹp mặt chồng, bởi đẹp chồng cũng là đẹp mặt ta, chính bởi vậy nàng mới toan lấy dao xén chiếc râu mọc ngược. Vốn đó là hành động thể hiện sự yêu thương, chu đáo nhưng không ngờ lại chính là nguồn cơn cho nỗi oan, sự bất hạnh cho nàng sau này.
Dù là một người phụ nữ có dung nhan và phẩm chất tốt đẹp nhưng nàng lại là người có số phận bất hạnh. Trước những hành động độc ác của mẹ chồng: chửi mắng, sỉ nhục, đẩy ngã, Thị Kính vẫn có thái độ hết sức hòa nhã. Nàng năm lần kêu oan: ba lần với mẹ chồng, một lần với chồng và một lần với bố đẻ. Nhưng cả năm lần ấy đều trở thành vô ích. Với Sùng bà những lời giải thích của nàng chỉ càng như đổ thêm dầu vào lửa, bà ta không nghe bất cứ lời nào, bởi Sùng bà đã mặc định nàng là kẻ có tội, hơn nữa là kẻ bất nhân, độc ác nên những lời giải thích của Thị Kính chỉ như nước đổ lá khoai.
Nàng tìm đến sự cảm thông của chồng nhưng cũng vô ích, vì Thiện Sĩ là kẻ nhu nhược, không bảo vệ được người vợ yêu quý, cũng là kẻ đớn hèn, thiếu hiểu biết khi chưa hỏi rõ nguồn cơn đã la lớn khiến Thị Kính mang án oan giết chồng. Chỉ có duy nhất người sinh ra nàng là Mãng ông mới hiểu và thông cảm cho nàng nhưng ông cũng lực bất tòng tâm.
Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà một cách tàn nhẫn, cha của nàng bị đẩy ngã, đến đây kịch được đẩy lên đến cao trào. Thị Kính đau khổ vì hôn nhân tan vỡ, vì bị đuổi ra khỏi nhà không thương tiếc, nàng còn đau khổ hơn khi chứng kiến cha mình bị làm nhục. Bởi vậy nàng đã lựa chọn ra đi. Trước khi rời khỏi nơi đã từng là tổ ấm của mình nàng nhìn lại: thúng khâu, chiếc kỉ, thúng sách,… những hình ảnh, vật dụng vốn trước đây là niềm hạnh phúc với nàng thì giờ đây lại là chứng nhân cho một vụ án oan. Cái nhìn của nàng vừa luyến tiếc, nhớ thương vừa đau đớn, xót xa.
Nàng lựa chọn xuống tóc đến nơi cửa chùa làm nơi nương tựa. Sự lựa chọn của nàng là tất yếu bởi: nàng không thể ở lại nhà chồng, Sùng ông Sùng bà và ngay cả chồng nàng căm ghét nàng, đổ cho nàng tội giết chồng. Nàng cũng không thể về nhà, để làm mất mặt cha mẹ. Bởi trong xã hội phong kiến, khi con bị đuổi khỏi nhà chồng là một nỗi nhục lớn cho gia đình. Lối thoát duy nhất của nàng là giả trai đi tu. Nàng hi vọng rằng ở nơi cửa Phật nàng sẽ có cuộc sống bình yên, sẽ được Phật chứng giám cho tấm lòng trong sạch của mình. Sự lựa chọn này cho thấy nàng chưa có ý chí vượt lên hoàn cảnh mà bị thụ động trước hoàn cảnh. Đồng thời nó cũng phản ánh số phận bế tắc của người phụ nữ trong xã hội cũ. Lên án xã hội vô nhân đạo với những con người tốt bụng, lương thiện.
Bằng nghệ thuật kịch đặc sắc, tình huống kịch gay cấn, hấp dẫn đã dựng lên chân dung Thị Kính thật đẹp đẽ mà cũng đầy bất hạnh. Các tác giả dân gian vừa ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời cũng là tiếng nói cảm thương cho số phận bất hạnh của họ trước những thế lực xấu xa trong xã hội.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 4
Trong những tác phẩm văn học nghệ thuật thì chèo có lẽ là một trong những thể loại có từ lâu đời nhất. Sức sống của chèo có thể đi cùng năm tháng với rất nhiều những giá trị mà nó mang lại cho tất cả chúng ta. Và trong những tác phẩm chèo mà em biết thì có lẽ “ Quan âm thị kính” là một trong những vở chèo mà em yêu thích nhất bởi những chi tiết và ý nghĩa hàm chưa trong nó. Qua đó chúng ta cũng học hỏi rất nhiều điều về những gì mà mình cần học hỏi và cố gắng. Mở đầu tác phẩm chính là đoạn trích Nỗi oan hai chồng chính là nguyên nhân gây nên những đau khổ và hiểm lầm của gia đình nhà chồng đối với Thị Kính.
Giới thiệt về Thị Kính thì cô là một người con gái đoan trang và phúc hậu. Cô luôn luôn chăm lo cho cuộc sống của gia đình nhà chồng và biết quán xuyến gia đình nhà chồng cẩn thận. Bỗng nhiên có một hôm, đang ngồi bên cạnh thêu thùa quần áo còn người chồng thì đang nằm ngủ, cô bỗng thấy chồng mình có một sợi râu mọc ngược. Suy nghĩ trong chốc lát, vì cho rằng trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta hơn thế nữa râu mọc ngược cũng mang những ý nghĩa xấu mà người vợ cầm cây kéo toan cắt chiếc râu của người chồng. Và mọi hiểu lầm cũng bắt đầu từ đây. Đang mơ màng trong giấc ngủ say thì bỗng người chồng chợt thức giấc. Khi tỉnh dậy thấy người vợ của mình đang cầm kéo kề sát cổ của mình thì Thiện Sĩ- chồng của Thị Kính cảm thấy nghi ngờ và sợ hãi. Hành động đấu tiên của người chồng chính là đã hô hoán lên. Và sự nghi ngờ này đã khiến cho cuộc sống của Thị Kính sau này trở nên vất vả và khó khăn hơn bao giờ hết. Nghe tiếng con trai kêu lên như vây thì lập tức Sùng ông và Sùng bà cùng nhau chạy vào.
Sùng bà vốn là người đanh đá chua ngoa. Thấy sự tình như vậy, không chịu hỏi đầu đuôi như thế nào, bà ta liền hô hoán lên và đổ mỗi tội lỗi lên người của cô con dâu với tội danh muốn giết chồng. Mà trong xã hội cũ thì đó chính là một trong những tội lớn nhất. Cứ thế Thị Kính không thể nào tự thanh minh cho chính bản thân của mình được bởi cứ mỗi lúc nàng muốn nói thì lại bị người mẹ chồng hắt hủi quở nạt. Tận cho tới lần thứ tư thì lúc này, người cha mới đáp lại những câu nói thanh minh của nàng nhưng đó cũng chỉ là sự bất lực mà thôi. Bởi chính Sùng ông lại là người sợ vợ, luôn chịu sự đàn áp và chỉ đạo của Sùng bà. Xã hội phong kiến cũ chính là xã hội mà ở đó, trọng nữ khinh nam đặc biết nhiều người bị ảnh hưởng. Thế nhưng trong gia đình của Sùng ông và sùng bà thì dường như cả hai người đàn ông trong gia đình đều là những người hết sức nhu nhược và không hề có những chính kiến của chính bản thân mình.
So với những người khác thì Thiện Sĩ mới là nỗi đau lớn nhất của Thi Kính. Bởi cha me chồng không hiểu nàng đã đành, thế nhưng, người chồng luôn đầu gối tay ấp với mình lại không hề nghĩ và có hành động gì thể hiện vài trò của một người chồng, người đàn ông trong chuyện này. Đó chính là cái bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Có người chồng bên cạnh nhưng lại người đàn ông ấy lại không thể một lần bảo vệ mình khỏi những hiểu lầm. Trong trường hợp này, có những khi chỉ một câu nói của người chồng hay là một lần người chồng đứng ra để tìm hiểu nguyên nhân của sự việc theo đúng những gì mà trách của người chồng phải làm thì mọi thứ có lẽ đã xoay chuyển theo một chiều hướng khác. Đó cũng chính là một trong nhưng điều đau khổ của những người phụ nữ thời kì lúc bấy giờ. Sự đau khổ của Thị Kính trong những lần bị người mẹ chồng và người chồng của mình hắt hủi, xa lánh càng ngày mức độ càng tăng cao. Cô không thể làm được bất cứ một điều gì. Mọi chuyện chỉ bắt đầu từ một hành động, một suy nghĩ tốt nhưng lại gây ra biết bao nhiêu phong ba, vất vả. Trong đoạn trích sử dụng rất nhiều những cặp từ ngữ đối lập nhau như: “ bấy lâu- bỗng”, “sắt cầm tịnh hảo- chăn gối lẻ loi” lại càng làm rõ nét sự đau khổ tới tột cùng của người phụ nữ. Tình cảm vợ chồng bao nhiêu lâu chỉ bị đổ vỡ bởi một lí do không đáng có.
Đó chính là điều mà người vợ cảm thấy bi ai nhất. Có những khi, chúng ta thậm chí còn cảm thấy nhân vật Thiện Sĩ thật là đáng trách. Chàng là người dùi mài kinh sử, đáng lẽ ra chàng phải là người hiểu biết nhất trong số những người trong gia đình và phải biết giải quyết những việc quan trọng trong gia đình, Thế nhưng chàng không hề làm như vậy. Chàng chỉ biết đứng đó và nhìn người vợ của mình bị mẹ mắng chửi mà không hề có những hành động mà đáng lĩ những người đấng nam nhi phải làm. Đó cũng chính là nỗi khổ của những người phụ nữ thời bấy giờ.
Tóm lại, đoạn trích trên là một trong những đoạn trích mang rất nhiều kịch tính mà thông qua những nhân vật, chúng ta càng hiểu thêm nhiều về số phận của những người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ phải chịu đựng. Đó là những nỗi khổ mà không thể nói cùng với ai mà chỉ có thể chịu đựng một mình mà thôi.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 5
Quan Âm Thị Kính là một vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu chèo. Nội dung của vở chèo chia làm ba phần. Phần 1 là Án giết chồng: Thiện Sĩ, con trai Sùng ông, Sùng bà gia đình khá giả, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thấy chồng có sợi râu mọc ngược, Thị Kính cầm dao khâu toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình hoảng sợ vội hô hoán lên, Sùng bà giận dữ đổ riệt cho con dâu có ý giết chồng, mắng chửi thậm tệ và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Phần 2 là Án hoang thai: Bị oan ức nhưng không thể thanh minh, Thị Kính đành giả trai, vào thưở chùa Vân Tự, lấy pháp danh là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, đem lòng say mê chú tiểu Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Màu ăn nằm với anh Nô là đầy tớ rồi có thai. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Mầu đổ cho Kính Tâm, Kính Tâm chịu oan, bị sư cụ đuổi ra khỏi tam quan (cổng chùa), Thị Màu đem con bỏ cho Kính Tâm. Phần 3 là Oan tình được giải, Thị Kính lên tòa sen: Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng "hóa" (chết), được lên tòa sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi "hóa", Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới biết Kính Tâm là gái và hiểu ro tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.
Nỗi oan hại chồng và cái án oan hoang thai là hai sự kiện chính của vở chèo. Qua đó, tác giả dân gian phản ánh bi kịch trong thân phận của người phụ nữ nghèo khổ thời phong kiến. Hai sự kiện tuy thuộc hai mảnh đời khác nhau của Thị Kính nhưng liên hệ chặt chẽ với nhau. Cảnh ngộ nào cũng éo le, đau đớn nhưng mỗi cảnh ngộ lại có một vẻ riêng. Chúng kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau để hoàn chỉnh tấn bi kịch về cuộc đời người phụ nữ. Bên cạnh nội dung đó, vở chèo còn có dụng ý đề cao phẩm chất cao quý của người phụ nữ và lên án cái xấu, cái ác trong xã hội phong kiến xưa.
Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là cốt lõi trong phần mở đầu của vở chèo. Phần này có năm nhân vật tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch và làm nền cho nhân vật Thị Kính bộc lộ phẩm chất cao đẹp. thiện Sĩ và Sùng ông là những kẻ nhu nhược, không có chủ kiến, chỉ đóng vai phụ để làm nổi bật tính cách điêu ngoa, nanh ác của Sùng bà. Xung đột cơ bản của vở chèo được thể hiện qua mâu thuẫn của Sùng bà và Thị Kính (mẹ chồng, nàng dâu). Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến với những thói hư tật xấu như hóm hĩnh, tự phụ về dòng giống cao sang, cả vú lấp miệng em, luôn lấy mình làm chuẩn mực để xem xét, đánh giá người khác theo nhân thức hồ đồ của mình, Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo, đại diện cho người phụ nữ lao động nghèo. Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền nết na, thùy mị nhưng bị Sùng bà nanh ác buộc tội giét chồng. Gia đình nhà chồng đã gây ra cho Thị kÍnh những nỗi oan chồng chất. Nàng bị hàm oan, hạnh phúc tan vỡ, bị đuổi khỏi nhà chồng và đau khổ nhất là phải chứng kiến cảnh người cha thân yêu bị sỉ nhục.
Mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính về hình thức là xung đột trực tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu nhưng về bản chất lại là mâu thuẫn sâu sắc giữa kẻ thống trị và người bị trị. Đó là cái nút đầu tiên trong vở chèo bộc lộ thân phận, địa vị thấp kém của người phụ nữ nghèo trong quan hệ gia đình và hôn nhân phong kiến.
Mở đầu là cảnh sinh hoạt đầm ấm, (vợ vá may thêu thùa. Chồng đọc sách), tuy không phổ biến và gần gũi như cảnh chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa trong ca dao nhưng nó cũng thể hiện khát vọng về hạnh phúc gia đình của nhân dân lao động.
Trong khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối diện với Thiện Sĩ rất ân cần, dịu dàng. Khi chồng học bài mệt mỗi đêm ngủ thiếp đi, nàng dọn lại kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng băn khoăn lo lắng về một điềm báo chẳng lành. Thị Kính muốn làm đẹp cho chồng và cho mình: Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta…, Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an. Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. Tâm trạng của nàng là tâm trạng của người vợ yêu thương chồng thắm thiết.
Việc làm đầy thiện ý của Thị Kính chưa kịp thực hiện thì Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy con dao kêu lên: Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng! Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường… khiến cho cả nhà tỉnh giấc. Chẳng cần hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng bà đã sừng sộ khép ngay Thị Kính vào tội giết chồng: Cái con mặt gan lim này! Mày định giết con bà à?
Thái độ của Sùng bà rất thô bạo và tàn nhẫn. Khi Thị Kính khóc lóc van xin được thanh minh, Sùng bà dúi đầu Thị Kính ngã xuống rồi lại bắt nàng ngửa mặt lên để nghe mụ chửi, chứ không cho phân bua, thanh minh gì cả.
Sùng bà nói với Thị Kính toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, lăng mạ. Dường như một lần mụ cất lời, Thị Kính lại bị kết thêm một tội. Mụ trút cho Thị Kính đủ tội mà không cần biết sự tình. Mụ xỉ vả, đuổi Thị Kính ra khỏi nhà không chỉ vì lí do cho rằng Thị Kính giết chồng mà Thị Kính còn là loại đàn bà hư đốn, tâm địa xấu xa; là con nhà thấp hèn không xứng với nhà mụ:
Giống nhà bà đây giống phượng giống công – Còn tuồng bay mèo mã gà đồng lẳng lơ – Nhà bà đây cao môn lệnh tộc – Mày là con nhà cua ốc – Trứng rồng lại nở ra trứng rồng – Lìu điu lại nở ra dòng lìu điu – Đồng nát thì về Cầu Nôm, Con gái nỏ mồm về ở với cha… Tất cả những lời nói và cử chỉ đó đã bộc lộ bản chất của một mụ nhà giàu bất nhân, bất nghĩa.
Lời lẽ của mụ chứa đựng toàn là sự phân biệt đối xử. Vốn từ ngữ dùng để so sánh chuyện cao thấp, sang hèn, giàu nghèo… của mụ phong phú đến mức đáng sợ. Mâu thuẫn giữa mụ và Thị Kính đã vượt khỏi mâu thuẫn mẹ chồng – nàng dâu. Mụ đã trả nó vào đúng vị trí là mâu thuẫn giai cấp. Các điệu hát sắp, nói lệch… phù hợp với việc thể hiện thái độ trấn áp phũ phàng và giọng nói điệu kiêu kì, tự phụ về dòng, giống giàu sang, khinh thị người nghèo khó của mụ. Nhân vật Sùng bà chỉ xuất hiện trong một lớp diễn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tính cách của vai mụ ác trong vai chèo cổ. Mụ ra oai sấm sét để tỏ ra " phép nhà". Mụ tự cho mình cái quyền tạo ra "luật" và "lệ" trong gia đình Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được gia đình chấp nhận bởi vì nàng không xuất thân từ nguồn gốc " con nhà gia thế". Quả là mâu thuẫn giai cấp không thể dung hòa đã tác động ghê gớm đến cuộc hôn nhân này.
Khi bị mẹ chồng khép vào tội giết chồng, Thị Kính đã có những lời nói, cử chỉ thật nhẫn nhục, đáng thương. Năm lần kêu oan thì bốn lần tiếng kêu của nàng hướng về chồng và mẹ chồng. Lần thứ nhất, nàng kêu oan với mẹ chồng: Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ hai, vẫn với mẹ chồng: Oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ ba, kêu oan với chồng: Oan thiếp lắm chàng ơi! Lần thứ tư, một lần nữa, lại kêu oan, van xin mẹ chồng: Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!
Thị Kính kêu oan với chồng nhưng vô ích bởi Thiện Sĩ là gã đàn ông đơn hèn, nhu nhược. Hắn bỏ mặc người vợ hết lòng thương yêu, chăm sóc gắn bó với mình cho bà mẹ độc ác hành hạ. Lúc này, Thiện Sũ chỉ là một nhân vật thừa trên sân khấu. Lời van xin của Thị Kính giống như lửa đổ thêm dầu, càng làm bùng lên những lời đay nghiến lăng nhục của Sùng bà. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan lại càng dày. Giữa gia đình nhà chồng người phụ nữ đức hạnh ấy hoàn toàn cô độc. Chỉ đến lần cuối cùng, Thị Kính kêu oan với cha đẻ là Mãng ông thì nàng mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó là sự cam thông đau khổ và bất lực. Mãng ông nói trong nước mắt:
Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào!
Kết cục của nối oan là tình vợ chồng giữa Thị Kính và Thiện Sĩ tan vỡ. Nàng bị đuổi ra khỏi nhà chồng.
Trước khi đuổi Thị Kính, Sùng bà và Sùng ông còn nhẫn tâm dựng lên một vở kịch tàn ác: lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, kì thực là bắt Mãng ông nhận con gái về. Chúng có thú vui làm điều ác, muốn cha con Mãng ông phải nhục nhã ê chề. Hơn thế nữa, nhanh như trở bàn tay, Sùng ông đã thay đổi quan hệ thông gia bằng những hành động vũ phu. Cảnh này được xây dựng bằng những chi tiết, hình ảnh, lời nói thật sinh động:
Mãng ông: Ông ơi! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện với, ông ơi!
Sùng ông: Biết này!
(Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào, Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau khóc).
Sự việc Sùng bà cho gọi Mãng ông đến để trả Thị Kính đã thể hiện tính cách bất nhân bất nghĩa của mụ, đồng thời bộc lộ nỗi bất hạnh lớn nhất của Thị Kính. Thị Kính như bị đẩy đến cực điểm của bi kịch. Nàng chới với trong nỗi oan ức tày trời, nỗi đau tình vợ chồng tan vỡ cộng thêm nỗi nhục nhã, đau đoén trước ảnh người cha già kính yêu bị chính cha mẹ chồng khinh khi, hành hạ.
Cuối lớp diễn, trên sân khấu chỉ còn lại hai hca con Thị Kính lẻ loi đơn độc giữa sự vô tình đến lạnh lùng, tàn nhẫn. Cảnh hai cha con ôm nhua than khóc là hình ảnh của những người nghèo khổ chịu oan ức mà hoàn toàn bất lực. Cảnh Sùng bà quy kết, đổ vạ cho Thị Kính diễn ra chóng vánh, dồn dập. Còn cảnh hai cha con Thị Kính ôm nhau than khóc thì kéo dài trên sân khấu. Sự bố trí như vậy mang ý nghĩa tố cáo cái ác và cảm thông sâu sắc với cái thiện đang bị cái ác bủa vây giwuax trùng trùng sóng dữ.
Thái độ của Thị Kính trước khi ra khỏi nhà chồng được đặc tả: Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm chiếc áo ddang khâu dở, bóp chặt trong tay.
Chiếc kỉ, thúng khâu, chiếc áo đang khâu dở là bằng chứng chứng minh cho tình cảm thủy chung, hiền dịu của người vợ yêu chồng nhưng giờ đây lại bị coi là chứng cứ của sự thất tiết. Sự đảo lộn đột ngột đó đã làm cho trái tim đa cảm của Thị Kính đau đớn, bàng hoàng. Tâm sự của nàng thể hiện qua điệu sử rầu và nói thảm:
Thương ôi! Bấy lâu nay sắt cầm tịnh hảo Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi.
Một bên là những kỉ niệm hạnh phúc của tình vợ chồng, một bên là khoảnh khắc chớp nhoáng của sự tan vỡ, chia lìa. Lời thoại gợi lên rất rõ hình ảnh một người con gái bị hàm oan đang vô cùng đau khổ và bơ vơ trước cuộc đời vô định. Thị Kính đột ngột bị đẩy vào tình thế éo le: Biết đi đâu? Về đâu bây giờ? Đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến tránh sao khỏi cảnh Lênh đênh chiếc bách giữa dòng?!
Trong nỗi đau tình vợ chồng chia cắt, nỗi nhục khi phẩm giá bị chà đạp, sự ê chề khi khong bảo vệ được người cha già bị gia đình chồng sỉ nhục, Thị Kính vẫn giữ bản chất chân thật, hiền lành, giữ phép tắc luân lí của đạo dâu con. Người đọc càng xót thương, Thị Kính bao nhiêu thì càng căm ghét sự bất nhân bất nghĩa của gia đình Sùng bà bấy nhiêu.
Kết thúc đoạn trích nỗi oan hại chồng là cảnh Thị kính cúi lạy cha rồi nói lên nguyện vọng của mình là sẽ giả trai để bước vào cửa phật tu hành. Con đường giải thoát của Thị Kính có hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là Thị kính xác định phải sống ở đời, mới mong tỏ rõ là người đoan chính. Mặt tiêu cực là nàng cho rằng mình khỏ do số kiếp đã định, do phận hẩm duyên ôi, nên tìm vào cửa Phật để lánh đời. Thái độ của Thị Kính thiếu cái khỏe khoắn, lạc quan, dũng cảm của những người vợ nghèo trong ca dao. Nàng không dám đứng lên chống lại những oan trái bất công, chưa đủ bản llinhx vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã, trái lại đã cam chịu bằng sự nhẫn nhục đáng thương. Phản ứng của Thị Kính mới chỉ dừng lại ở lời trách móc số phận và ước muốn lòng dạ ngay thẳng của mình được nhật nguyệt sáng soi.
Vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và đoạn trích Nỗi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống, thể hiện chân thực cuộc sống bi thảm, bế tắc của nhiều số phận, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cao quý của người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến xưa kia.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 6
Những thân phận nhỏ bé trong xã hội luôn gặp phải những khổ đau bất hạnh làm cho chúng ta phải xót xa, thương cảm. Nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một nhân vật như vậy, những vẻ đẹp trong tâm hồn nàng cùng số phận khổ đau vừa đem lại cho người ta sự yêu mến về nhân cách đồng thời cũng xót xa cho số phận - một số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
Nhân vật Thị Kính xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng là một người con gái đức hạnh. Đầu tiên nàng là một người phụ nữ hết lòng vì chồng, vì gia đình chồng. Đức tính này thể hiện thông qua hành động nhỏ là để ý chồng mình có cái râu mọc ngược và muốn cắt nó để làm đẹp cho chồng. Đây là một hành động thể hiện tình yêu sâu sắc với chồng, không có gì đáng chê trách mà ngược lại rất yêu thương chồng. Với hành động yêu thương ấy, đáng ra chồng nàng phải là người hiểu điều này hơn ai cả, thế nhưng lại có thể hiểu lầm nàng có ý mưu sát chồng. Một người sống cùng nhau mà không hiểu tấm lòng của nhau thì thật là đáng buồn cho Thị Kính.
Với xuất thân từ nhà nghèo được gả cho nhà chồng, sự không môn đăng hộ đối đã khiến cho nàng phải chịu số phận khổ đau sau này. Đây là số phận của nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến là vậy, chính những cổ tục hà khắc đè nén là mầm mống cho những hiểm họa về sự bất hạnh, cộng thêm sự thấp cổ bé họng, cuộc đời của họ biết đi về đâu bị. Chính những điều này khiến một việc nhỏ bé mà nàng bị vu oan có ý mưu sát chồng. Khi bị vu oan, với tính cách hiền hậu, dịu dàng, nàng không đối lại với lời lẽ cay nghiệt của nhà chồng mà chỉ một điều van xin, hai điều can xin sự thấu hiểu và đồng cảm.
Chỉ có cha của nàng đồng cảm nhưng ông lại không có tiếng nói nên nỗi oan của Thị không được làm sáng tỏ. Trước những bất công của xã hội, trước nỗi oan ức không thể giãi bày, nàng cầu xin sự chứng giám của thời xanh với tấm lòng trong sạch của mình. Cuối cùng Thị quyết định giả làm chú tiểu, nương nhờ cửa Phật để người có thể thấu nỗi lòng của nàng. Sự quyết định của nàng thể hiện tấm lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Nàng sợ cha mẹ bị hàng xóm láng giềng chê bai, sợ làm xấu tiếng của gia đình nên quyết định nương tựa cửa Phật.
Qua những hành động của Thị, ta thấy được số phận của người con gái đẹp người đẹp nết ấy sao mà lại bất hạnh như vậy. Ngay từ đầu, Thị không hề làm một hành động gì có lỗi cả, mọi chuyện đều xuất phát từ ý tốt vậy mà vì không tin tưởng nhau trở thành tai họa. Cuộc đời nàng không hề làm sai trái điều gì, cũng chưa từng hại ai vậy mà chịu oan, nỗi oan tày trời mà lần nào nàng cũng phải chịu. Bởi người con gái bất hạnh ấy không biết phải kêu oan ở đâu kêu oan như thế nào khi quyền thế nằm trong tay những người có quyền thế, còn nàng chỉ là một người phụ nữ bé nhỏ, khổ sở.
Qua đó, ta đồng cảm, xót thương cho nàng, cho những người phụ nữ đẹp người, đẹp nết mà phải chịu số phận khổ đau. Nhân vật Thị Kính để lại trong lòng người đọc nhiều xót xa, thương cảm cho một tầng lớp nhỏ bé, bất hạnh, đồng thời dậy lên niềm quý mến, trân trọng cho một người con gái đức hạnh, đẹp người, đẹp nết.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 7
Người phụ nữ trong xã hội xưa luôn phải chịu những bất công, khổ hạnh mà không biết giãi bày cùng ai. Trong đó tác phẩm " Quan âm Thi Kính" đặc biệt là đoạn trích " Nỗi oan hại chồng" đã khắc hoạ rõ nét hình ảnh người phụ nữ như vậy với nhiều bi kịch trong cuộc đời. Qua đó nói lên tiếng phê phán xã hội cũ. Thị Kính sinh ra trong một gia đình nghèo được bố mẹ gả cho Sùng Thiện Sĩ, chàng thư sinh mà gia đình khá giả.
Một đêm nọ, khi Thiên Sĩ - là chồng của Thị thiu thiu ngủ do học hành mệt mỏi. Thị Kính ngồi quạt cho chồng và nhìn thấy dưới cằm chồng có chiếc râu mọc ngược, nàng bèn dùng dao xén đi. Ngay lúc đó, Thiện Sĩ giật mình choàng tỉnh, nghĩ Thị Kính có ý đồ giết mình bèn hô hào lên. Cả gia đình chồng không phân rõ trắng đen đã vu cho Thị Kính tội giết chồng, rồi trả nành về cho Mãng Ông – cha đẻ nàng sang mặc cho Thị Kính ra sức giải thích.
Thị Kính trên cùng cha về nhà nhưng đến giữa chừng thì quyết định từ biệt cha mẹ, giả dạng nam nhi bước đi tu hành. Tuy xuất thân nghèo khó nhưng Thị Kinh là người con gái đoan trang,nhân hậu, hiền lành và rất mực thương yêu quan tâm chồng. Đây là vẻ đẹp chung của người phụ nữ trong xã hội xưa "thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non". Tuy nhiên, dưới sự bất công của xã hội xưa, nàng bị vu oan giết chồng và không thể giải oan. Với một xã hội trong tôn trọng giá trị của phụ nữ, nàng bị người chồng đầu ấp tay kề bỏ rơi và thờ ơ, chịu đựng những oan ức sự bê tắc, nàng bị đối xử một cách tùy tiện, tệ bạc.
Mặc dù bị đối xử tệ bạc, nàng vẫn ra sức sự tha thứ " Oan cho con lắm mẹ ơi", "Mẹ xét tình con, oan cho con lắm mẹ ơi"... Nàng vẫn mong rằng được cảm thông, thấu hiểu, nhưng đáp lại là sự phũ phàng, nàng càng khóc thì mụ càng mắng chửi thậm thệ hơn. Đó chính là một số phận đầy bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa: thấp bé, dễ dành bị chà đạp. Đến khi chính mẹ chồng - người phụ nữ cũng không thông cảm cho Thị, nhất định đuổi Thị Kính về nhà mẹ đẻ. Đối với nàng, đó là sự đau khổ, tuyệt vọng tột cùng.
Người duy nhất hiểu Nỗi oan của Thị Kính là Mãn Ông, nhưng ông lại không có tiếng nói trong xã hội xưa, để rồi đây khi con mắt của người đời vẫn không ngừng chỉ trích. Mãng Ông tuyệt vong mà than rằng: " Con ơi/ Dù oan con nhẫn chẳng oan/ xa xôi cha biết nỗi con thế nào?" Khi không được con người thấu hiểu, nàng cầu mong" Nhật nguyệt rang soi" cho nỗi oan, xin lậy cha lậy mẹ và " Quyết tâm trá hình nam tử đi tu hành".
Hành động này của Thị Kính cho thấy sự đau khổ và bế tắc tột cùng. Sự bế tắc ấy không phải của riêng Thị Kính mà là của một lớp người, một giai cấp nhỏ bé trong xã hội xưa. Tiếng nói của họ là sự phê phán mạnh mẽ xã hội thối nát, đồng thời thể hiện những ước mơ cuộc sống tốt đẹp hơn, như là sự nương nhờ cửa Phật.
Qua nhân vật ta thấy được số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ với nhiều những bất công ngang trái. Đồng thời thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm với lòng thương cảm cho những số phận bất hạnh.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 8
Việt Nam ta có nhiều loại hình nghệ thuật rất nổi tiếng và đến giờ vẫn giữ được truyền thống ấy như tuồng, kịch nói, múa rối nước,..Một trong những loại hình nghệ thuật đặc sắc nhất là chèo. Chèo là loại kịch hát, múa dân gian,kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu. chèo rất được nhiều người dân yêu thích và đón xem.
Vở chèo “Quan âm thị kính” là một tiêu biểu, nổi bật trong nghệ thuật chèo. Trong chương trình Ngữ Văn 7, ta cũng bắt gặp đề bài cảm nhận về nhân vật Thị Kính. Là 1 nhân vật đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, oan khuất và cuối cùng là nương nhờ của Phật. Là người phụ nữ biết chịu đựng, thương chồng chăm lo cho gia đình nhưng lại phải gặp nhiều trắc trở. Đồng thời, cũng là nhân vật đại diện cho hình tượng mà nhân dân ta luôn muốn hướng đến là “ở hiền gặp lành”. Dưới đây là bài viết mẫu hay nhất mà các bạn có thể tham khảo. Chúc các bạn thành công.
Trong Quan Âm Thị Kính, đoạn Nỗi oan hại chồng giúp chúng ta hiểu những nét đặc sắc của cả tác phẩm, nhất là về mặt kịch bản văn học. Nỗi oan hại chồng là bi kịch đầu tiên của cuộc đời Thị Kính – nhân vật chính của vở chèo.
Thị Kính vốn sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo hị Kính được bố mẹ gả cho Sùng Thiện Sĩ – một thư sinh đẹp trai, chăm học. Một lần đọc sách mệt, Thiện Sĩ ngủ thiếp đi. Thị Kính ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lên định tỉa sợi râu. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, nhìn thấy vợ cầm dao kề vào cổ mình, liền tri hô là vợ định giết mình. Thế là Thị Kính mang tội tầy đình, bị chồng ruồng bỏ, xã hội lên án. Thị đã hành xử một cách tùy tiện đã gây ra bi kịch “ nỗi oan hại chồng”.
Trong đoạn trích 6 lần Thị Kính khóc lóc, van xin, 4 lầ khóc van lạy sùng bà “ Oan cho con lắm mẹ ơi…”, “ mẹ xét tình con, oan cho con lắm mẹ ơi..” nàng càng khóc thì mụ càng chửi mắng thậm tệ hơn. Với nàng nỗi oan chỉ có kêu trời mà thôi. Bị vu oan là giết chồng, tội ác không thể tha thứ, mẹ chồng nàng không cần biết nàng nói gì, mặc nàng cứ khóc, cứ van xin. Mụ nhất định đuổi Thị Kính về nhà mẹ đẻ. Đó là sự tủi nhục cực khổ vô cùng của Thị Kính, của người phụ nữ nghèo hèn trong xã hội cũ.
Sinh ra phải kiếp nhà nghèo tưởng rằng được nương tựa nhà giàu là bớt khổ, tưởng rằng lấy được chồng có học thì cuộc sống gia đình sẽ ấm êm, ai ngờ nhà giàu họ khinh bĩ phận nghèo, coi nàng như cỏ rác, còn chồng thì nhu nhược, vô tâm… Ngay cả cha đẻ của nàng cũng bị Sùng ông khinh miệt coi thường, mặc dù giữa họ là chỗ thông gia. Cha con ôm nhau cùng khóc, có nỗi đau nào hơn nỗi đau này. Thị Kính lại kêu với Thiện Sĩ nhưng anh chồng đần nào có động lòng. Nỗi oan của Thị Kính được người cha cảm thông, san sẻ. Nghe con gái khóc thì Mãng Ông đã cất lời than:
“ Con ơi!
Dù oan dù nhẫn chẳng oan,
Xa xôi cha biết nỗi con thế nào?”
An ủi con gái, Mãng Ông khuyên con đi về nhà “ Về cùng cha con ơi..”
Cuối trích đoạn, “ Nỗi oan hại chồng”, Thị Kính cất lời than. Đau khổ về tiếng mỉa mai sao tránh khỏi.Trách duyên số, trách hai cha mẹ con Thiện Sĩ: “ Đang tay nở bẻ phím đồng làm đôi”. Nàng cầu mong “ nhật nguyệt rạng soi” cho nỗi oan, xin lạy cha, ạy mẹ và “ quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành”. Cách ứng xử cho thấy Thị Kính đau khổ và bế tắc tột cùng. Cảnh chân trời chớm rạng đông khi Thị Kính lặng lẽ bước ra khỏi nhà họ Sùng à một cảnh tượng nói lên một quan niệm, một niềm tin thánh thiện của nhân dân ta ngày xưa: con đường tu hành đi tới cửa Phật là con đường sáng.
Họ quan niệm chỉ có đến cửa Phật mới mong rũ bỏ bụi trần, khiến cho con người ta thiện hơn, nhân ái với nhau hơn. Sự bế tắc không chỉ của Thị Kính mà là của cả một lớp người, giai tầng xã hội. Cả cuộc đời họ chuỗi ngày oan trái không lối thoát. Tiếng nói của họ là sự lên án mạnh mẽ xã hội thối nát đồng thời mơ ước một xã hội tốt đẹp hơn như cõi tu chẳng hạn. Đây chính là sự bế tắc, có thể nói rằng là sự buông xuôi phó mặc cho số phận của cả một xã hội chưa có cách mạng dẫn đường.
Qua nhân vật Thị Kính ta biết được số phận của người phụ nữ xưa trong xã hội ngang trái lúc bấy giờ. Thị Kính là hiện thân của nhân vật khổ cực trong xã hội lúc ấy. Qua đây cũng cho ta thấy được đoạn trích nói riêng và vở chèo nói chung giàu giá trị nhân đạo sâu sắc.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 9
Chèo "Quan Âm Thị Kính" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của chèo cổ Việt Nam. Bên cạnh nhân vật Thị Kính - đào thương, Thị Mầu trong vở chèo được xếp vào vai đào lệch bởi bản chất lẳng lơ, phóng khoáng. Tính cách ấy được bộc lộ rõ nét qua đoạn trích "Thị Mầu lên chùa". Lớp chèo đã thể hiện cảnh Thị Mầu đem lòng say mê và tìm cách ve vãn Kính Tâm khi đi lên chùa.
Về xuất thân, Thị Mầu là con gái của phú ông. Nàng tự nhận mình là người con hiếu thảo vì luôn kính trọng đấng sinh thành "thầy mẹ tôi tôn kính một lòng". Sắp sửa đến ngày rằm, Mầu chuẩn bị "tiền cùng gạo lên chùa tiến cúng". Thay vì lên chùa vào ngày mười lăm như bao người, nàng lại lên chùa sớm hẳn hai ngày:
Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng.
Trong lời nói của Thị Mầu, người đọc có thể thấy được những nghịch lí, mâu thuẫn. Nàng "muốn cho một tháng đôi rằm/ Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già". Rõ ràng, mục đích của Mầu vào chùa trước là bài lễ sau mới là thăm vãi già. Thế nhưng, nàng lại chỉ tập trung vào việc gặp sư thầy. Con số "mười ba" được lặp đi lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh vào ngày Mầu lên chùa cúng tiến. Những con số "mười ba", "mười bốn", "mười lăm" tương ứng với hành động mỗi ngày lên chùa để nhìn ngắm, gặp gỡ một người của Thị Mầu. Cho nên, nàng mới mong "một tháng đôi rằm" để có nhiều dịp "thăm" sư. Như vậy, qua lời mời gọi, thừa nhận của Thị Mầu, ta phần nào thấy được sự lẳng lơ của nhân vật.
Được tác giả dân gian xây dựng với tính cách nổi loạn, phóng khoáng, Thị Mầu đã cho người đọc thấy sự táo bạo của mình qua việc ghẹo chú tiểu trong chùa. Mọi lời nói, hành động của Thị Mầu đều tập trung để ve vãn Kính Tâm. Ngay khi nhìn thấy chú tiểu, Thị Mầu liền đem lòng si mê. Khi được Kính Tâm hỏi tên tuổi, Mầu liền trả lời:
"Tên em ấy à?
Là Thị Mầu con gái phú ông
Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đấy nhá!"
Mầu liên tục nhấn mạnh mình là người con gái đôi mươi chưa chồng. Mục đích là để thể hiện mong muốn giao duyên, kết đôi. Không những thế, nàng ta còn dành nhiều lời khen cho chú tiểu: "Người đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ?", "Người đâu đến ở chùa này/ Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang". Trước lời cảm thán "Ai lại đi khen chú tiểu thế cô Mầu ơi!", Mầu không ngần ngại đáp lại "Đẹp thì người ta khen chứ sao!".
Biết nhà mất bò, nàng cũng mặc kệ "nhà tao còn ối trâu". Dường như, Mầu không quan tâm đến việc gì khác mà chỉ chú ý ve vãn sư thầy. Càng ngày, mức độ tán tỉnh của Mầu càng tăng lên:
"Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua"
Đây là một phép so sánh độc đáo khi đã bộc lộ được niềm khát khao yêu đương cháy bỏng của Mầu. Sau mùa xuân, táo ở sân đình chín rụng. Vì không được chăm sóc, lại già cỗi nên táo thường có vị chua và chát. Còn gái rở chính là người đàn bà có mang, thích ăn của chua và những thứ lạ. Bởi vậy, người ta mới có câu "gái rở thèm của chua". Mầu ví mình như gái rở còn thầy tiểu như táo rụng ngoài đình nhấn mạnh khao khát trái với luân thường đạo lí.
Tác giả dân gian đã thêm vào những tiếng đến như là lời phê phán Thị Mầu: "Mầu ơi nhà mày có mấy chị em? Có ai như mày không?". Tuy nhiên trước những lời nói ấy, Thị Mầu vẫn một mực khăng khăng khẳng định "Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!".
Dù đã dùng bao lời ngon ngọt nhưng Thị Mầu vẫn không khiến cho chú tiểu đáp lại. Nàng quyết định dùng đến những lời hát ghẹo:
"Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
[...] Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!"
Đoạn hát ghẹo tiểu của Thị Mầu đã cho thấy quan niệm về tình yêu tự do, thoải mái, vượt lên trên những rào cản, định kiến của xã hội. Câu "Ấy mấy thầy tiểu ơi!" được lặp đi lặp lại nhiều lần vừa nhấn mạnh vào đối tượng tiếp nhận mà Thị Mầu hướng đến vừa là câu mở đầu cho những lời giãi bày, mong muốn của nàng. Thị Mầu quan niệm về hạnh phúc khá đơn giản. Với nàng, ý kiến của họ hàng không quan trọng bằng cảm nhận bản thân. Nàng không hề bận tâm điều gì, có duyên là đến. Trong đoạn hát ghẹo, Thị Mầu bày tỏ mong muốn được kết duyên với Kính Tâm bằng cách sử dụng một số từ ngữ "đôi ta", "quyết đợi chờ lấy nhau", "có thiếp có chàng". Thị Mầu sẽ không thể xinh đẹp nếu như không có người sánh đôi "Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!". Đó là ước vọng cháy bỏng, mãnh liệt của người phụ nữ phóng khoáng, tự do.
Càng về sau, Mầu càng đi quá giới hạn, trở nên sỗ sàng, bỗ bã: "Bỏ mô Phật đi!". Ở chốn chùa trang nghiêm, nàng không giữ gìn khuôn phép, có những lời nói "báng bổ" đến nhà Phật. Lúc này, Mầu hoàn toàn không để ý đến việc cúng tiến mà chỉ chăm chăm tán tỉnh sư thầy:
"Mong cho chú tiểu quét sân
Xích lại cho gần, cầm chổi quét thay
Lá tình không gió mà bay!"
Hay:
"Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài rau dệu tám thành bờ tre"
Vì chú tiểu không thấu hiểu được nỗi lòng nên Thị Mầu mới đem lòng nhớ thương "Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!".
Không chỉ có lời nói mà hành động cũng góp phần thể hiện tính cách, đặc điểm của nhân vật. Thị Mầu vừa hát vừa nói để bày tỏ tình cảm với Kinh Tâm. Đặc biệt, Thị Mầu còn có cử chỉ vô cùng táo bạo đó là xông ra nắm tay, nhận quét chùa thay Tiểu Kính. Hành động của Thị Mầu trong thời đại phong kiến là không thể chấp nhận bởi "nam nữ thụ thụ bất thân". Vả lại, Kính Tâm còn là người theo đạo nên điều này càng vượt ra khỏi chuẩn mực, khuôn phép.
Như vậy, tính cách, đặc điểm của nhân vật được khắc họa thông qua lời nói và hành động. Có thể nói, nhân vật Thị Mầu là người phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại quan điểm đạo đức phong kiến. Thông qua nhân vật, tác giả dân gian muốn lên án, phê phán những người phụ nữ không biết giữ gìn tiết hạnh, chuẩn mực.
Trong đoạn trích "Thị Mầu lên chùa", Thị Mầu là hiện thân của những người phụ nữ phóng túng, đi ngược lại quan niệm và các chuẩn mực chung ở xã hội phong kiến. Bên cạnh nhân vật Thị Kính, Thị Mầu cũng là yếu tố góp phần làm nên thành công của đoạn trích cũng như vở chèo.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 10
Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ.
Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng” , “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Cô ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Thị Mầu là con người của nghệ thuật.
Nhân vật Thị Mầu đáng thương hơn đáng trách, có khi còn quá xót xa, thông cảm cho nhân vật này. Thị Mầu dám sống, dám yêu và dám làm những việc chống lại xiềng xích của chế độ cũ, không cho phụ nữ được thể hiện mình, chôn vùi cuộc đời họ bằng nhiều hình thức. Thị Mầu là con gái phú ông, là người có nhiều tính xấu những số phận cugx giống như Thị Kính và những người phụ nữ khác, số phận đều bế tắc, không có lối thoát.
Qua đoạn trích, người đọc có thể thấy một Thị Mầu cá tính đến nhường nào. Là người phụ nữ, cô sẵn sàng vượt quy chuẩn xã hội phong kiến đặt ra. Cô khao khát hạnh phúc, đi tìm tình yêu cho bản thân. Người phụ nữ theo quan điểm xưa, không có tiếng nói thì với sự xuất hiện của Thị Mầu, là một phiên bản mới lạ. Cô không quan tâm đến tiếng xì xào của người đời, miễn là hạnh phúc của mình, cô muốn được theo đến cùng. Tuy nhiên, ngặt nỗi, người cô thương lại là người xuất gia, và đấy thực ra là Thị Kính giả trai.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 11
Có bao giờ chúng ta tự hỏi, điều gì đã làm nên một cuộc sống đầy màu sắc như ngày hôm nay? Có phải là những giai điệu du dương êm tai giúp ta thư giãn sau ngày dài mệt mỏi. Hay những con chữ nối dài trên cuốn sách mà ta hay đọc…. đã bồi dưỡng nên đời sống tinh thần phong phú của con người. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, được sinh ra là để con người giãi bày tâm tư, nhìn nhận về cuộc đời, từ đó rút ra những bài học chiêm nghiệm cho bản thân. Là một hình thức nghệ thuật độc đáo và lâu đời, Chèo không mấy xa lạ với chúng ta. Chèo bắt buồn từ kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian, lấy âm nhạc làm nền, ngôn từ ví von cùng cách diễn tả trực tiếp, đa dạng mà Chèo được coi là loại hình sân khấu của hội hè đặc sắc. Có một vở chèo kinh điển mà cho đến ngày nay chiều sâu tư tưởng và câu hỏi mà vở chèo đặt ra là vấn đề mà mọi thời đại đều hướng đến. Đó là vở chèo Quan âm thị kính. Đoạn trích Thị mầu lên chùa sẽ cho ta hiểu hơn về xã hội, về con người lúc bấy giờ.
Lễ chùa cúng vái có lẽ là một nét đẹp trong phong tục của người Việt, là truyền thống mà mọi nhà đều gìn giữ. Và thị mầu cũng lễ chùa để khấn vái. Được biết đến là một cô gái lẳng lơ, hình ảnh Thị Mầu lên gợi cho ta ấn tượng về một cô gái xinh đẹp, lả lướt có phần lẳng lơ, thiếu sự thành tâm, nghiêm túc nơi cửa chùa. Thị Mầu lên chùa khác với lệ thường là: Người ta lên chùa vào mười tư, rằm; còn Thị Mầu lên chùa mười ba.
Bởi vì ngay từ đầu Thị Mầu đã được xây dụng là người con gái lẳng lơ, không phải là người con gái theo quan niệm “tam tòng tứ đức” của thời xưa vậy nên, qua lời đề thì những cái dở, cái xấu của Mầu được bộc lộ rõ ràng hơn. Cái dở đó chỉ duy nhất là sự mù quáng, mà đã yêu đương say đắm và dữ dội đến như thế, thì có mù quáng cũng là dễ hiểu, do đó dễ thông cảm, và hơn nữa, dễ thương mà thôi. Cái mù quáng của Thị Mầu là ở chỗ cô không nhận biết – đối tượng của mình… Thầy Tiểu mà cô mê thực ra là Thị Kính giả trai. Sự mù quáng của Thị Mầu cùng với cơn yêu đương. Hành động của Thị Mầu như là xông ra nắm tay chú tiểu, với những lời nói của người lẳng lơ, thấy chú tiểu đẹp thì mê, mà mê thì ghẹo, mà ghẹo thì ghẹo tới nơi tới chốn. Những ngôn ngữ, hành động của Thị Mầu khi bày tỏ tình cảm với chú tiểu: khi gặp Mầu đã khen “đẹp như sao băng”, đôi mắt sắc như dao bổ cau liếc đi, liếc lại, đôi môi đỏ mọng lúc nào cũng cười nở như hoa và nhất là lời bóng gió, ẩn ý đầy chất dân gian để “đánh” đi những lượng tin cần thiết mà da diết về phía chú tiểu, táo bạo hơn nữa, lời nói chưa đủ làm Tiểu Kính rung động, Thị Mầu tiến tới hành động: đợi cơ hội Tiểu Kính ra và nắm tay Tiểu Kính, đòi quét chùa thay Tiểu Kính, lại còn mời mọc. Ta thấy sự táo bạo, mãnh liệt, quyết tâm; không e thẹn, do dự, ngại ngùng.
Trong lời giới thiệu với chú tiểu, Thị Mầu đặc biệt nhấn mạnh thông tin “chưa chồng”
“Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi!
Chưa chồng đây nhá!”
Đi lễ chùa nhưng có lẽ Thị Mầu đã tìm thấy thứ thu hút mình ngay từ cái nhìn đầu tiên, không quan tâm đến việc vào lễ Phật.
Thị mầu ghẹo tiểu được diễn tả bằng chính hai điệu hát “Cấm giá” và “Bình thảo”. “Cấm giá” vì Thị Mầu mới ve vãn nên câu thơ còn e ấp tế nhị:
“Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm”
“Bình thảo” khi mà sự ve vãn bên ngoài không có kết quả, khi mà Thị Mầu đã bốc lửa, Thị Mầu muốn đốt cháy với chú tiểu thì lời ca trong điệu hát không còn ngọt ngào:
“Người đâu ở chùa này
Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang
Ấy mấy thầy tiểu ơi”
“Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua
Phải nói rằng phép so sánh ở đoạn này thật độc đáo đến lạ, Lối nói ví von so sánh thể hiện khát khao yêu đương của Thị Mầu. “Thầy như táo rụng sân đình / Em như gái rở, đi rình của chua”. Cây táo mọc ở sân đình thường cao, sau mùa xuân chín rụng. Vì ít được chăm sóc lại già cỗi nên táo vừa chua, vừa chát. Còn người phụ nữ nghén, người đời gọi là gái rở, thường thèm của chua, thèm đến xót lòng. Người đàn bà ăn dở mà gặp quả táo, hơn nữa lại là rụng mà rụng ở sân đình thì nỗi khát khao thèm muốn càng tăng thêm gấp bội. Nhặt quả táo lên chắc người con gái ăn dở ấy phải nhai nuốt ngấu nghiến. Việc Thị Mầu ví mình như gái rở, ví tiểu Kính như táo rụng sân đình thì hình ảnh vừa thật vừa rõ nét mà vừa dễ hiểu cho người xem. Những câu hát trong phần này tập trung thể hiện nỗi lòng, khát khao hạnh phúc của Thị Mầu nhưng lại bị chú tiểu ngó lơ.
Những lời đế ấy không chỉ giúp Mầu thể hiện rõ bản thân của mình mà còn khiến giá trị của những yếu tố trong vở chèo dân gian là cách dùng gậy ông lại đập lưng ông mà văn học dân gian rất thiện nghệ để phê phán, hơn nữa, bóc trần cái đạo đức giả của đạo đức phong kiến. Đối diện với những lời mời mọc đầy mật ngọt của Thị Mầu thì Thị kính giữ khoảng cách, tìm cách từ chối, lẩn tránh, lúc nào cũng tụng kinh “Niệm Nam mô A Di Đà Phật!”. Bên cạnh nét giai điệu phóng túng, du dương là nét nhạc trầm lắng cùng với tiếng gõ mõ tụng kinh đều đều. Hai thái cực âm nhạc đối nhau, hai tâm trạng khác nhau, hai nỗi niềm khác nhau tạo nên một màn trò độc đáo.
Hai người con gái, hai hoàn cảnh, hai tính cách, hai số phận, hai cách lựa chọn… nhưng đều chịu sự trói buộc của lễ giáo phong kiến… Là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng ra Thị Kính phải có một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc và vui vẻ, thế nhưng người phụ nữ ấy lại có một số phận đầy đau khổ và bất hạnh. Vì muốn cắt cái râu mọc người cho chồng, Thiện Sĩ tỉnh giấc khi chưa hiểu rõ ngọn ngành đã hét lớn, cho rằng Thị Kính muốn giết mình. Trước sự việc ấy, Sùng bà – mẹ của Thiện Sĩ đã dùng những lời lẽ cay độc, tàn nhẫn để mắng chửi, sỉ nhục và thậm chí còn đẩy ngã Thị Kính. Tuy nhiên, trước những lời nói và hành động của mẹ chồng, Thị Kính vẫn rất hòa nhã, nàng phân bua, hết lần này đến lần khác kêu oan nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa. Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà với nỗi oan khuất không thể lí giải còn cha của nàng thì bị đẩy ngã. Chắc hẳn sẽ chẳng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thị Kính lúc này – hôn nhân, gia đình tan vỡ, mất lòng tin ở chính những người thân trong gia đình và hơn thế nữa đó chính là việc nàng đã phải chứng kiến cảnh cha mình bị làm nhục. Tận cùng của nỗi đau và sự bất lực và có lẽ cũng không còn sự lựa chọn nào khác, Thị Kính quyết định ra đi. Trước khi từ giã tổ ấm của mình, nàng vẫn không quên ngoái đầu nhìn lại thúng khâu, chiếc kỉ, thúng sách… – những kỉ vật của một thời hạnh phúc, ấm êm nhưng nó lại cũng chính là nhân chứng cho nỗi oan ức của nàng. Ngoái nhìn lại tất cả với một nỗi đau đớn, xót xa và cả sự luyến tiếc. Rời khỏi nhà, nàng quyết định nương nhờ nơi cửa chùa. Sự lựa chọn ấy của Thị Kính như một lẽ tất yếu, bởi lẽ nàng đã bị đuổi khỏi nhà chồng, càng không thể trở về nhà cha mẹ đẻ bởi đó là điều lễ giáo phong kiến không cho phép. Nàng giả trai đi tu, nương nhờ cửa Phật với mong mỏi sẽ có được cuộc sống yên bình và nơi thanh tịnh ấy sẽ chứng minh cho sự trong sạch của nàng. Nhưng đồng thời, sự lựa chọn ấy của nàng cũng cho thấy sự sự bế tắc của nàng nói riêng, của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung bởi đấy là sự lựa chọn thụ động trước sự nghiệt ngã, xô đẩy của hoàn cảnh.
Tiếng gọi “thầy tiểu ơi” lặp đi lặp lại nhiều lần đã bộc lộ nỗi lòng say mê, yêu thương tha thiết của Thị Mầu. Mầu khao khát được yêu, được đáp lại tình yêu chân thành, Mầu dám phơi bày ruột gan tình cảm của mình ra trước mặt mọi người, dám thổ lộ, dám tấn công. Em ấn tượng nhất vời tỏ tình của Thị Mầu là:
“Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng
Ấy mấy thầy tiểu ơi!…
Mẫu đơn giồng cạnh nhà thờ
Đôi ta chỉ quyết đợi chờ lấy nhau”
Bởi lời tỏ tình ấy da diết làm sao, nó chứa chan mong ước về tự do yêu đương, tự do lựa chọn hôn nhân. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu – giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu. Một thì Mầu khác biệt với Thị Kính . Thị kính nhẫn nhịn, thị Kính chịu đựng bao nhiêu thì thị Mầu lại bùng nổ bấy nhiều. Thị Mầu dám cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Trong dòng nghĩ suy qua lời hát ghẹo của Thị Mầu đã ẩn chứa khát khao chung tình – khao khát chính đáng trong tình yêu. Nếu trong ca dao Việt Nam:
“Trúc xinh trúc mọc đầu đinh
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.”
So sánh hình dáng cây trúc với người phụ nữ Việt Nam trẻ trung, mong manh và xinh đẹp cho dù đứng ở đâu, dù ở góc độ nào vẫn xinh. Trong vở chèo Thị Mầu lên chùa
“Trúc xinh trúc mọc sân đình
Em xinh em đứng một mình chẳng xinh.”
Ở trong câu ca dao người phụ nữ đứng một mình, dù đứng ở đâu, góc độ nào vẫn xinh; còn trong vở chèo Thị Mầu thì nó được biến tấu đi, nhằm ghẹo chú tiểu, ẩn ý người phụ nữ xinh đẹp cần phải có đôi có cặp mới xinh, còn đứng một mình sẽ không xinh.
Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bèn tư thông với một người đầy tớ trong nhà, không ngờ thị mang thai và bị làng phạt vạ. Thị Mầu bèn vu vạ cho Kính Tâm ăn nằm với thị. Vì thế Kính Tâm bị làng đòi đến tra khảo, không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này.
Thị Mầu sanh con trai, đem đứa bé bỏ trước cổng chùa. Động lòng từ bi, Kính Tâm ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng. Ngày ngày, Kính Tâm phải bế đứa bé đi xin sữa khắp đầu làng cuối xóm trong sự cười chê của thế gian. Ba năm sau, Kính Tâm yếu hẳn đi, trước khi mất, viết một lá thư dặn đứa bé giao lại cho cha mẹ mình. Đứa bé vội lên chùa trên báo cho sư cụ. Lúc đó, mới hay Kính Tâm là đàn bà. Khi lá thư của nàng về đến quê thì mọi người biết nàng không phải là gái giết chồng. Nỗi oan tình của Thị Kính từ đó được tỏ, nhưng vẫn còn đọng lại một điều gì đó quá nặng nề với người đời. Cần phải nhận thấy rằng, việc Kính Tâm nhận cái thai của Thị Mầu cũng có nhiều nguyên nhân ẩn sâu bên trong. Là một người phụ nữ, Kính Tâm nhận thấy được cuộc sống và tình cảm của Thị Mầu có những uẩn khúc riêng. Việc “không chồng mà chửa” của Thị Mầu (người phụ nữ) đối với đạo đức nghiệt ngã của xã hội thời bấy giờ là một tội trạng quá cỡ. Hình phạt có thể là gọt tóc bôi vôi rồi thả bè trôi sông. Vì vậy chúng ta có thể hiểu thêm, việc Thị Mầu đổ tội cho Kính Tâm không đơn thuần chỉ là hành động vu oan giá họa cho kẻ tu hành mà đó thực sự là kêu cứu lòng từ bi cứu khổ cứu nạn của phật. Và đây là điều cao cả chỉ có ở Kính Tâm – một người xuất gia, lại là nữ giới, sự kết tinh của từ bi, trí tuệ và tư chất hai ấy chính là lí do để Kính Tâm chịu oan để Thị Mầu bớt khổ.
Như thể “nhẫn vô sanh nhẫn” ở đây hoàn toàn đâu phải là thái độ phản kháng tiêu cực và thụ động. Nhẫn ở đây là nhẫn nhục hiền hòa, là nhẫn điều khó nhẫn, là hy sinh chính mình, chịu oan chịu khổ thay người khi cuộc đời đang còn tràn đầy bất công nghiệt ngã.
Đối lập hoàn toàn với Thị Kính là Thị Mầu, Thị Mầu lẳng lơ, sàm sỡ, táo bạo. Thị Mầu đáng giận, đáng trách. Vì Thị Mầu mà Thị Kính bị oan, phải nuôi con trong chốn thiền môn. Từ chuyện tích này, dân gian có thành ngữ “oan Thị Kính” để so sánh với những nỗi oan khuất cùng cực mà không sao giãi bày được. Từ thành ngữ nói trên, đã hình thành một thành ngữ phái sinh là “oan Thị Mầu” để nói đến việc đã rõ ràng mười mươi là do mình gây ra nhưng vẫn cứ kêu oan, như Thị Màu bị dân làng bắt vạ vì không chồng mà chửa mà vẫn cho rằng mình… oan! Thực ra, Thị Mầu đáng thương hơn đáng trách, đáng giận, có khi còn quá xót xa, thông cảm cho nhân vật này. Bởi vì người phụ nữ có quyền yêu nhưng không được yêu, có quyền được làm mẹ nhưng lạ không thể làm mẹ. Thị Mầu yêu say đắm Kính Tâm nhưng không được đáp trả, nàng vốn có tính lẵng lơ nên đã tư thông với tên người hầu để phải chửa. Nàng chửa, rồi đổ vạ cho Kính Tâm khiến cho Kính Tâm phải chịu oan. Nhưng rồi tới khi sinh con cũng không được cha cho nuôi, bắt đem đứa con ấy đến chùa. Xót xa thay! Tình máu mủ đâu có thể nói bỏ là bỏ được. Chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau rồi phải mang đứa con mình ra trước cổng chùa, để phó mặc nó sống sao thì sống, ai mà không xót xa, thương cảm cho được. Như vậy, chẳng phải Thị Màu đã trở thành một kẻ đáng thương rồi sao?
Chiếu chèo sân đình tái hiện lại một Thị Mầu thực dám sống, dám yêu và dám làm những điều chống lại xiềng xích của chế độ cũ – chế độ không cho người phụ nữ được thể hiện mình, chôn vùi cuộc đời họ bằng nhiều hình thức. Xét cho cũng, dù Thị Mầu là con nhà Phú ông, là người có nhiều tính xấu nhưng số phận cũng giống như Thị Kính và những người phụ nữ khác, số phận đều bế tắc, không có lối thoát!
Nhắc đến hình tượng nhân vật Thị Mầu, chúng ta cảm thấy động lòng khi đọc lại bài thơ “Thị Mầu” của nhà thơ Anh Ngọc:
“…Những xiềng xích phết màu sơn đạo đức
Mấy trăm năm không khóa nổi Thị Mầu,
Những cánh màn đã khép lại đàng sau
Táo vẫn rụng sân đình không ai nhặt,
Bao Thị Mầu trở về với đời thực
Vị táo còn chua mãi ở đầu môi.”
Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ.
Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Cô ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Thị Mầu là con người của nghệ thuật.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 12
Hồ Xuân Hương người con gái đã hạ mình xuống lắng nghe tiếng lòng của thời đại trái gió trở trời, để rồi động lòng xót thương biết bao cho thân phận người nữ nhi đẹp đẽ như bồ công anh, mà cũng tan biến nhanh dù phu bạc mệnh, để rồi từ ấy bà đã viết: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn/ Bảy nổi ba chìm với nước non”. Trong thời đại ngự trị của xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, nơi nhân quyền được xem là rẻ rách, không bằng một đồng xu, thì thân phận nữ quyền cũng không đáng bằng cắc bạc. Dù “tài hoa bạc mệnh “như vậy, nhưng người phụ nữ xưa vẫn làm tròn bổn phận “công dung ngôn hạnh” của mình, chính vì thế người ta luôn nhớ tới hình ảnh người phụ nữ ấy qua nét đẹp thướt tha dịu dàng, và có thể ví thành “Bàn bàn nhập họa", “Băng thanh ngọc khiết" tức là vừa đẹp như tranh vẽ vừa thuần khiết trong sáng như băng. Nhưng không thể đánh đồng tất cả bởi vì làm quan còn có người tốt kẻ tham, làm vật còn có giống cái giống đực, thì làm người mấy ai được như bụt trong truyện, như cô tiên trên trời, và người phụ nữ cũng vậy, ngoài cái vẻ đẹp ở thể xác và tâm hồn như nhân vật nàng Thị Kính thì người ta còn nhắc về những cô gái đi trái lại với quan điểm về cái đẹp đó là lẳng lơ, buông thả mình, thể hiện qua nhân vật Thị Mầu. Tất cả những tiêu biểu nhất đã được khắc họa qua đoạn trích Thị Mầu lên chùa trích
“Quan âm Thị Kính”
“này chị em ơi
….
Chính chuyên cũng chẳng son để thờ”
Đoạn trích “Thị Mầu lên chùa" trích trong “Quan Âm Thị Kính" được lưu truyền theo nhiều hình thức khác nhau đa dạng và phong phú về thể loại dựa trên một nội dung như hát chèo, cải lương, kịch, thơ và văn xuôi. Đến ngày nay các nhà khảo cổ nghiên cứu văn học vẫn chưa tìm được thi sĩ nào đã sáng tác nên tác phẩm ấy, chỉ biết bảng in đầu tiên bằng chữ quốc ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh ấn hành vào năm 1911. Sau này có nhiều dị bản khác được tìm thấy, hay người ta còn phát triển nó trở thành một vỡ diễn chèo để biểu diễn trên sân khấu và phân bố rộng rãi khắp mọi nơi. Nói về 4 chữ nhan đề Quan âm thì theo nghĩa cứu đời tức là một vị bồ tác coi nghe tiếng đời kêu tên mình mà cứu cho, là một người tâm sáng phúc hậu, nhìn thấy được nổi thống khổ của nhân loại không kiềm được mà ra tay giúp đỡ, phù hộ, đây cũng là vị bồ tát trong phật pháp, được người đời ca tụng, thờ phượng và biết ơn. Kề bên hai chữ Quan Âm chính là Thị Kính trong đó từ Thị tức để phân biệt khác với lối đặt tên của người đàn ông. Trong một số quan niệm xa xưa người ta còn cho rằng chữ Thị trong tên tức là để chỉ nữ nhi yếu mền, không làm ra trò trống gì. Đồng thời họ coi chữ Thị như một cách khinh mạc, miệt thị, phân biệt để giơ cao cái quan niệm Trọng quyền nam khinh thế nữ cổ hữu, ngốc nghếch của mình. Và song đó kính có nghĩa là giữ gìn nghiêm cẩn, không phóng túng buông lung, luôn phải giữ gìn cái tâm trong sạch, phúc khí ở đời. Làm tròn được chữ Kính chính là tiến được nữa đường vào đạo vậy. Khi bà Thị Kính đến Chùa Vân mà sư phụ đặt cho là Kính Tâm, cũng một ý ấy vậy.
Qua Quan âm Thị kính đức khí phúc hậu, cốt đức nhẫn nhịn đáng nể phục của nàng Thị Kính được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích Thị Mầu lên chùa.Trước cuộc gặp gỡ đầy bi oai nành đã mang cái oan nghiệt ngã được gọi là Oan Thị Kính đúng thật là: "phận người con gái chỉ đẹp nhất lúc chưa chồng…"
Nàng Thị kính một người con gái vừa tài sắc vừa nết na, nàng được gả cho một thư sinh tên Thiện Sỹ con nhà họ Sùng. Hai vợ chồng ăn ở với nhau rất hòa thuận. Một hôm chồng ngồi đọc sách vợ ngồi khâu bên cạnh, lúc sau vì mệt chàng tựa vào bên ngủ thiếp đi. Nàng nhìn thấy trên cầm chồng có một sợi râu mọc ngược, sẵn dao trên tay nàng toan cắt sợi râu đi. Bổng chàng giật mình tỉnh dậy, tưởng vợ có ý định hại mình nên bèn hô tri lên, ba mẹ chồng đến một mực đổ lỗi cho nàng có tình ý giết chồng, rồi kêu Mãng Ông đến trả lại con gái. Sau khi bị oan không tài nào có thể xóa bỏ hiềm ác trông mắt người khác còn mang tiếng Tình Lý gian ngay nổi thống khổ không biết kể cùng ai, nàng bèn quyết tâm đi tu, trước là báo đáp ơn nghĩa sâu nặng của cha mẹ, sau là giải tỏa phần nào nổi oan khiêm. Đang trong đêm, nàng cắt tóc giả thành nam nhân và trốn khỏi nhà. Một lần nữa, nàng lại mắc vào cái oan bị cho là đã bỏ nhà theo trai. Nhưng nàng vào chùa là để tìm khoảng bình yên trong lòng, nàng muốn tránh những nhiễm khích, mưu toan, chật vật, khốn khó của đời với phận nữ nhi. Vậy mà cớ sự nào có bao giờ được như ý.
Vào Chùa cũng là nơi nàng gặp người con gái Thị Mầu với những tính cách đi ngược lại với quan niệm về người phụ nữ xưa nay đó là làm con gái phải đi nhẹ nói khẽ, lễ phép, lịch sự, nhu mì là ấn tượng đầu tiên người ta đánh giá về mình. Hơn nữa chính là biết cầm kỳ thi họa và phải tề gia nội trợ. Bởi vậy, ngay cái nhìn đầu tiên qua lời nói, cách ăn mặc, phép hành xử ta cũng có thể thấy được sự đối lập giữa hai nhân vật Thị Mầu và Thị Kính.
“ này chị em ơi
…
Bạch nhà sư trong ấy, cho chú tiểu ra nhận lễ, cho tôi còn về nào”
Giữa một không gian yên tĩnh, linh thiêng, thanh tịnh của nhà chùa, bỗng bị phá tan bởi sự náo loạn trong ngồn ngộp sắc màu vẽ đẹp phàm tục của Thị Mầu, những tà áo dài cánh sen cùng yếm thắm, chiếc khăn xanh rực rỡ tung bay uốn lượn theo những vòng múa cuồng nhiệt, thể hiện cho sự khát khao tình yêu mãnh liệt, đam mê cháy bỏng, trong thời khắc căng tràn sức sống của Thị Mầu. Nhưng cũng kèm theo đó là những tiếng hò chẳng mấy giữ phép tắc khi ở nơi chùa Linh Thiêng, nơi được cho là yên tịnh, nhẹ nhàng như thế này không phù hợp với sự năng động, xốc xáo của nàng.
Trái ngược với Thị Mầu, Kính Tâm như người con đã quy y vào cửa phật, nàng lễ phép trong lời nói, trước môi hở ra lời đều A Di Đà Phật chính nàng sống như Phật ở trong mình thể hiện lên đây là con người có tâm đức hiền lành, tin vào phật pháp, tin vào nhân quả trong đời bởi vì thế nên không ham mê vật chất phàm trần, nàng ăn mặc giản dị với trang phục nâu sồng, dáng vẻ bình lặng vô vị, nàng nương cửa Phật nhất tâm thiền định rũ bỏ mọi ảo vọng của cuộc sống trầm luân.
Hai nhân vật mang hai hình tượng đối lập không chỉ được xếp cạnh nhau mà còn đan xen vào nhau, có chỗ đan xen vào nhau thật là tài tình thủ pháp, bộc lộ được tính cách giữa hiền đức nhu mì của Thị Kính và Sự lơ lẳng, buông thả trong con người Thị Mầu.
Cuộc gặp gỡ của hai người không chỉ là một cuộc đối thoại mà còn là sự nảy nở tình duyên từ một phía của Thị Mầu, cũng là nghiệp duyên oan ức của Thị Kính. Từ đây con người của Mầu càng được bộc lộ rõ nét. Khi Thị Mầu được Kính Tâm hỏi tên “Cô cho biết tên để tôi vào lòng sớ" thì Thị Mầu lại kể hơn cả cái tên “tên em ấy à", “Là Thị Mầu, con gái phú ông …Chưa chồng đấy nhá" ấy điều cũng đã nói lên được cô là người lẳng lơ thế nào, đến thấy thầy tu mà cũng muốn gạ gẩm, chẳng khác nào phạm vào giới nghiêm của Phật Pháp. Việc khoe khoang “chưa chồng" có phải Thị Mầu đang ngỏ ý muốn mở đường kết duyên với kính Tâm chăng. Đối lại Kính Tâm vẫn giữ được sự trang nghiêm, lòng luôn hướng về phật luôn lấy cái đúng và đức đi đầu, đáp lại theo lễ thường của một người quy y:
“A Di Đà Phật
Khấn nguyện thập phương
Kinh trình tam bảo
Lòng người có đạo
Đem của cúng đàn
Một nén cũng biên
Một đồng cũng kể
Tuy vân bạc lễ
Dân kiến thành tâm
Phật Tổ giáng lâm
Quỷ thần soi xét”
Kính Tâm vẫn luôn thể hiện cô là một người con gái không chỉ đẹp nết, đẹp lẫn người, mà còn thấu hiểu phật pháp, vừa thông minh vừa lễ độ, Kính Tâm luôn ghi nhớ công đức, lễ nghĩa của người khác, không bàn đến vật nhỏ hay lớn đều xuất phát từ tâm thì đó cũng chính là ân phúc Chùa nhận được, cô còn cầu nguyện cho họ nhờ phật tổ chứng giám cả lòng thành. Bởi lẽ vì tâm hồn thanh cao đức độ như vậy nên dù cô có giả làm nam nhân khuôn mặt vẫn toát nên sắc đẹp khiến Thị Mầu rung động. Đúng như câu ông cha ta thường nói “Tâm sinh tướng" bên trong ra sao bên ngoài sẽ thể hiện như vậy.
Thị Mầu vẫn không tiếc lời phóng khoáng bộc lộ suy nghĩ một cách tự do, không biết suy xét lẽ tình, trước vẻ đẹp thu hút của Kính Tâm, Thị Mầu nghĩ gì nói đấy “người đâu mà đẹp như sao băng ấy nhỉ”. Nghe thấy thế người bên cạnh bèn nhắc nhở cô “ai lại đi khen chú tiểu thế cô Mầu ơi”. Lạ kỳ thay trên đời này ai lại đi bảo người tu hành thế chứ, lời nhắc nhở ấy chính là bảo Thị Mầu phải tiết chế lại, phải biết giữ lễ nghi đối với ranh giới giữa người thường và người quy y. Shakespeare đã từng nói “cái đáng sợ nhất là căn bệnh không chịu lắng nghe, đó là một tệ nạn hết sức phổ biến “Phải chăng cái căn bệnh đó đã ăn sâu vào cốt cách của Thị Mầu để nàng có thể phớt lờ lời khuyên bảo dễ dàng như vậy, Mầu còn tự tin đáp lại không xấu hổ, thẹn thùng mà còn pha chút đanh đá “đẹp thì người ta khen chứ sao" song đó Thị Mầu còn trêu đùa trọc ghẹo Kính Tâm, thỏa sức bộc lộ, giải bày tình yêu say đắm của mình bằng những câu hát giao duyên, đôi lúc lại cởi mở đến sổ sàng:
“Người đâu đến ở chùa này
– Cổ cao ba ngấn lông mày nét ngang
(ấy mấy thầy tiểu ơi)
- Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái dỡ đi rình của chua
(Ấy mấy thầy Tiểu ơi)
– Cầu non tiện chũm lòng đào
Trầu tiêm cánh phượng thiếp trao cho chàng
(ấy mấy thầy tiểu ơi)
Những lời nói có cánh đó qua âm hưởng điệu hát chèo ví nhân gian đồng bắc bộ đã được chèo hóa thành lối nói lửng, đầy biểu cảm, nao nức và bùng lên trong điệu Cẩm giá và Bình Thảo, cũng một phần thể hiện tính lẳng lơ của Thị Mầu khi nàng hát “cau non tiện chũm long đào" hai tay người diễn như “đôi gò bồng đảo" một cách đầy gợi tình, khiêu khích. Tiếp đến “trầu tiêm cánh phượng thiếp trao cho chàng" hai tay người giơ lên cao và mở rộng ra như khoe cả thân thể đầy quyến rũ, táo bạo, như háo hức, mời trào và khát khao dâng hiến cho chàng. Từ đó ta có thể thấy quan niệm về tình yêu của Thị Mầu có thể nói như một trò đùa, không biết phân biệt sai trái khi dám ghẹo tiểu nơi phật pháp.
Giai điệu của Thị Mầu mang đến đầy sắc ong bướm, sôi động thì giai điệu Thị Kính mang lại lại “bình ổn, nhẹ nhàng" trong suốt cả câu hát nói "Niệm nam mô A Di Đà Phật, tôi niệm Nam mô A Di Đà Phật". Nàng nghiêm nghị trước Thị Mầu, không để những sắc dục phàm trần làm mờ mắt, một phần nữa bời lẽ nàng cũng là nữ nhi nên đôi phần không có hứng thú. Phần lớn hơn chính là nàng đã bước vào cửa phật, phải giữ lấy luật lệ làm đầu, ranh giới của thánh thiện và tội lỗi rất dễ mắt phải, nhất là qua xác thịt.
Trong lời thoại của hai nhân vật, ta thấy Thị Mầu là người nhiều lời thoại hơn Kính Tâm. Từ đó đã cho thấy, Kính Tâm là người ít nói, kiệm lời, nàng dường như không muốn tiếp xúc với thị Mầu. Còn Thị Mầu lại trái ngược lại, Thị nhiều chuyện, nói không có điểm dừng, vui vẻ khi đạt được mục đích của mình.
"Đưa chổi đây em quét, rồi em nói chuyện này cho mà nghe"
Thị xốc xáo lẳng lơ, chạy đến dựt chổi trên tay Kính Tâm mục đích chỉ là muốn chạm tay với người. Nhưng đối lại chỉ là sự vô tình của Kính Tâm:
“Mô Phật
Cô buông ra để tôi quét chùa kẻo sư phụ người lại quở chết"
Quan niệm về tình yêu đối với Thị Mầu rất đơn giản, chỉ cần thấy thích là có thể tiến tới. Nhất là nàng lại hám sắc, say mê cái đẹp thì hạnh phúc đơn giản chính là yêu cái đẹp, Nàng bỏ qua sự rào cản về lễ nghĩa, giáo lý, gia đình để có thể làm điều mình thích. Suy xét lại Thị Mầu cũng là người con gái mạnh mẽ, dám nghĩ dám làm, dám bộc lộ cái tôi nói lên quan điểm, nhận xét của mình. Tính cách của Thị như một làn gió mới cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.
Còn đối với Kính Tâm, người con gái bị gia đình chồng vu oan, một nổi oan nghiêm cả đời không thể rửa. Đối với nàng tình yêu nam nữ không còn quan trọng nữa, thay vào đó nàng đi yêu những nổi khổ đau của nhân loại hơn, nhất là những móc xích còng chặt thân phận người phụ nữ không có tiếng nói, không được giải bày tâm sự nổi thống khổ trong lòng, vì thế nàng đến với Phật.
Trong đoạn trích “Thị Mầu Lên Chùa" tiếng đế đã trực tiếp thể hiện quan điểm về Thị Mầu qua các câu:
“Ai lại đi khen chú tiểu thế cô Mầu ơi"
“Mầu ơi nhà mày có mấy chị em, có ai như mày không?"
“Dơ lắm! Mầu ơi!”
“sao lẳng lơ thế cô Mầu ơi"
Tiếng Đế đã phần nào chỉ trích, đánh giá Thị Mầu là người con gái lằng lơ, không biết phép tắc, không biết lễ nghĩa, gia giáo. Điều này không có gì bàn cãi, bởi nàng không phù hợp với vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa.
Qua đoạn trích Thị Mầu lên chùa trích Quan Âm Thị Kính ta có thể khẳng định đinh ninh một lần nữa, văn bản này thuộc thể loại chèo. Bởi văn bản xoay quanh cách giáo dục sống, ứng xử giữa người với người theo đạo lý dân gian. Đều có hai nhân vật đào thương và đào lệch. Xong đó cấu trúc văn bản gồm nhiều màn và cảnh, mỗi cảnh lại đóng một vai trò khác nhau. Cả Trong lời thoại có bao gồm lời thoại của ba nhân vật và tiếng đế cùng ba hình thức: đối thoại, đọc thoại, và bàng thoại. Đồng thời, lời thoại của các nhân vật trong văn bản đều bao gồm cả múa và hát.
Nhà văn Nga Aimatôp có nhận định: “Tác phẩm văn học chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện” qua tác phẩm trên, tác giả muốn khẳng định vẻ đẹp truyền thống, đứt tính tốt đẹp của người con gái xưa qua nhân vật Thị Kính, nàng vừa đẹp nết lại đẹp người, lại có tấm lòng nhẫn nhịn, bao dung, chính chắn vô cùng, tuy cũng giống bao người phụ nữ khác “hồng nhan nhưng bạc mệnh", nhưng họ chưa bao giờ đánh mất sự thuần khiết, thanh cao trong mình. Nguyễn Du cũng vì thương xót cho nàng Tiểu Thanh, một người con gái tài sắc vẹn toàn song lại có cuộc đời lận đận và qua đời tuổi 18. Chính vì vậy, mà ông đã viết nên bài thơ “Độc Tiểu Thanh Ký" bằng những thương xót, tiếc nuối, đồng cảm , thấu hiểu và căm hờn nhất khi ông đọc được từ mãnh giấy nhật ký cháy nát vụn đã một nữa. Ông đã từng viết “đau xót thay phận đàn bà, lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung". Dù người phụ nữ xưa chịu nhiều khổ cực, bất hạnh, thân xác họ bị đời xé giằng ra từng mảnh. Nhưng những phẩm chất mà họ tạo ra và gìn giữ sẽ mãi còn nguyên vẹn. Song văn bản cũng lên án, phản ánh những người phụ nữ mưu mô, xảo quyệt, lơ như Thị Mầu. Đáng lẽ ra cái cốt yếu “thân xác" phải gìn giữ của người con gái là quan trọng, mà nàng lại hành động như muốn dâng hiến nó cho người khác một cách miễn phí, nàng làm theo cái mình thích nhưng lại không biết phân biệt điều thích đó là đúng hay sai. Để lại hậu quả đau lòng cho mình và người khác.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 13
Bên cạnh những vở chèo nổi tiếng như "Trương Viên", "Chu Mãi Thần", "Kim Nham", "Lưu Bình - Dương Lễ", "Quan Âm Thị Kính" cũng là một trong số những tác phẩm kinh điển của nền chèo cổ Việt Nam. Nổi bật trong vở chèo là đoạn trích "Thị Mầu lên chùa". Trích đoạn đã cho thấy cách nhìn nhận của tác giả dân gian về những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Văn bản "Thị Mầu lên chùa" kể về việc Thị Mầu lên chùa cúng tiến, nhìn thấy Kính Tâm liền đem lòng si mê và dùng lời lẽ ngon ngọt để tán tỉnh chú tiểu. Đoạn trích khắc họa sự tương phản về phẩm chất giữa hai tuyến nhân vật là Thị Mầu và Kính Tâm.
Trước hết, Thị Mầu có xuất thân cao quý, là con gái của phú ông trong làng. Tuy nhiên, ở Mầu lại toát ra vẻ lẳng lơ, phóng túng. Mọi người thường lên chùa vào ngày rằm còn Mầu lên chùa từ mười ba. Bởi vậy mới bị "mang tiếng lẳng lơ":
"Thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ
Đò đưa cấm giá tôi lên chùa từ mười ba.
Mười ba,
Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm
Tôi muốn cho một tháng đôi rằm
Trước vào lễ Phật, sau thăm vãi già
Tôi bước vào lễ Phật Thích Ca
Lễ đức Tam Thế, vua cha Ngọc Hoàng."
Lời mời gọi, kể lể của Mầu đã cho ta những hình dung ban đầu về tính cách, đặc điểm của nhân vật. Số từ "mười ba" được lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh ngày Mầu lên chùa tiến cúng. Mầu lên chùa cả ba ngày mười ba, mười bốn, mười lăm để thỏa lòng mong ước được gặp gỡ người nhà chùa.
Vừa mới nhìn thấy chú tiểu đẹp, Thị Mầu đã dùng những lời lẽ ngon ngọt, ve vãn. Khi được Kính Tâm yêu cầu cho biết tên tuổi để ghi vào lòng sớ, Thị Mầu đã cố tình khai thừa thông tin về bản thân. Nàng liên tục nhắc về việc mình chưa có chồng. Đồng thời, thể hiện mong muốn kết đôi.
Niềm mong ước giao duyên của Mầu còn được bộc lộ qua câu nói:
"Này thầy tiểu ơi!
Thầy như táo rụng sân đình
Em như gái rở, đi rình của chua."
Táo ở sân đình thường chín và rụng sau mùa xuân. Vì không ai chăm sóc lại già cỗi nên vừa chua vừa chát. Còn cái rở là gái có mang, lúc nào cũng thèm ăn của chua, thức lạ. Mầu ví mình như gái rở còn chú tiểu như táo rụng sân đình nhằm bày tỏ mong muốn được sánh đôi cùng chú tiểu. Mầu lên chùa bái lễ nhưng chẳng thèm để ý đến thần Phật, chỉ chăm chăm vào trêu ghẹo chú tiểu. Nghe nhà mất bò, Mầu chanh chua đáp lại "Nhà tao còn ối trâu!". Đối đáp với những lời trách móc, phê phán, Mầu vẫn tự nhận mình là người chín chắn nhất trong nhà "Nhà tao có chín chị em, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!".
Không dừng ở những lời ngon ngọt, Thị Mầu còn cố tình trêu ghẹo chú tiểu thông qua lời hát:
"Song đứng trước cửa chùa
Tôi vào tôi gọi, thầy tiểu chẳng thưa, tôi buồn
Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Một cành tre, năm bảy cành tre
Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng
[...] Ấy mấy thầy tiểu ơi!
Trúc xinh trúc mọc sân đình
Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!"
Trong đoạn này, Mầu dùng rất nhiều hình ảnh trong ca dao dân ca như "cành tre", "mẫu đơn", "nhà thờ", "thiếp", "chàng", "cơm hàng có canh", "trúc mọc đầu đình" vừa là để bộc lộ tình cảm vừa là tán tỉnh Kính Tâm. Đặc biệt, đoạn hát còn cho thấy được quan niệm về tình yêu của Thị Mầu. Tình yêu trong suy nghĩ của nàng là sự tự do, thoải mái, vượt lên mọi rào cản của xã hội. Thị Mầu không hề quan tâm đến định kiến mà chỉ tập trung vào cảm xúc cá nhân "Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng". Mầu "muốn cho có thiếp có chàng/ Ba sáu mười tám, cơm hàng có canh". Mầu sẽ cảm thấy mình bớt xinh nếu như không có đôi có cặp "Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!". Thậm chí, Mầu còn táo bạo tới mức muốn "lấy hơi của thầy tiểu", nói cho mọi người nghe về kế hoạch tiếp theo của mình: "Tôi tìm chỗ nấp, thế nào tôi cũng nắm tận tay chú tiểu thì tôi mới nghe!".
Càng về cuối lớp chèo, mức độ trong lời nói của Mầu càng được gia tăng. Đỉnh điểm là sự sỗ sàng, bỗ bã trước chốn cửa chùa "Bỏ mô Phật đi!". Lúc này, Mầu hoàn toàn không còn có ý niệm gì về việc bái lễ nữa mà chỉ tập trung vào chú tiểu. Câu nói ấy đã cho thấy sự thất lễ, thiếu tôn trọng với những tăng ni trong chùa. Làm mọi cách mà Kính Tâm không để ý, tâm trạng của Thị Mầu không còn vui tươi, hồ hởi như khi mới vào chùa mà trở nên rầu rĩ, man mác buồn:
"Muốn rằng cây cải cho xanh
Thài lài, rau dệu tám thành bờ tre
Lắng tai tôi nói cho mà nghe
Tri âm chẳng tỏ tri âm
Để tôi thương vụng nhớ thầm sầu riêng!"
Ngoài lời nói, tính cách của nhân vật còn được bộc lộ qua hành động. Vượt qua mọi khuôn phép, chuẩn mực, Thị Mầu có những cử chỉ mạnh bạo, bất chấp. Đó là xông ra nắm tay, nhận quét sân thay Tiểu Kính. Có thể nói, mọi ngôn ngữ, hành động của Thị Mầu đều cho ta thấy được sự lẳng lơ, phóng khoáng trong con người thị.
Đối lập với đào lẳng là nhân vật Thị Mầu, đào chính - Kính Tâm lại mang trong mình những vẻ đẹp, phẩm chất đáng quý. Khác với Thị Mầu, Thị Kính sinh ra trong một gia đình nông dân, sau được gả vào gia đình khá giả. Do hiểu lầm, nàng phải bỏ nhà ra đi, cắt tóc giả trai xin vào tu hành ở chùa Vân. Mặc dù ẩn mình dưới thân phận của một chú tiểu nhưng Kính Tâm vẫn toát lên sự trang nghiêm. Qua lời nhận xét, ngợi ca của Thị Mầu, ta có thể hình dung ra được nét đẹp đoan trang, thanh khiết ở Kính Tâm.
Trước những lời tán tỉnh và hành động sỗ sàng của Thị Mầu, Kính Tâm luôn giữ thái độ, lời nói, cử chỉ mực thước:
"Khấn nguyện thập phương
Kính trình Tam Bảo
Lòng người có đạo
Đem của cúng dàng
[...] A di đà Phật! Tôi đã đèn nhang xong, mời cô vào lễ Phật."
Đây quả là ngôn ngữ của một bậc chân tu. Từng câu chữ đều tuân theo quy tắc, giáo lí nhà Phật. Mỗi lần nghe Thị Mầu nói, Kính Tâm đều nhẹ nhàng niệm "Nam mô A Di Đà Phật!" như một cách từ chối. Chứng kiến sự mù quáng của Thị Mầu, Kính Tâm bày tỏ nỗi niềm trong lời độc thoại:
"Ngẫm oan trái nhiều phen muốn khóc
Thấy nhân duyên nghĩ lại nực cười
Hẳn vô tình thế mới trêu ngươi
Vì hữu ý nên rằng hoảng mắt
Chứ có biết đâu mình cũng chỉ là..."
Đây là những lời đúc kết, suy ngẫm của một con người đã trải qua không ít đau khổ, truân chuyên. Đi qua nhiều chuyện trên đời tới mức phải cắt tóc đi tu, Kính Tâm thấy nực cười trước mối nhân duyên ngang trái. Có những sự vô tình khiến con người rơi vào cảnh trớ trêu. Thật giống với tình cảnh của Thị Mầu lúc này. Vì Thị Mầu có tình ý nên mới nhìn nhầm, chứ có biết đâu Kính Tâm cũng chỉ là gái giả trai. Lúc Thị Mầu xông ra nắm tay, Kính Tâm chỉ nhẹ nhàng nói: "Cô buông ra để tôi quét chùa kẻo sư phụ người quở chết!". Có những lúc vì quá hoảng sợ trước sự tấn công đầy táo bạo của Thị Mầu, Kính Tâm phải bỏ chạy, tìm cách từ chối. Đây là biểu hiện của một con người đường hoàng, ngay thẳng.
Có thể nói, Thị Mầu đại diện cho những người phụ nữ nổi loạn còn Kính Tâm lại tượng trưng cho người phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến. Qua đoạn trích, tác giả dân gian muốn ca ngợi những người phụ nữ trung trinh và phê phán những người lẳng lơ, phóng túng. Để làm nổi bật sự mâu thuẫn, đối lập giữa hai nhân vật, tác giả đã tập trung khắc họa thông qua lời nói, hành động. Đồng thời, sử dụng các biện pháp tu từ độc đáo như so sánh "Thầy như táo rụng sân đình/ Em như gái rở, đi rình của chùa", điệp ngữ "Ấy mấy thầy tiểu ơi!", "chưa chồng đấy" và chất liệu ca dao, dân ca truyền thống.
Đoạn trích "Thị Mầu lên chùa" đã thể hiện cách nhìn nhận của tác giả dân gian về những người phụ nữ trong xã hội xưa. Văn bản "Thị Mầu lên chùa" nói riêng và vở chèo "Quan Âm Thị Kính" nói chung sẽ mãi lưu dấu trong lòng người Việt Nam bởi những giá trị nhân văn, ý nghĩa.
Phân tích nhân vật Thị Kính - mẫu 14
Về tác phẩm Chèo Thị Mầu Lên Chùa, đây có thể nói là đoạn trích chèo nổi tiếng hàng đầu Việt Nam, được viết theo phương thức tự sự và biểu cảm. Đoạn trích này thuật lại sự việc Thị Mầu lên chùa để tán tỉnh, trêu ghẹo với Tiểu Kính cùng thái độ trơ trẽn và điệu bộ lẳng lơ. Tuy nhiên Tiểu Kính vẫn liêm chính, không quan tâm và giữ khoảng cách với Thị Mầu.
Thị Mầu là người con gái có cá tính riêng, dám vượt qua khuôn khổ vốn có của Nho Giáo để bày tỏ và thể hiện mình, Thị Mầu như đại diện cho bao nỗi khát vọng của người phụ nữ xưa. Tuy những hành động của Mầu trong chùa là điều không nên làm nhưng bởi sự hối thúc, khao khát của tình yêu mà lí trí bị lu mờ. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng” , “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Cô ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Thị Mầu là con người của nghệ thuật.
Nhân vật Thị Mầu đáng thương hơn đáng trách, có khi còn quá xót xa, thông cảm cho nhân vật này. Thị Mầu dám sống, dám yêu và dám làm những việc chống lại xiềng xích của chế độ cũ, không cho phụ nữ được thể hiện mình, chôn vùi cuộc đời họ bằng nhiều hình thức. Thị Mầu là con gái phú ông, là người có nhiều tính xấu những số phận cũng giống như Thị Kính và những người phụ nữ khác, số phận đều bế tắc, không có lối thoát.Qua đoạn trích, người đọc có thể thấy một Thị Mầu cá tính đến nhường nào. Là người phụ nữ, cô sẵn sàng vượt quy chuẩn xã hội phong kiến đặt ra. Cô khao khát hạnh phúc, đi tìm tình yêu cho bản thân. Người phụ nữ theo quan điểm xưa, không có tiếng nói thì với sự xuất hiện của Thị Mầu, là một phiên bản mới lạ. Cô không quan tâm đến tiếng xì xào của người đời, miễn là hạnh phúc của mình, cô muốn được theo đến cùng. Tuy nhiên, ngặt nỗi, người cô thương lại là người xuất gia, và đấy thực ra là Thị Kính giả trai.
Xem thêm các bài Văn mẫu tự sự, nghị luận, cảm nghĩ, cảm nhận lớp 7 khác:
Lời giải bài tập lớp 7 sách mới:
- Giải bài tập Lớp 7 Kết nối tri thức
- Giải bài tập Lớp 7 Chân trời sáng tạo
- Giải bài tập Lớp 7 Cánh diều
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 6-8 cho phụ huynh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 7 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 7 và Những bài văn hay đạt điểm cao lớp 7.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 7 Global Success
- Giải Tiếng Anh 7 Friends plus
- Giải sgk Tiếng Anh 7 Smart World
- Giải Tiếng Anh 7 Explore English
- Lớp 7 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 7 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 7 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 7 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 7 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 7 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 7 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 7 - KNTT
- Giải sgk Tin học 7 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 7 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 7 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 7 - KNTT
- Lớp 7 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 7 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 7 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 7 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 7 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 7 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 7 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 7 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 7 - CTST
- Giải sgk Tin học 7 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 7 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 7 - CTST
- Lớp 7 - Cánh diều
- Soạn văn 7 (hay nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 7 (ngắn nhất) - Cánh diều
- Giải sgk Toán 7 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 7 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 7 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 7 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 7 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 7 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 7 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 7 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 7 - Cánh diều