30+ Cảm nhận bài thơ Đi đường (hay, ngắn gọn)
Bài văn Cảm nhận bài thơ Đi đường lớp 8 hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.
- Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 1
- Dàn ý Cảm nhận bài thơ Đi đường
- Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 2
- Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 3
- Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 4
- Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 5
- Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 6
- Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 7
- Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 8
- Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 9
- Cảm nhận bài thơ Đi đường (mẫu khác)
30+ Cảm nhận bài thơ Đi đường (hay, ngắn gọn)
Bài giảng: Đi đường - Cô Phạm Lan Anh (Giáo viên VietJack)
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 1
"Đi đường" là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 30 trong "Nhật kí trong tù". Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải lui giải tới qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trải qua bao cay đắng thử thách nặng nề, Người gửi gắm bao suy nghĩ, cảm xúc của minh vào bài thơ "Tẩu lộ" này. Nam Trân đã dịch thành thơ lục bát:
"Đi đường mới biết gian lao, Núi cao rồi lại núi cao trập trùng; Núi cao lên đến tận cùng, Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"
Bài thơ mang hàm nghĩa: tác giả mượn chuyện đi đường - để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang.
Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là:
"Có đi đường mới biết đường đi khó, Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác"
Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm: "Là gươm kề tận cổ, súng kề tai - Là thân sống chỉ coi còn một nửa" ("Trâng trối - Tố Hữu). Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ "trùng san" đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ "cao"', dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết:
"Đi đường mới biết gian lao, Núi cao rồi lại núi cao trập trùng"
Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm: "hành lộ nan" đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người "ba mươi năm ấy chân không nghỉ" (Tố Hữu), để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng" mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu:
"Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi Những đất tự do, những trời nô lệ Những con đường cách mạng đang tìm đi..." (Người đi tìm hình của nước)
Người xưa có nhắc: "Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy" là thế.
Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện - hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót (cao phong hậu) thì muôn dặm nước non (vạn lí dư đồ) thu cả vào tầm mắt:
"Núi cao lên đến tận cùng, Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"
Muốn vượt qua các lớp núi lên đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học "Đi đường" thật là vô giá đối với bất cứ ai.
"Nhật kí trong tù" có nhiều bài thơ viết về đề tài "đi đường" như "Thế lộ nan", "Tẩu lộ", "Lộ thượng",... Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt:
"Núi cao gặp hổ mà vô sự, Đường phẳng gặp người bị tống lao" .... Xử thế từ xưa không phải dễ, Mà nay, xứ thế khó khăn hơn" (Đường đời hiểm trở)
Bài thơ "Đi đường" cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ "Đi đường" trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình.
Dàn ý Cảm nhận bài thơ Đi đường
1. Mở Bài
- Giới thiệu về Bác Hồ
- Giới thiệu về bài thơ: Nằm trong tập "Nhật kí trong tù"
- Ý nghĩa của bài thơ: Ca ngợi tinh thần, ý chí vượt gian khổ của Bác.
2. Thân Bài
- Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ:
+ Được sáng tác khi Người bị giam ở nhà từ Tưởng Giới Thạch
+ Sau những lần chuyển lao vất vả
- Ý nghĩa bài thơ gửi gắm:
+ Ghi lại chân thực những khó khăn Hồ Chí Minh trải qua
+ Khẳng định triết lý: Vượt qua hết thử thách sẽ tới thành công.
- Phân tích nội dung bài thơ:
+ Câu một: Lời nhận xét, chiêm nghiệm từ thực tế:
+ Câu thơ là lời nhận xét từ kinh nghiệm di chuyển của người tù với xiềng xích
+ Bác Hồ thấu hiểu những khó khăn, gian khổ ấy
+ "Tẩu lộ": Lặp lại, cho thấy những chặng đường dài cứ nối tiếp nhau, không thấy đích đến.
→ Khó khăn chồng chất, đường dài kéo lê chân người tù, miêu tả chân thực hiện thực→ Rút ra kinh nghiệm sống: Phải bắt tay vào công việc mới thấy được khó khăn.
→ Những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải trong những buổi đầu.
+ Câu hai: Những khó khăn, gian lao chồng chất trước mắt Bác Hồ:
+ Núi non liên tiếp xuất hiện trước tầm mắt
+ Điệp từ "trùng san": xuất hiện ở đầu và cuối câu → Núi non trập trùng trước mắt, kéo dài bất tận không ngớt.
+ Người tù phải trải qua hết khó khăn này tới khó khăn khác, phải vượt chặng đường dài → Khó khăn vất vả.
+ Miêu tả chặng đường Cách mạng với nhiều khó khăn trước mắt, cần người chiến sĩ Cách mạng có ý chí kiên cường.
+ Hai câu thơ cuối: Khẳng định kết quả sau khi vượt qua mọi khó khăn:
+ Câu ba: Hình ảnh núi non tiếp nối, nhịp điệu câu thơ dồn dập, hối hả tiến về phía trước, bước chân tới "tận cùng" đỉnh núi.
+ Câu bốn: Niềm hạnh phúc vỡ òa khi được đứng trước thiên nhiên rộng lớn.
+ Nhịp thơ ở đây nhanh, mạnh mẽ, hối hả, cảm xúc vui sướng dạt dào.
+ Hình ảnh Hồ Chí Minh vui sướng như được tự do khi đứng trước thiên nhiên.
→ Muốn khẳng định: Con đường Cách mạng phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng khi vượt qua hết, nhất định sẽ có được thắng lợi vẻ vang.
- Kết luận chung:
+ Bài thơ là bức tranh hiện thực của Hồ Chí Minh khi chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch.
+ Bức tranh về ý chí kiên cường cũng như tâm hồn thơ đầy xúc cảm của một người chiến sĩ Cách mạng.
+ Gửi gắm chân lý về cuộc đời cũng như con đường Cách mạng: gian khổ, khó khăn, gập ghềnh, cần ý chí kiên cường, nhưng thành công sẽ vô cùng xứng đáng.
3. Kết Bài
- Khẳng định lại vấn đề.
- Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ Cách mạng, thi nhân xuất sắc của dân tộc.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 2
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ "Nhật kí trong tù". Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, "Đi đường" ( Tẩu lộ) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao.
Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là khi Hồ Chí Minh bị bắt bớ, tù đày ở nhà tù Tưởng Giới Thạch và Người buộc phải di chuyển hết từ nhà lao này sang nhà lao khác. Trong tình thế ấy, khó khăn, vất vả, gian lao đều có thể làm chùn bước chân của người tù nhưng với tấm lòng yêu đời, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, không những không chịu khuất phục, Người còn dùng những lời thơ của mình ghi lại chân thực hoàn cảnh gian khổ đồng thời thôi thúc ý chí của mình. Bác muốn qua đó thể hiện chân dung ý chí bất khuất của một người tù Cách mạng dù trong hoàn cảnh khó khăn, và cũng để nêu lên triết lý muôn đời rằng: Vượt qua hết gian lao thử thách, chắc chắn sẽ đi tới được thắng lợi vẻ vang.
Vẫn là thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt Người ưa thích, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh hiện thực cùng bức tranh tinh thần của mình trong những lần chuyển lao bằng bài thơ "Đi đường":
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian"
Dịch thơ:
"Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"
Câu đầu của bài thơ mở ra như một lời nhận xét, một lời chiêm nghiệm từ thực tế cuộc sống:
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan"
(Đi đường mới biết gian lao)
Để rút ra được sự chiêm nghiệm, chân lý này, hẳn Người đã phải trải qua biết bao gian khó, biết bao cung đường trong những lần chuyển trại, chuyển lao. Bao lần bị giặc đày ải từ nhà tù này sang nhà tù khác, điều đó đã khiến Bác có được sự thấu hiểu về nỗi gian lao trong mỗi bước chân. Mỗi lần bước đi, xiềng xích, gông cùm kéo lê bước chân người tù Cách mạng khiến cho Người càng thấy khó nhọc hơn bội phần. Thấm thía được điều đó, Người đã viết lên câu thơ mở đầu bài thơ "Tẩu lộ" của mình. Đọc lên, chúng ta cảm thấy thật thấm thía biết bao, thấm thía cái gian lao ngấm trong từ câu chữ. Hai từ "tẩu lộ" được lặp lại liên tiếp trong cùng một câu thơ phải chăng đó là sự nhấn mạnh của Bác về những cung đường chuyển lao dài bất tận, khó khăn chồng chất, làm Người suy kiệt cả thể chất lẫn tinh thần.
Chỉ với một câu thơ thất ngôn ngắn ngủi, Hồ Chí Minh đã vẽ lại cho chúng ta hình ảnh của một người tù đang vất vả lê từng bước chân trên chặng đường gập ghềnh trong những lần chuyển lao, những khó khăn, cũng như những kinh nghiệm được đúc rút ra từ những chặng đường dài đó. Và cũng là để nhắn nhủ với chúng ta rằng: Trong cuộc sống, phải bắt tay vào công việc, phải "tẩu lộ" mới thấu hiểu được những mệt mỏi trong công việc ấy.
Câu thơ đầu vang lên đã khiến cho người đọc chúng ta không khỏi bồi hồi, xúc động về những vất vả mà Người đã phải chịu đựng chốn ngục tù ấy. Vậy mà câu thơ thứ hai khi đọc lên, càng khiến chúng ta thêm thấu hiểu những khó khăn ấy khi mà:
"Trùng san chi ngoại hựu trùng san"
(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng)
Trên bước đường chuyển lao ấy, Bác không chỉ phải "ăn gió tắm sương" mà Người còn phải băng rừng, vượt suối, trải qua bao khó khăn trên bước đường gập ghềnh. Nhưng những vất vả ấy chẳng thấm vào đâu so với những lần vượt đèo vượt núi. Với đôi chân mang gông cùm, Người phải lê chân trèo lên những đỉnh núi cao, không chỉ một mà là hết ngọn núi này đến ngọn núi khác cứ liên tiếp nối nhau trước mắt Người. "Trùng san" (núi cao), từng ngọn cứ liên tiếp "chi ngoại hựu trùng san". Điệp từ "trùng san" được lặp lại trong câu, một đứng đầu, một đứng cuối khiến cho chúng ta khi đọc lên có cảm tưởng từng ngọn núi cứ dập dềnh liên tiếp trước mắt, tưởng như là bất tận, liên hồi.
Khách bộ hành thông thường khi đi đã thấy khó nhọc, vậy mà Bác Hồ của chúng ta chân mang xiềng xích, gông cùm trên vai lại phải vượt hết chặng đường gập ghềnh này đến chặng đường gập ghềnh khác, vượt hết núi này tới núi khác, quả thật, gian lao, khó nhọc vô cùng. Phải chăng những đỉnh núi cao liên tiếp, những gập ghềnh khó nhọc mà Người đang đi cũng là biểu tượng cho những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải? Những khó khăn, thử thách ấy đang đòi hỏi một người Cách mạng có ý chí kiên cường để vượt qua mà mang lại thắng lợi vẻ vang?
Khép lại hai câu thơ đầu, người đọc chúng ta chỉ thấy hiện lên trước mắt mình những con đường dài gập ghềnh, những đỉnh núi nhấp nhô, nối nhau dài bất tận. Con đường của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch thật khó khăn, vất vả đến khốn cùng. Phải chăng, những khó khăn ấy mà Bác nói đến, những đỉnh núi cao, những gian lao khi đi đường là những thử thách của cuộc đời dành cho ý chí của người tù nhân Cách mạng giàu lòng yêu nước trước thành công cuối cùng?
Bước sang hai câu thơ cuối, vẫn là hình ảnh của núi non nhưng câu thơ lại mang một sắc thái thật khác lạ. Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên, người ta thấy trong đó là những khó khăn, gian lao, là những chiêm nghiệm về cuộc đời của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh, thì ở trong câu thơ này, chúng ta lại nhận ra được một hương vị thật khác:
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian"
Dịch thơ:
(Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)
Hình ảnh núi non vẫn hiện lên sừng sững, nhưng lại chẳng thể ngăn bước chân của người Cách mạng với ý chí quyết tâm kiên cường, quyết tâm chinh phục cả đỉnh núi cao nhất. Nhịp thơ ở đây nghe thật nhanh, thật mạnh, thoảng trong đó là tiếng thở thật dồn dập của người tù khi đang cố bước thật nhanh lên đỉnh núi. Sự khẩn trương ấy lan ra toàn câu thơ, mỗi từ lại càng thêm mạnh, thêm khẩn trương, dồn dập hơn nữa:
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu"
(Núi cao lên đến tận cùng)
Đọc câu thơ đến cuối, người ta thấy phảng phất trong nhịp thơ là niềm hạnh phúc, xốn xang khi đã chinh phục được "tận cùng" của "núi cao". Để đến câu thơ cuối cùng, người tù ấy thở một cái thật mạnh, sảng khoái vô cùng:
"Vạn lý dư đồ cố miện gian"
(Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)
Ở câu thơ thứ ba, người đọc dường như thấy tiếng thở dồn dập của Người, khi ấy liệu ai trong chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi liệu Người đã đến được đỉnh núi hay chưa, Người đã bước được đến "tận cùng" hay chưa, ...? Để đến khi câu thơ thứ tư thốt ra nhẹ nhõm như một tiếng thở, thì người đọc chúng ta cũng nhẹ nhàng, khoan khoái tới lạ thường. Lên được tận cao "tận cùng" của đỉnh núi, mở ra trước tầm mắt của chúng ta là cả một không gian to lớn, rộng mênh mông, bát ngát của "muôn trùng nước non".
Nếu trong hai câu thơ đầu, đọc thơ, người đọc như cảm thấy sự vất vả, gian khó, một tâm trạng mang nặng suy tư của Hồ Chí Minh thì hai câu cuối, tình thế đã thay đổi thật nhanh chóng, tâm trạng cũng mang một màu vui vẻ khác thường. Từ tư thế của một người tù đang trong cảnh đày đọa, Hồ Chí Minh bỗng vụt đứng lên trong tư thế của một người tự do, Người chẳng còn mang xiềng xích, cũng chẳng bị đọa đày, tất cả chỉ là cảm giác vui sướng, ung dung trước không gian mênh mông, bát ngát của đất trời. Và từ trong sâu thẳm tâm hồn của Người đang reo vui thật rộn rã. Câu thơ thứ tư ấy thốt ra là một tiếng reo vui, mừng rỡ vô cùng. Sau chặng đường dài vất vả là thế, cuối cùng người tù Cách mạng ấy cũng đã chạm đến được đỉnh của thiên nhiên, được ngắm nhìn thiên nhiên mà Người trân trọng, yêu quý vô vàn. Đây chắc hẳn cũng là lời gửi gắm sâu thẳm của Người trên con đường Cách mạng rằng: Con đường Cách mạng chắc chắn sẽ khó khăn, núi cao sẽ liên tiếp, trở ngại, thách thức, thế nhưng khi bước chân được đến đỉnh của nó, chúng ta chắc chắn sẽ thu được thành công thật vẻ vang, thật xứng đáng. Và để làm được điều đó, chúng ta phải giữ được ý chí, được niềm tin thật kiên định, tin tưởng vào đường lối Cách mạng của Đảng.
Bài thơ "Tẩu lộ" ( Đi đường) khép lại, thế nhưng đọng lại trong tâm trí chúng ta là hình ảnh của một người tù Cách mạng kiên định dù trong gian khó vẫn giữ một ý chí quật cường. Bài thơ vừa là lời bày tỏ những gian khổ của Bác trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch vừa là một chân lý Bác muốn nêu ra sau những lần chiêm nghiệm của mình. Đường đi khó khăn, gập ghềnh, cũng như cuộc sống, như con đường Cách mạng vậy, nhưng chỉ cần chúng ta có quyết tâm, có ý chí mạnh mẽ thì chắc chắn thắng lợi vẻ vang sẽ đến và ngày đó chẳng còn xa nữa.
Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta cảm nhận được những khó khăn trong thời gian Người bị giam cầm nơi đất khách, cũng là lời ca ngợi ý chí chiến đấu kiên cường của Hồ Chí Minh. Chắc hẳn, mãi đến sau này, bài thơ vẫn sẽ mãi là một trong những tuyệt tác của Người - Hồ Chí Minh: Người chiến sĩ Cách mạng - nhà thi nhân xuất sắc của dân tộc ta.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 3
Bác Hồ từng tự sự: "Ngâm thơ ta vốn không ham / Nhưng mà trong ngục biết làm sao đây?". Và bởi thế, ra đời trong những năm tháng Bác bị giam cầm, tập thơ "Nhật kí trong tù” từng được ví như một đoá hoa mà vô tình văn học Việt Nam nhặt được bên đường. Toát lên từ tập thơ là một tinh thần "thép" rắn rỏi, lạc quan: “Từ những bài thơ viết trong hoàn cảnh nhà tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo và mục nát toát ra một phong thái ung dung, một khí phách hào hùng, một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan cách mạng không gì lay chuyển nổi”. Bài thơ "Đi đường" là một trong những số ấy.
“Tài lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”.
Bài thơ được dịch là:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Bài thơ ra đời trong những năm tháng Bác Hồ bị bắt giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bác bị chúng giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Đường chuyển lao không những dài dặc mà còn vô cùng gian lao, phải trải qua núi non trùng diệp và những vực thẳm hun hút hiểm sâu. Nhưng dẫu vậy, từ trong khổ đau vẫn bừng lên ý chí “thép” mang đậm phong cách Hồ Chí Minh. Bài thơ “Đi đường” - “Tẩu lộ” đã thể hiện rõ điều đó.
“Đi đường mới biết gian lao”. Câu thơ là một nhận định nhưng đồng thời cũng là một chân lí: Có đi đường mới biết những sự vất vả, khó khăn của việc đi đường. Vậy những điều “nan”, “gian lao” ấy là gì?
“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng". Đường chuyển lao là những con đường đi qua các vùng núi hiểm trở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tầng tầng lớp lớp những ngọn núi tiếp nối nhau chạy mãi đến chân trời. Hết ngọn núi này lại đến ngọn núi khác. Vậy nên mới có hình ảnh “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Trong nguyên văn chữ Hán là “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”.
“Trùng san” có nghĩa là trùng trùng lớp lớp núi cao; “hựu” là “lại", câu thơ mang ý nghĩa: trùng trùng núi cao bên ngoài lại có núi cao trùng trùng. Một câu thơ mà có tới hai chữ “trùng san", huống chi lại có chữ “hựu”, bởi vậy, câu thơ nguyên gốc gợi nên hình ảnh những đỉnh núi nhọn hoắt cao vút trời xanh trập trùng chạy mãi đến chân trời. Con đường ấy, mới chỉ nhìn thôi đã thấy đáng sợ.
Nếu tù nhân là một người tù bình thường, ắt hẳn họ đã bị nỗi sợ hãi làm cho yếu mềm, nhụt chí. Nhưng người tù ấy lại là một người cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Và bởi vậy, hai câu thơ cuối bài đã thực sự thăng hoa:
“Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”
Hai câu thơ được dịch khá sát là:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Sau những vất vả, nhọc nhằn của con đường leo núi, khi đã lên đến tận đỉnh người tù cách mạng được chứng kiến một hình ảnh vô cùng hùng vĩ “muôn trùng nước non”. Theo tâm lí thông thường, trên con đường gian lao trập trùng đồi núi, khi lên đến đỉnh, con người dễ lo lắng, mệt mỏi khi nghĩ đến con đường xuống núi dốc thẳm cheo leo và những quả núi ngút ngàn khác. Nhưng Hồ Chí Minh thì ngược lại.
Điều Người cảm nhận là niềm tự hào, sung sướng khi được đứng từ trên đỉnh cao chiêm ngưỡng sự hùng vĩ bao la của nước non, vũ trụ. Hình ảnh “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” thật hào sảng. Nó gợi đến hình ảnh bé nhỏ của con người đang đối diện trước cái mênh mông, trập trùng của giang san. Con người ấy không choáng ngợp trước sự kì vĩ của đất trời mà rất vui sướng, bồi hồi như lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy gương mặt của nước non. Chính cảm quan ấy đã nâng vị thế con người sánh ngang tầm non nước.
Đứng trước một sự thật khách quan, mỗi con người có một cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy phụ thuộc vào thế giới quan và bản lĩnh của con người, ở Hồ Chí Minh Người đã có những cảm nhận lạc quan, tươi sáng về cuộc đời. Người không bị cái nhọc nhằn của thể xác lấn át đi ước mơ, khát vọng và lí tưởng mà ngược lại, đã vượt qua gian lao để khẳng định ý chí bền bỉ, sắt đá và niềm lạc quan, tin tưởng vào cách mạng của bản thân mình. Đó là tinh thần thép là vẻ đẹp tâm hồn Bác.
Bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận hình ảnh Bác vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng.
Và như thế, bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ "Nhật kí trong tù" thực sự là một đoá hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 4
Trong những ngày bị tù đày, Hồ Chí Minh bị áp giải qua nhiều nhà lao. Theo Trần Dân Tiên trong những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch thì Người bị giam giữ trong gần ba mươi nhà lao huyện và xã. Chuyện đi đường là việc xảy ra hằng ngày.
Có chặng đường mà người đi thật dễ chịu trong khung cảnh chim ca rộn núi hương bay ngát rừng (Trên đường đi) nhưng phổ biến hơn là những chặng đường vất vả, đi đường giữa những ngày giá lạnh, đi đường núi non hiểm trở. Bài thơ Đi đường mở đầu cho hành trình bị áp giải: Đi đường mới biết gian lao.
Đây là kinh nghiệm của người đã nhiều lần lên đường, ra đi. Có đi đường mới có những kinh nghiệm về chuyện đi đường. Đây lại không phải là con đường bằng phẳng mà là một chặng đường núi non hiểm trở: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.
Với Đi đường, tác giả hiểu rõ đường đời khó khăn. Đường đời đây cũng là con đường đấu tranh cách mạng và người chiến sĩ cách mạng là người đi đường, không mệt mỏi. Chấp nhận và vượt lên những khó khăn, người đi đường bao giờ cũng hướng tới đích:
Giầy rách đường lầy chân lấm láp
Vẫn còn dấn bước dặm đường xa
Trong bài thơ Đi đường, những khó khăn thật chồng chất, càng ngày càng nhiều và nâng lên đến cao điểm. Câu thơ như một thử thách: Núi cao lên đến tận cùng. Người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua được thử thách và chiến thắng. Trên cao điểm thắng lợi, biết bao tình cảm vui mừng được biểu hiện. Mừng vui vì đã chiến thắng được khó khăn, vì Người đã làm tròn trách nhiệm được giao phó.
Trên đỉnh cao, con người có những cảm xúc đặc biệt: Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Có thể quan sát và bao quát nhiều phạm vi của đời sống. Đôi mắt không còn bị hạn chế trong tầm nhìn mà đã được mở rộng, thâu tóm được biết bao cảnh vật.
Đi đường là một bài thơ hay có nhiều lớp nghĩa, nghĩa đen, nghĩa bóng. Bài thơ có ý nghĩa đúc kết về kinh nghiệm, kinh nghiệm đi đường, kinh nghiệm đầu tiên của chặng đường cách mạng. Trong mấy câu thơ đầu, thiên nhiên với những vùng núi non hiểm trở như che lấp con người. Nhưng rồi con người đã chủ động vượt qua thử thách và thở thành nhân vật trung tâm của bức tranh.
Đường đời gian khổ, đường cách mạng và đầy chông gai, nhưng quyết tâm vượt khó và theo đuổi đến cùng thì rồi cũng có ngày đi tới thành công, giành được chiến thắng.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 5
Đi đường là bài thơ nằm trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Bài thơ được sáng tác trong quá trình Bác di chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác, nhưng ta không nhìn thấy cái vất vả, khó khăn trong từng câu chữ mà thấy được một chân lí, khi trải qua những khó khăn nhất định sẽ đạt được vinh quang. Ý nghĩa sâu sắc tạo nên giá trị của bài thơ chính là ở chỗ đó.
Trong thời gian bị giam giữ ở Trung Quốc, Bác đã phải di chuyển hơn 30 nhà lao khác nhau, khi trèo đèo, lối sống, khi băng rừng vượt sông, nhưng trong con người Bác vẫn ngời lên tinh thần lạc quan. Bài thơ này cùng rất nhiều bài thơ khác nằm trong chùm đề tài tự nhắc nhở, động viên mình vượt qua những thách thức, gian khổ.
Mở đầu bài thơ, Người nói lên nỗi gian lao của kẻ bộ hành: Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan. Câu thơ nguyên tác chữ tẩu lộ được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào những khó khăn, gian nan trong hành trình đi đường. Những khó khăn ấy được bật lên thành ý thơ thật giản dị, mộc mạc.
Có lẽ trong những năm tháng kháng chiến, đọc câu thơ của Bác ta sẽ cảm nhận đầy đủ và chân thực nhất những khó khăn mà người phải nếm trải nơi đất khách quê người. “Trùng san chi ngoại hựu trùng san” những dãy núi nhấp nhô, liên tiếp hiện ra, như không có điểm bắt đầu và kết thúc, tạo nên những thử thách liên tiếp thách thức sự dẻo dai, kiên gan của người tù cách mạng.
Đi một hành trình dài, không có phương tiện mà chỉ có duy nhất đôi chân liên tục di chuyển, đường đi khó khăn, đầy nguy hiểm đã cho thấy hết những gian lao, khổ ải mà người chiến sĩ cách mạng phải có lòng quyết tâm, ý chí kiên cường để vượt qua. Trải qua những khó khăn, khổ ải đó, ta sẽ thu lại được những gì đẹp đẽ, tình túy nhất:
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian
Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên, Bác tập trung làm nổi bật những gian lao, vất vả mà người tù phải đối mặt thì đến câu thơ thứ ba người tù đã chinh phục được đỉnh cao ấy. Trong hành trình chinh phục thử thách thì đây chính là giây phút sung sướng và hạnh phúc nhất của người tù.
Trải qua bao khó khăn, Bác đã được đền đáp xứng đáng đó chính là muôn trùng nước non thu trọn vào tầm mắt. Cả một không gian mênh mông khoáng đạt hiện ra trước mặt người tù, đồng thời mở ra những chiều ý nghĩa sâu sắc: hoạt động cách mạng chắc chắn sẽ gặp nhiều gian lao thử thách, nhưng chỉ cần kiên gan, bền ý chí, không chịu lùi một bước chắc chắn sẽ giành được thắng lợi cuối cùng.
Bằng ngôn ngữ thơ giản dị, cô đọng cùng hai tầng ý nghĩa sâu sắc, Bác đã đem đến những triết lí sâu sắc cho những người đọc. Quá trình hoạt động cách mạng hay con đường đời sẽ vấp phải rất nhiều chông gai, sóng gió bởi vậy chúng ta không được mềm yếu, nản lòng mà phải dũng cảm, kiên cường vượt qua những thách thức đó. Và ánh sáng, niềm vinh quanh chắc chắn đang đợi ta nơi cuối con đường.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 6
Có những bài thơ rung động lòng ta bởi những vẻ đẹp mượt mà, mềm mại của tâm tư, cảm xúc. Có những bài thơ lại làm xao xuyến trong ánh sáng lung linh lấp lánh của vẻ đẹp ngôn từ. Nhưng cũng có những bài thơ bình dị và chân phương, mộc mạc và đôn hậu kết tinh từ bao thăng trầm nếm trải của thi nhân đã đến với ta như một nốt trầm xao xuyến, đọng lại trong mỗi trái tim một mạch nguồn xúc cảm nhuần nhị mà sâu lắng vô bờ. "Đi đường" của Hồ Chí Minh là một bài thơ như thế. Bài thơ nhắn nhủ mọi người hãy giữ vững ý chí phấn đấu, chịu đựng mọi gian khổ hi sinh trên con đường đời của mình:
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại, hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian."
(Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.)
"Đi đường" là bài thơ trích trong tập "Nhật kí trong tù" - lúc bấy giờ Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc với bao cay đắng, thử thách nặng nề. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt và được Nam Trân dịch thành bài thơ lục bát. Bài thơ mượn chuyện đi đường, thi nhân nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm, phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang.
Hai câu thơ đầu miêu tả cảnh đi đường của người tù là vô cùng khó khăn, gian khổ:
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại, hựu trùng san"
Có đi đường mới biết đường đi khó. Câu khai đề của bài thơ như một nhận xét, một trải nghiệm rút ra từ thực tế. Nếu Bác Hồ không đi đường nhiều đến thế thì có lẽ cũng không rút ra được kết luận đó. Bác Hồ bị bọn giặc giải đi hết nhà tù này đến nhà tù khác, phải chịu bao nhọc nhằn, vất vả gấp nhiều lần so với khách bộ hành bình thường. Câu thơ "Trùng san chi ngoại, hựu trùng san" gợi lên lớp lớp những dãy núi chồng chất, liên tiếp nhau. Người tù bị giải trên đường đi, không biết đâu là nơi cuối trời, vượt qua dãy núi này rồi lại tiếp đến một dãy núi khác tưởng như bất tận và chỉ dừng lại khi tới một nhà tù khác hoặc trời quá tối, có khi tạm nghỉ trên một đống rạ ngoài đồng trống. Câu thơ còn có ý nghĩa như một lời triết lý đầy suy ngẫm: con đường đi hay chính là con đường đời, con đường cách mạng, càng đi càng thấy khó khăn, chông gai chồng chất, đòi hỏi phải có ý chí nghị lực để vượt qua.
Hai câu thơ kết lại, hình ảnh người đi đường đứng trên đỉnh núi cao chót vót hiện lên thật hiên ngang với một tâm hồn phơi phới niềm vui:
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian."
(Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.)
Câu thơ thứ ba như cầu nối, mạch thơ tiếp tục diễn tả những dãy núi cao nhưng là một sự cao hơn, cao đến tận cùng. Nhịp thơ như nhanh hơn, khẩn trhương hơn, có phần thanh thoát như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ một thứ âm nhạc tâm hồn khoan khoái, xốn xang. Vậy điều gì đã xảy ra sau đó? Một sự gục ngã? Một sự chiến thắng? Người đọc đã trút đi được gánh nặng ngàn cân và thở phào nhẹ nhõm bởi câu thơ kết: "Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non". Chỉ trong chớp mắt, tình thế đã thay đổi, tâm trạng đã thay đổi. Từ tư thế con người bị đày đoạ tới kiệt sức tưởng như tuyệt vọng, người đi đường cực khổ ấy bỗng trở thành du khách ung dung, say sưa ngắm cảnh thiên nhiên, đất trời. Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo vui hạnh phúc ở bên trong, niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến với cái đích, đang ở đỉnh cao vời vợi. Câu thơ mang một ý nghĩa triết lí trong cuộc sống: vượt qua khó khăn thử thách con người sẽ đi đến đích của thành công. Câu thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn ý chí nghị lực của Hồ Chí Minh: dù khó khăn, vất vả đến đâu, người chiến sĩ ấy vẫn không ngã lòng. "Đi đường" hay chính là con đường mà Người đang theo đuổi để thực hiện lý tưởng cao đẹp. Người đã chủ động, chấp nhận mọi khó khăn, vượt lên trên hoàn cảnh. Cách mạng phải lâu, gian khổ nhưng nhất định sẽ thắng lợi.
Bài thơ khép lại trong ý thơ triết luận về một chân lý giản đơn, cụ thể mà thật sâu sắc: đường đi - đường đời của mỗi con người. Đi đường cần quyết tâm vượt núi trèo đèo để lên tới đỉnh cao nhất, tới đích. Cố gắng vượt qua tất cả những chông gai thử thách, chúng ta sẽ trưởng thành, sẽ làm chủ được mọi nỗi buồn vui trong cuộc sống. Có lẽ vì thế chỉ với bốn câu thơ cô đọng, hàm súc, ta bắt gặp cả ba khía cạnh của con người Hồ Chí Minh: nhà hiền triết, nhà chiến sĩ và nhà thơ.
Bài thơ như một lời ca ngợi ý chí, sự chiến đấu của con người trước những thử thách cuộc đời trên con đường đến với ước mơ. Dù được ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ nhưng bài thơ hôm nay và mai sau vẫn luôn mới mẻ với con người, là người bạn đường của con người.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 7
Trong vũ đại của thơ ca Việt Nam, có những bài thơ rung động lòng ta bởi những vẻ đẹp mượt mà, mềm mại của tâm tư, cảm xúc. Những bài thơ như những nhành hoa thơm ngát, đưa ta vào một thế giới tình cảm, nỗi đau và ước mơ của con người. Nhưng đồng thời, cũng có những bài thơ lại làm xao xuyến trong ánh sáng lung linh lấp lánh của vẻ đẹp ngôn từ. Đó là những tác phẩm lấp lánh, phô diễn tài hoa của những nhà thơ tài ba, khiến ta say đắm và mê hoặc. Tuy nhiên, không chỉ có những bài thơ sửng sốt bởi sự tinh tế và mê hoặc, mà còn có những bài thơ bình dị và chân phương. Những tác phẩm này không cầu kỳ, không hoa mỹ, nhưng lại chứa đựng một sức sống mãnh liệt và chân thành. Những vần thơ mộc mạc và đôn hậu kết tinh từ bao thăng trầm nếm trải của thi nhân đã đến với ta như một nốt trầm xao xuyến, đọng lại trong mỗi trái tim một mạch nguồn xúc cảm nhuần nhị mà sâu lắng vô bờ.
Trong số những bài thơ đặc biệt đó, "Đi đường" của Hồ Chí Minh là một tác phẩm đáng được nhắc đến. Bài thơ này không chỉ là một tấm gương sáng cho sự chính trực và tình yêu đất nước, mà còn mang trong mình thông điệp sâu sắc về ý chí kiên cường và sự hy sinh vì mục tiêu cao cả. Với những câu thơ sắc bén và chân thực, Hồ Chí Minh đã khắc họa hình ảnh những người đi đường, với những gian khổ, khó khăn và hiểm nguy trên cuộc hành trình đời mình.
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại, hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian."
(Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.)
Những câu thơ đầu tiên của bài thơ "Đi đường" mang đến hình ảnh khắc sâu cảnh đi đường của người tù - một cuộc hành trình vô cùng khó khăn và gian khổ. Hồ Chí Minh miêu tả hành trình này như một cuộc phiêu lưu giữa trời và đất, khi bước chân lênh đênh dưới trời mây. Trên con đường núi dài vắng vẻ, người tù cô đơn và bị bỏ rơi, phải tự mình vượt qua khó khăn và hiểm nguy.
Những hình ảnh mà Hồ Chí Minh sử dụng trong bài thơ này là những biểu tượng cho sự khắc nghiệt của cuộc đời. Đường đi đầy gian truân và hiểm nguy trở thành biểu tượng cho cuộc sống, nơi mà mọi người phải đối mặt với những thử thách và khó khăn không ngừng nghỉ. Nhưng thông qua câu thơ, tác giả cũng truyền tải ý chí và tinh thần kiên cường, khẳng định rằng chỉ có bằng quyết tâm cao và nghị lực lớn mới có thể chiến thắng những khó khăn, và đạt được những thành công vẻ vang.
Bài thơ "Đi đường" không chỉ là một tác phẩm văn chương, mà còn là một tinh thần, một triết lý sống đẹp mà Hồ Chí Minh muốn truyền tải cho đời. Từng câu thơ của bài thơ này mang trong mình sức mạnh và cảm hứng để chúng ta không bao giờ từ bỏ, luôn kiên trì và đối mặt với mọi khó khăn trên con đường phấn đấu của chúng ta. Bài thơ "Đi đường" là một bài học về ý chí và sự hy sinh, là một nguồn động lực cho tất cả chúng ta trong cuộc sống.
"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại, hựu trùng san"
Hai câu thơ kết của bài thơ "Đi đường" vẽ lên hình ảnh một người đi đường đứng trên đỉnh núi cao chót vót, tỏ ra hiên ngang và mạnh mẽ, với một tâm hồn phơi phới niềm vui. Những dòng thơ này mang trong mình sự khát vọng và niềm tin vào khả năng vượt qua khó khăn, chinh phục mọi thử thách của cuộc đời.
Bằng cách sử dụng hình ảnh người đứng trên đỉnh núi, tác giả muốn truyền tải ý nghĩa rằng chỉ có khi chúng ta vượt qua những khó khăn, leo lên đỉnh cao của thành công, mới có thể tận hưởng niềm vui và lòng hân hoan. Điều đó đồng thời cũng mang ý nghĩa sâu sắc về quá trình phấn đấu và sự kiên trì trong cuộc sống. Khi đối mặt với những khó khăn và gian khổ, chỉ có những ai có ý chí và nghị lực vững vàng mới có thể trở thành những người đi đường, vươn lên trên đỉnh thành công và thưởng thức niềm vui của thành quả.
Bài thơ "Đi đường" là một lời nhắc nhở rằng cuộc đời không bao giờ trải nghiệm một con đường thuận lợi và dễ dàng. Chỉ khi chúng ta đối diện và vượt qua những khó khăn, mới có thể trưởng thành và đạt được mục tiêu trong cuộc sống. Đôi khi, con đường đời chính là cuộc cách mạng của chính mình, nơi mà chúng ta phải đối mặt với những thách thức và khó khăn không ngừng nghỉ. Tuy nhiên, bằng lòng dũng cảm và quyết tâm, chúng ta sẽ vượt qua mọi chông gai và đạt được niềm vui và thành công vẻ vang trên con đường đi của mình.
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian."
(Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.)
"Câu thơ thứ ba như một cầu nối, mở rộng mạch thơ tiếp tục diễn tả hình ảnh những dãy núi cao, nhưng một cách cao hơn, vươn tới đỉnh điểm. Nhịp thơ như đánh răng nhanh hơn, khẩn trương hơn, mang trong nó một sự thanh thoát như một cuộc chuẩn bị sẵn sàng. Trong câu thơ, vẫn còn phảng phất âm nhạc tâm hồn khoan khoái, sôi động. Vậy sau đó đã xảy ra điều gì? Một sự gục ngã? Hay một sự chiến thắng? Người đọc đã gỡ bỏ gánh nặng ngàn cân và thở phào nhẹ nhõm khi gặp câu thơ kết: "Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non". Trong một chớp mắt, tình thế đã thay đổi, tâm trạng đã thay đổi. Từ tư thế bị đày đọa và mệt mỏi tưởng như tuyệt vọng, người đi đường khó khăn kia bỗng trở thành một du khách ung dung, say mê ngắm nhìn cảnh thiên nhiên, cảnh đất trời. Câu thơ tả cảnh nhưng không thể che giấu tiếng cười hạnh phúc bên trong, niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua muôn vàn chặng đường khó khăn, đã đi và đã đến với đích, đang đứng trên đỉnh cao vô cùng. Câu thơ mang trong mình một triết lý về cuộc sống: chỉ khi vượt qua khó khăn và thử thách, con người mới có thể đạt được thành công. Câu thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của tâm hồn, ý chí và sức mạnh nghị lực của Hồ Chí Minh: dù khó khăn và vất vả đến đâu, người chiến sĩ ấy vẫn không bỏ cuộc. "Đi đường" chính là con đường mà Người đã theo đuổi để thực hiện lý tưởng cao đẹp. Người đã tự tay mình chấp nhận mọi khó khăn, vượt qua mọi trở ngại. Cách mạng có thể dài và gian khổ, nhưng chắc chắn sẽ chiến thắng.
Bài thơ kết thúc với một ý thơ triết học về một sự thật đơn giản, cụ thể nhưng sâu sắc: đường đi - con đường cuộc sống của mỗi người. Đi đường, chúng ta cần quyết tâm vượt qua những núi đồi, vượt qua mọi trở ngại để đạt được đỉnh cao nhất, đến đích. Bằng cố gắng vượt qua tất cả những thử thách và khó khăn, chúng ta sẽ trưởng thành, sẽ có khả năng kiểm soát được mọi niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống. Chính vì vậy, chỉ trong bốn câu thơ ngắn gọn, súc tích, chúng ta cảm nhận được cả ba khía cạnh của con người Hồ Chí Minh: một nhà triết học, một người chiến sĩ và một nhà thơ.
Bài thơ như một lời ca ngợi ý chí và sự đấu tranh của con người trước những thử thách trong cuộc sống trên hành trình đến với giấc mơ. Dù đã trôi qua hơn nửa thế kỷ kể từ khi bài thơ được sáng tác, nhưng nó vẫn luôn tươi mới với con người, trở thành người bạn đồng hành trên con đường cuộc sống.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 8
Bài thơ "Đi đường" của Hồ Chí Minh được sáng tác trong những năm tháng Bác bị giam cầm, trở thành một phần trong tập thơ "Nhật kí trong tù". Tập thơ này như một đóa hoa xinh đẹp, vô tình được văn học Việt Nam nhặt lên bên đường. Nó mang trong mình một tinh thần "thép" vững chắc, lạc quan và không khuất phục.
Những bài thơ viết trong tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo và mục nát, nhưng lại toát lên một tinh thần ung dung, hào hùng, sắt đá và lạc quan cách mạng không thể lay chuyển. Trong số đó, bài thơ "Đi đường" nổi bật lên.
Bài thơ "Đi đường" mở ra bằng câu chuyện của một con người đang trên hành trình đi qua những núi đồi cao. Đường đi trước mắt đầy khó khăn và gian truân, nhưng con người ấy không chùn bước. Câu thơ đầu tiên nêu lên một câu hỏi: "Ngâm thơ ta vốn không ham". Điều này cho thấy rằng việc sáng tác thơ không phải là mục đích chính trong cuộc sống của người viết. Nhưng trong hoàn cảnh ngục tù, con người ấy tự hỏi: "Nhưng mà trong ngục biết làm sao đây?".
“Tài lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”.
Bài thơ được dịch là:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Bài thơ ra đời trong những năm tháng Bác Hồ bị bắt giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, một thời kỳ khó khăn và gian truân đối với Người. Bác Hồ bị buộc phải rời khỏi nhà lao này để đến nhà lao khác, những cuộc di chuyển đầy gian nan và khổ đau. Hành trình chuyển lao kéo dài, vượt qua những ngọn núi cao trùng điệp và những hẻm núi sâu thẳm, nguy hiểm đến mức chết người. Mặc dù vậy, từ trong cơn đau khổ, tinh thần "thép" của Bác vẫn rực sáng, mang đậm phong cách của Người. Bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" đã tuyệt vời thể hiện điều này.
"Đi đường mới biết gian lao", câu thơ này không chỉ là một nhận định mà còn là một sự thật tất yếu: chỉ khi trải qua cuộc hành trình mới hiểu được những gian khổ, khó khăn của việc đi đường. Vậy những khó khăn, gian truân ấy là những gì?
"Núi cao rồi lại núi cao trập trùng". Đường chuyển lao là tuyến đường đi qua những khu vực núi hiểm trở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Các đỉnh núi liên tiếp, tầng tầng lớp lớp kéo dài đến tận chân trời. Đúng là từ đỉnh núi này lại đến đỉnh núi khác. Vì thế mới có hình ảnh "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng". Trong nguyên bản chữ Hán, nghĩa là "Trùng san chi ngoại hựu trùng san".
"Trùng san" có ý chỉ những tầng núi cao chồng chất; "hựu" có nghĩa là "lại". Câu thơ mang ý nghĩa: núi cao chồng chất bên ngoài lại có núi cao chồng chất. Một câu thơ với hai từ "trùng san", càng có thêm từ "hựu", vì vậy, câu thơ gốc gợi lên hình ảnh những đỉnh núi sắc sảo, cao vút, chạy mãi đến chân trời. Con đường đó chỉ cần nhìn thấy đã khiến ta sợ hãi.
Nếu tù nhân là một người bình thường, chắc chắn họ sẽ bị nỗi sợ hãi làm mất đi sức mạnh và ý chí. Nhưng người tù đó lại là một người cộng sản vĩ đại, Hồ Chí Minh. Vì vậy, hai câu thơ cuối cùng của bài thơ thực sự trở nên hùng vĩ:
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”
Hai câu thơ được dịch khá sát là:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Sau những cung bậc cảm xúc, những gian truân vất vả của cuộc hành trình leo núi, khi đã chinh phục đỉnh cao, Người tù cách mạng được chứng kiến một cảnh tượng vô cùng hùng vĩ, "muôn trùng nước non". Thông thường, trên con đường gian khổ, đồi núi trùng điệp, khi đạt đến đỉnh, con người thường cảm thấy lo lắng, mệt mỏi khi nghĩ đến con đường xuống dốc cheo leo và những ngọn núi ngút ngàn khác. Nhưng Hồ Chí Minh lại có quan điểm khác.
Người cảm nhận niềm tự hào, sung sướng khi đứng từ đỉnh cao ngắm nhìn sự hùng vĩ bao la của nước non và vũ trụ. Hình ảnh "thu vào tầm mắt muôn trùng nước non" thực sự rực rỡ. Nó gợi lên hình ảnh con người nhỏ bé đối diện với sự bao la, trùng điệp của thiên nhiên. Con người đó không bị choáng ngợp trước vẻ kỳ vĩ của đất trời, mà lại cảm thấy vui sướng, xúc động như lần đầu tiên nhìn thấy gương mặt của đất nước. Chính trạng thái cảm xúc ấy đã nâng con người lên tầm cao của nước non.
Mỗi con người, đối diện với một sự thật khách quan, có những cảm nhận riêng. Cảm nhận đó phụ thuộc vào thế giới quan và tinh thần của từng người. Trên con đường gian khổ ấy, Hồ Chí Minh đã có những cảm nhận lạc quan, tươi sáng về cuộc sống. Người không để những khó khăn về thể chất làm mất đi ước mơ, khát vọng và lý tưởng, mà ngược lại, đã vượt qua gian truân để khẳng định ý chí kiên cường, sắt đá và niềm tin vào cách mạng của chính mình. Đó chính là tinh thần thép và vẻ đẹp tâm hồn của Bác.
Bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" không chỉ là một bức tranh về con đường chuyển lao đầy gian khổ và trở ngại, mà đó còn là một bức chân dung tinh thần hùng hồn của Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự phóng khoáng, bình tĩnh của một người lãnh đạo tiên phong và đồng thời cũng thấy được sự kiên cường, lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng.
Vì vậy, bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ "Nhật kí trong tù" thực sự là một viên ngọc quý của văn học Việt Nam, đáng được trân trọng.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 9
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ "Nhật kí trong tù". Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, "Đi đường" ( Tẩu lộ) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao.
Trong 14 tháng bị chính quyền Tưỏng Giới Thạch bắt giam (từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943), Bác đã chuyển đi trên ba chục nhà lao thuộc 13 huyện của tỉnh Quảng tây (Trung Quốc).
Trong cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên cho biết: trong những lần bị áp giải đi ấy, Bác “bị trói giật khuỷu tay cổ mang xiềng xích (...) dầm mưu dãi nắng trèo núi qua truông... Đau khổ như vậy, nhưng Cụ vẫn vui vẻ...”. Bài thơ Đi đường khơi nguồn cảm hứng từ những lần chuyển lao đầy gian khổ ấy. Bài thơ trong nguyên tác bằng chữ Hán, đó là một bài thất ngôn tứ tuyệt (7 chữ, 4 câu).
Sách giáo khoa dùng bản dịch của Nam Trân - đã chuyển thể thơ thất ngôn tứ tuyệt sang thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại, trôi chảy nhưng làm giảm đi giọng điệu rắn rỏi trong nguyên tác.
Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là:
"Có đi đường mới biết đường đi khó,
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác".
Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm: "Là gươm kề tận cổ, súng kề tai - Là thân sống chỉ coi còn một nửa" ("Trâng trối - Tố Hữu). Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ "trùng san" đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ "cao"', dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết:
"Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng".
Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm: "hành lộ nan" đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người "ba mươi năm ấy chân không nghỉ" (Tố Hữu), để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng" mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu:
"Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi...".
(Người đi tìm hình của nước)
Người xưa có nhắc: "Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy" là thế.
Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện - hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót (cao phong hậu) thì muôn dặm nước non (vạn lí dư đồ) thu cả vào tầm mắt:
"Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non".
Ý thơ chính, nay đột ngột bộc lộ ở câu thơ cuối. Thường có hình ảnh gây ấn tượng nhất vì thể hiện ý thơ chính gắn với chủ đề bài thơ. Nghĩa là con đường núi trập trùng, cao chât ngất cũng như con đường đời cũng dài dhng dặc và con đường cách mạng chồng chất gian lao... nhưng không phải là vô tận. Người đi đường không nản chí, biết kiên nhẫn thì rồi cuối cùng sẽ lên đốn đĩnh cao chót vót, sẽ đi tới đích và sẽ đứng trên đỉnh cao của chiến thắng vẻ vang.
Từ trên đỉnh cao ấy, người đi đường có thể ngắm nhìn bao quát cả đất trời bao la: “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ ngụ ý sâu xa: hạnh phúc lớn lao của người cách mạng sau khi giành đưực thắng lợi vẻ vang là đã trải qua bao gian khổ, hi sinh.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 10
Đi đường là bài thơ trong tập Nhật kí trong tù. Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Với bao cay đắng thử thách nặng nề. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt và được Nam Trân dịch thành thơ lục bát:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng!
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Đây là bài thơ mang hàm nghĩa. Tác giả mượn chuyện đi đường để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực lớn mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang.
Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán là:
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
được dịch nghĩa là:
Có đi đường mới biết đường đi khó,
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác.
Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm song ở đời, đó là chuyên đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm: là gươm kề tận cổ, súng kề tai – là thân sống chỉ coi còn một nửa (Trăng trối – Tối Hữu). Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ trùng san đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất; người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ cao dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.
Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới: ý niệm: hành lộ nan đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người ba mươi năm ấy chân không nghỉ (Tố Hữu), để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có Núi cao rồi lại núi cao trập trùng mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu:
Người xưa có nhắc: “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy phải biết con người ấy là thế”.
Hai câu cuối được cấu trúc trên mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót (cao phong hậu) thì muôn dặm nước non (vạn lí dư đồ) thu cả vào tầm mắt:
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Muôn vượt qua các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học đi đường thật là vô giá đối với bất cứ ai.
Nhật kí trong tù có nhiều bài thơ viết về đề tài đi đường như Thế lộ nan, Tẩu lộ, Lộ thượng,… Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt:
Núi cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp người bị tống lao.
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thể khó khăn hơn.
Bài thơ Đi đường cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con dường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ Đi đường trở thành hành trang cho mỗi chúng ta có thêm sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình.
Cảm nhận bài thơ Đi đường - mẫu 11
Nhắc tới Chủ tịch Hồ Chí Minh ta không chỉ nhắc tới nhà cách mạng vĩ đại mà còn là nhắc tới một nhà thơ với những áng văn chương để lại nhiều giá trị và ý nghĩa. Trong số đó chúng ta không thể không nhắc tới bài thơ “Đi đường”. Đây là bài thơ được trích trong tập “Nhật kí trong tù”, khi ấy Bác đang trên đường đến nhà tù tỉnh Quảng Tây, Trung QUốc và Bác đã sáng tác bài thơ. Bài thơ không chỉ đơn thuần là miêu tả lại cảnh đi đường của Bác mà đây là một bài thơ ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Ở đây, Bác đã mượn chuyện đi đường để đưa đến bài học vô cùng ý nghĩa. Trên đường đời ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm và vất vả, chính vì thế phải có nghị lực, sự dũng cảm thì mới có thể thành công, chinh phục được đỉnh cao. Con đường Bác nhắc tới không phải chỉ là đường đi, đường đời mà còn chính là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm.Và khi ta đã vượt qua được những khó khăn ấy rồi thì ta sẽ “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Như vậy, bài thơ “Đi đường” đã mang đến ta những bài học ý nghĩa. Từ đó có thể khẳng định được tài năng của Bác thật tuyệt vời.
Xem thêm các bài Văn mẫu thuyết minh, phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 8 khác:
Mục lục Văn mẫu | Văn hay lớp 8 theo từng phần:
- Mục lục Văn phân tích, phát biểu cảm nghĩ, cảm nhận
- Mục lục Văn biểu cảm
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn nghị luận
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 6-8 cho phụ huynh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 8 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 8 và Những bài văn hay lớp 8 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 8 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 8 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 8 Friends plus
- Lớp 8 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 8 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 8 (ngắn nhất) KNTT
- Giải sgk Toán 8 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 8 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 8 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - KNTT
- Giải sgk Tin học 8 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 8 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 8 - KNTT
- Lớp 8 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 8 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 8 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 8 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 8 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 8 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - CTST
- Giải sgk Tin học 8 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 8 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 8 - CTST
- Lớp 8 - Cánh diều
- Soạn văn 8 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 8 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 8 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 8 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 8 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 8 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 8 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 8 - Cánh diều