30+ Thuyết minh về loài cây (hay, ngắn gọn)
Bài văn Thuyết minh về loài cây lớp 8 hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn huyết minh về loài cây ăn quả hay hơn.
- Thuyết minh về loài cây - cây ổi
- Dàn ý Thuyết minh về loài cây
- Thuyết minh về loài cây - cây nhãn
- Thuyết minh về loài cây - cây dừa
- Thuyết minh về loài cây - cây chuối
- Thuyết minh về loài cây - cây vải
- Thuyết minh về loài cây - cây xoài
- Thuyết minh về loài cây - cây mít
- Thuyết minh về loài cây - cây sầu riêng
- Thuyết minh về loài cây - cây dừa
- Thuyết minh về loài cây - cây vải thiều
30+ Thuyết minh về loài cây (hay, ngắn gọn)
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây ổi
Trên khắp mọi miền của đất nước Việt Nam thân yêu, nơi đâu cũng ngập tràn hoa thơm trái ngọt. Mỗi vùng miền lại có những loại quả đặc trưng khác nhau, mang hương vị khác nhau. Ổi cũng là một trong những loại quả được nhiều người yêu thích nhất. Cây ổi là loại cây ăn quả phổ biến ở nước ta.
Cây ổi từ lâu đã trở nên quen thuộc trong đời sống của người dân Việt Nam, đặc biệt là ở các vùng nông thôn giản dị, thanh bình. Là một thành viên thuộc dòng họ Sim, cây ổi là loài cây ăn quả thường xanh lâu năm. Nó có nguồn gốc từ Brasil và những miền nhiệt đới châu Mỹ, rồi lan tới những vùng nhiệt đới châu Á. Không ai rõ thời điểm cây ổi xuất hiện ở Việt Nam chính xác là bao giờ, chỉ biết rằng từ rất lâu trước kia, cây ổi đã mọc hoang dại ở nhiều vùng rừng núi hoặc được đem trồng trong vườn, xung quanh nhà ở để lấy quả ăn.
Nhà ổi có rất nhiều anh em, không chỉ có những giống ổi phổ biến như ổi găng, ổi thóc mà còn có cả ổi trâu, ổi bo, ổi đào, ổi mỡ, ổi nghệ…những cái tên rất thú vị và có vẻ kỳ lạ. Đặc biệt là ổi đào, ổi nghệ tuy quả không to như ổi trâu, ổi bo…nhưng rất ngọt và thơm.
Xét về hình thể cùng anh em nhà vải và nhãn, xoài, cây ổi nhỏ bé hơn. Chiều cao trung bình chỉ hoảng 6 – 7 m, có cây cao nhất sẽ lên tới 10 m, đường kính thân tối đa chỉ khoảng 30cm. Những giống ổi mới còn nhỏ và lùn hơn thế nữa. Cây ổi ra cành và nhánh sớm nên thân nó chắc khỏe và ngắn, bù lại thân cây ấy nhẵn nhụi, chẳng mấy khi bị sâu đục rỗng như nhãn, vải…Khi vỏ già rồi tróc ra bên dưới còn có một lớp vỏ mới cũng nhẵn, màu xám xám xanh xanh rất đẹp. Rễ cây mọc thành chùm, bám vào nhau đâm sâu xuống lòng đất để hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Cây ổi có rất nhiều cành, trên cành đầy những lá xanh hình bầu dục, nhỏ bằng khoảng nửa bàn tay. Trên mỗi chiếc lá lại có những đường gân xếp đều tăm tắp, nhẹ tay sờ vào cũng thấy ram ráp. Lá ổi có mùi thơm dịu nhẹ rất dễ chịu.
Ổi cũng ra hoa rồi mới kết trái như những cây ăn quả thông thường khác. Hoa ổi màu trắng, moc thành từng chùm khoảng 2 – 3 bông, thường mọc ở nách lá mà không phải đầu cành. Hoa có 5 cánh trắng bao bọc lấy nhụy vàng bên trong với nhiều hạt phấn nhỏ. Mùa ổi ra hoa là vào tháng 3 – tháng 4 cuối xuân đầu hạ. Nhưng đến thời điểm giao mùa thu độ tháng 8 – tháng 9 thì mới đến mùa quả. Qủa ổi là loại quả trông mọng, hình dáng không cố định mà thay đổi theo từng giống, hình cầu, hình trứng hoặc hình quả lê đều có, rất đa dạng, bắt mắt. Qủa ổi lớn hay nhỏ cũng phụ thuộc vào giống, như giống ổi thóc nhỏ bé chỉ bằng một nửa ổi găng, ổi đào lại to hơn, có giống ổi còn to như quả lê. Trên đầu mỗi quả luôn có một vết sẹo do cuống ổi, vỏ quả ổi mỏng, mịn, thịt quả bên trong dày màu trắng, hồng, vàng… Ổi là giống quả có khá nhiều hạt, sau này người ta nghiên cứu thêm mới cho ra đời những giống quả không hạt. Vị quả ngọt thanh thanh, thêm thịt cùi giòn, kết hợp với nhau tạo ra hương vị đặc biệt chỉ có ở quả ổi.
Không phải tự nhiên mà cây ổi trở nên thân thuộc trong đời sống của con người Việt Nam. Nó không chỉ đem đến những giá trị từ quả ổi với vai trò của một cây ăn trái mà còn có nhiều giá trị khác. Qủa ổi có hương vị ngọt thơm, là loại trái cây mà nhiều người yêu thích. Thậm chí được đưa đến các thị trường thế giới và nhận được sư phản hồi tích cực. Ổi hái từ trên cây xuống có thể thưởng thức ngay hay chế biến thành những miếng mứt ngọt ngọt thơm thơm, ép ra thành nước ổi đóng hộp, làm kẹo…Các bộ phận trên cây như búp non, lá non, quả, vỏ thân hoặc rễ đều có công dụng chữa bệnh, dùng làm các vị thuốc lành tính, an toàn. Trong y dược cổ truyền của dân tộc, lá ổi có thể giải độc, quả ổi vừa ngon, vừa đẹp da lại có tác dụng tiêu thực. Dân gian xưa còn dùng lá non và búp ổi để chữa đau bụng, dùng lá tươi cho những vết thương bầm dập, chảy máu… Và rất nhiều công dụng khác.
Ngày nay, khoa học kĩ thuật phát triển, có rất nhiều loại cây ăn quả ra đời nhưng người ta vẫn dành tình cảm đặc biệt cho cây ổi. Mỗi dịp Tết Nguyên Đán, tết Trung Thu trên mâm hoa quả chẳng bao giờ thiếu bóng dáng loại quả xanh và ngọt này. Cây ổi vì lẽ đó chính là một phần trong cuộc sống của nhân dân ta, cần được trân trọng, giữ gìn.
Dàn ý Thuyết minh về loài cây ăn quả
I. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về cây nhãn lồng và đặc sản quả nhãn lồng Hưng Yên
II. Thân bài:
- Nguồn gốc cây nhãn:
+ Là cây cận nhiệt đới, nguồn gốc từ Trung Quốc
+ Có nhiều loại nhãn nhưng ngon nhất là nhãn lồng, ở Việt Nam Hưng Yên là vùng trồng nhãn lồng ngon nhất.
- Đặc điểm cây nhãn:
+ Cây cao 5-10 mét, vỏ xù xì, nhiều cành.
+ Lá kép hình lông chim.
+ Mùa hoa từ tháng 2 - 4, hoa màu vàng nhạt mọc thành chùm.
III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận của em về nhãn lồng Hưng Yên.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây nhãn lồng
Hạ vừa là mùa của nắng của gió lại vừa là mùa nở rộ của biết bao nhiêu loại trái cây thơm ngon. Là xoài vàng ươm chín ngọt, là sấu xanh chua chua, là mít thơm lừng ngọt sắc, và còn là nhãn dịu nhẹ mà thơm giòn. Nhãn là loài cây, là thức trái quen thuộc và gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ.
Ở nước ta nổi tiếng nhất là nhãn lồng Hưng Yên, mùa vụ của loại nhãn này thường từ cuối tháng tám đến cuối tháng chín. Còn với nhãn nói chung thì mùa vụ là khoảng tháng bảy, đến tháng tám là thời điểm nhãn chín rộ. Nhãn là cây thân gỗ, cao từ năm đến mười mét, vững chắc. Từ thân, cây mọc ra nhiều cành cây như những cánh tay với những tầng lá rậm rạp.Cũng giống như phượng, lá nhãn là loại kép hình lông chim, các lá mọc so le hai bên gân chính, mỗi lá kép thường có năm đến chín lá đơn. Trên nền xanh của lá còn điểm xuyết sắc vàng nhàn nhạt của hoa nhãn. Hoa nhãn nhỏ xíu như sao nhưng vẫn dễ dàng được nhìn thấy cũng như ngôi sao luôn tỏa sáng trên bầu trời xanh mát, thường mọc thành chùm ở đầu cành hoặc xen vào các kẽ lá. Có hoa thì sẽ có quả, khi hoa nhãn già rồi rụng xuống thì quả nhãn bắt đầu đâm trổ thành những quả bé xíu như chỉ có vỏ với hạt. Vỏ nhãn màu nâu nhạt hoặc vàng xám, nhẵn. Hạt nhãn đen nhánh. Trong phiên âm từ tiếng Trung ra tiếng Hán Việt, nhãn được gọi là “long nhãn”, nghĩa là “mắt rồng” cũng chính bởi màu đen của hạt trồng và hình dáng tròn trông như mắt rồng. Nằm giữa lớp vỏ mỏng bao bên ngoài và hạt là lớp cùi nhãn có màu trắng ngà, hơi trong.
Nhãn cũng có nhiều loại, các loại nhãn thường có sự khác biệt ở quả, đặc biệt là phần cùi nhãn. Nhãn xuồng cơm vàng là giống nhãn có gốc ở Vũng Tàu nước ta, cùi dày và có màu vàng trong, ít nước, vị ngọt và giòn sần sật. Nhãn tiêu da bò thì có nguồn gốc ở Huế, quả nhỏ. Nhãn lồng Hưng Yên thì quả to, vỏ không nhẵn mà hơi gai, dày và màu vàng sậm đặc trưng. Cùi nhãn dày, khô, mọng nước và hạt nhãn nhỏ. Loại nhãn này có vị ngọt của đường phèn. Đây là loại nhãn có giá thành khá đắt nhưng bởi những lợi thế về quả và hương vị thơm ngọt nên rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, đây cũng là loại nhãn bị “làm giả” nhiều nhất khi có nhiều thương lái dùng loại nhãn Trung Quốc hay nhãn Thái Lan và lừa gạt người mua hàng rằng đó là nhãn lông Hưng Yên, gây nhiều thiệt hại về tiền bạc và lòng tin của người mua.
Là cây cho quả nên quả nhãn là loại thực phẩm, được ăn trực tiếp mà không phải qua chế biến. Bên cạnh đó thì nhãn cũng được nấu thành chè, làm nhãn sấy khô để sử dụng quanh năm do nhãn chỉ có một mùa vụ trong một năm, là nguyên liệu làm bánh nhãn, … Nhãn cũng là một loại thuốc đông y hỗ trợ trong việc điều trị các bệnh như bệnh hay quên, thần kinh kém, suy nhược, khó ngủ,…Nhãn là loại quả chứa nhiều vitamin C giúp chống các bệnh cao huyết áp, bệnh tim hoặc các bệnh về xương khớp. Vì tác dụng và chất dinh dưỡng nó bao chứa nên nhãn được nhiều người yêu thích.
“Đêm. Hương nhãn đặc lại
Thơm ngoài sân trong nhà
Mẹ em nằm thao thức
Nhớ anh đang đi xa...”
( “Hương nhãn” Trần Đăng Khoa )
Cây nhãn là một hình ảnh quen thuộc của làng quê với những vườn nhãn xanh mướt quanh năm, với những chùm quả lúc lắc trên cành vào mùa nhãn chín. Mùa hè nóng nực mà được thưởng thức những trái nhãn ngọt sắc lịm với hương thơm dễ chịu, cảm nhận những cùi nhãn dày mọng nước thì còn gì bằng.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây dừa
Dừa là loại cây dễ trồng ở nước ta. Xu hướng dùng hàng thủ công mĩ nghệ từ cây dừa ngày càng được ưa chuộng trên thế giới. Các sản phẩm từ dừa đang có tiềm năng xuất khẩu rất lớn, đem nhiều ngoại tệ về cho đất nước.
Dừa được trồng rải rác khắp các làng quê Nam Bộ, nhiều nhất là ở tỉnh Bến Tre, Bình Định. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu của cây dừa rất lớn, đã hình thành cả công nghệ chế biến: Ngâm tẩm chống mối, tạo dáng, đánh bóng, phủ lớp nhựa chống thấm lên bề mặt sản phẩm.
Xu hướng dùng hàng thủ công mỹ nghệ từ cây dừa: Giỏ xách, dĩa, chén, bình, tách, đũa, khay, hộp. Ở các nước phương Tây ngày càng được ưa chuộng.
Từ dừa có thể làm vô vàn thứ: cọng dừa tước bỏ lá, đan giỏ xách, làm chổi; gáo dừa làm than hoạt tính, làm chén, dĩa, tô, thân dừa lão làm đũa, làm cột nhà, vỏ dừa làm dây buộc. Mùa nắng nước dừa là một thứ giải khát tuyệt chiêu vừa sạch vừa bổ. Cơm dừa già làm nguyên liệu chế biến các món ăn và thức uống, nấu dầu dừa và chế biến xà phòng. Nước ta chê biến được nhiều sản phẩm như: bánh dừa, kẹo dừa, các loại mứt dừa và còn nhiều món ăn truyền thống dân tộc chế biến từ dừa: Bánh tét, chuối nướng.
Đặc biệt, nước dừa được tạo thành sản phẩm thông qua quy trình công nghệ sinh học. Nước dừa nuôi nấm men Saccharomyces tạo ra prô-tê-in đơn bào bổ sung nguồn đạm thực vật dùng cho người. Giấm ăn hoặc các sản phẩm nước uống lên men từ nước dừa như nước giải khát đóng chai, nước dừa có ga. Nước dừa còn chế biến thành rượu có hương vị đặc trưng. Nước cốt dừa tạo sữa dừa đóng hộp, sản phẩm chiết từ cơm dừa nạo chế biến sữa đặc có đường. Gần đây các nhà khoa học còn dùng vi khuẩn tạo ra thạch dừa.
Thạch dừa là đặc sản ăn vừa dai, vừa giòn, góp phần tăng cường các chất xơ giúp cơ thể bài tiết, kích thích tiêu hóa, gây cảm giác khoái khẩu.
Doanh nghiệp Trường Ngân ở Bến Tre đã thành công trong việc tìm được thị trường riêng cho sản phẩm của mình bằng hàng trăm mặt hàng gia dụng như: Giỏ xách đi chợ, giỏ đựng hoa (lẵng hoa) và đựng quà cáp, rổ rá, bình hoa, cùng nhiều chủng loại: Tách, chén, dĩa, khay trà và đồ dùng trang trí nội thất khác như: Voi khỉ, ngựa, gà, và các tranh treo tường.
Sản phẩm dừa của Trường Ngân đã có mặt tại một số cửa hàng lớn ở Đài Loan, Nhật, Mĩ, Ca-na-đa, từ những dụng cụ bếp núc, đồ gia dụng: Hộp đựng hành, tỏi, khay đựng trái cây, bộ bàn ghế nhỏ, đến những dụng cụ văn phòng: Hộp đựng viết, khay đựng giấy tờ, hộp đựng danh thiếp, kệ đựng sách báo, kệ đựng đĩa nhạc CD. Mỗi tháng cơ sở Trường Ngân xuất xưởng ít nhất là 30 sản phẩm từ cây dừa lão, chào hàng khách nước ngoài thu về một khoản tiền lớn.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây chuối
Nhắc đến Việt Nam là không thể không nhắc đến nhắc đến hình ảnh cây chuối. Chuối là một loài cây rất mực thân quen và gần gũi trong đời sống con người. Từ khắp mọi nẻo đường, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh tàu lá chuối xanh tốt. Cây chuối đóng góp một vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân.
Cây chuối thuộc họ chuối, là một loại cây ăn trái vốn được thuần hóa từ lâu đời. Cây chuối có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Đến nay, người ta ước tính có khoảng 300 giống chuối được trồng và sử dụng trên khắp thế giới. Cây chuối ở Việt Nam có nguồn gốc từ giống chuối hoang dại. Cây chuối được trồng nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ, ở rừng, ở những khe suối hay thung lũng. Chuối được phân thành nhiều loại. Về cơ bản có chuối ăn quả, chuối lấy lá. Ở Việt Nam có một số loại chuối phổ biến như chuối tiêu, chuối tây, chuối ngự, chuối ngự, chuối sứ, chuối bom, chuối quạ,…Một số loại chuối nhập khẩu từ nước ngoài như chuối Laba (Pháp), chuối Dacca (Trung Mỹ)…
Chuối là loại cây có thân ngầm. Phần thân chính nằm dưới đất gọi là củ chuối. Phía trên chỉ là một thân giả mọc thẳng đứng và tròn, được tạo thành từ nhiều lớp bẹ xếp khít vào nhau, bên trong hơi xốp, bề mặt trơn bóng và nhẵn. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Ban đầu, những chiếc nõn chuối còn xanh non, sau đó lá xòe ra có màu xanh đậm hơn. Khi già, lá ngả dần về màu vàng đất, rũ xuống để nhường chỗ cho là tươi mới. Khi cây chuối trưởng thành, nó bắt đầu trổ buồng. Mỗi cây chuối đều có một buồng, mỗi buồng gồm nhiều nải mỗi nải có nhiều quả. Buồng chuối mọc từ hoa từ thân ra. Giữa tán lá xanh mát, hoa chuối như ngọn lửa hồng chiếu sáng cả vòm lá xanh. Nhiều hoa chuối có thể lên đến gần 20 nghìn cái. Hoa sắp thành hai hàng theo kiểu xoắn tạo thành nải chuối. Sau đó những chiếc bẹ rụng dần là lúc những nải chuối con xuất hiện. Khi chuối còn xanh thì có màu xanh đậm còn khi chín thì ngả sang màu vàng.
Trong đời sống nhân dân Việt Nam, chuối là một loại cây hữu dụng từ thân, lá đến hoa, quả. Quả chuối cung cấp hàm lượng đường cần thiết cho cơ thể hoạt động. Chuối ăn dễ tiêu hóa, vừa sáng mắt lại tốt cho da, làm cho làn da luôn sáng mịn. Thân chuối có thể làm thức ăn cho trâu, bò, lợn rất tốt. Thân chuối non cùng củ chuối có thể thái ra ăn kèm với ốc, lươn để khử tanh rất tốt, lại có thể làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Lá chuối có thể dùng để gói bánh, gói xôi,.. lá chuối khô có thể làm chất đốt. Người ta có thể dùng hoa chuối đã nở hết buồng để làm nộm hoặc để luộc. Chuối là thức quả để thắp hương trong các ngày lễ, tết. Trong ngày rằm hoặc mùng một, người ta dùng chuối chín. Chuối là loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả ngày Tết.
Chuối là loại cây khá dễ sống ưa đất phù sa, đất bãi ven sông. Quá trình sinh trưởng của một cây chuối không dài khoảng một năm. Mỗi cây chuối chỉ một lần trổ buồng, sau khi thu hoạch người ta chặt cây đào gốc lên để cho cây con phát triển.một cây chuối mẹ có thể đẻ nhiều cây chuối con rồi đẻ nhiều cây chuối cháu,sinh trưởng rất nhanh. Vì dễ trồng lại nhanh cho quả nên chuối được người nông dân ưa chuộng. Nếu không may chuối bị sâu có thể cắt bỏ lá sâu, bắt sâu. Nếu chuối ra buồng cần phải chống cho cây khỏi đổ. Khi thu hoạch cần phải nhẹ nhàng tránh rơi gãy.
Bên cạnh những loại cây gần gũi như trầu, cau, dừa,… thì chuối còn tượng trưng cho sự bình dị, thanh bình của làng quê. Cây chuối có từ ngàn đời. Nó dâng hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất của mình cho con người. Cây chuối là nét đẹp thanh bình của thiên nhiên, của đất mẹ, của nông thôn Việt Nam.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây vải
Hẳn mùa hè không thể thiếu hương vị của những trái vải ngọt lịm, đậm đà làm ngọt và say trái tim hồng của mỗi người đúng không nào. Cây vải là một cây ăn quả đã rất gần gũi và thân quen với người dân Việt Nam. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về nó nhé.
Vải được trồng nhiều tại miền nam Trung Quốc cũng như ở khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ, miền nam Nhật Bản và gần đây là tại Florida và Hawaii (Hoa Kỳ) cũng như các khu vực ẩm ướt thuộc miền đông Australia. Cây vải với người dân Việt ta là một trong những loại cây ăn quả được ưa chuộng rộng rãi và rất dễ phù hợp khẩu vị của đại đa số người tiêu dùng. Cây vải thường cao khoảng 5-10 m, có thể hơn tùy thuộc vào từng loại vải, từng giống cây và cách chăm bón khác nhau mà cho ra những cây có chất lượng không giống nhau. Thân cây vải màu nâu, xù xì và khá thô ráp. Lá vải giống lông chim, mọc so le với nhau, không có lá chét con. Hao vải màu trắng nhỏ li ti, mùi thơm nồng gần giống như hoa nhãn. Quả vải khi chín có màu đỏ sẫm ở vỏ, bên trong là lớp cùi dày, căng mọng đậm đà rất dễ làm mê đắm lòng người. Quả vải đã từng được Lê Quý Đôn khen ngợi: “Quả vải vừa ngon, vừa đẹp, cổ nhân đã ngợi khen: mã ngoài như lụa hồng, tơ tía, thịt vải như thủy tinh, như giáng tuyết. Bạch Lạc Thiên, Thái Quân Mô đều đã ngợi khen trong các sách đồ phả, tự ký. Nước Nam nhiều vải nhất, nhất là vải sản xuất ở xã An Nhân, huyện Đường Hào là thật ngon: vừa ngọt, vừa thơm, không thể nói hết được...”
Vải cần có khí hậu nóng vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới không có sương giá hoặc chỉ có mùa đông rét nhẹ với nhiệt độ không xuống dưới -4 °C và với mùa hè nóng bức, nhiều mưa và độ ẩm cao. Nó phát triển tốt trên các loại đất thoát nước tốt, hơi chua và giàu chất hữu cơ (mùn). Có nhiều giống cây trồng, với các giống chín sớm thích hợp với khí hậu nóng hơn còn các giống chín muộn thích hợp với khí hậu mát hơn. Ở một vài nơi người ta còn trồng vải làm cây cảnh. Giống vải được ưa chuộng nhất ở Việt Nam là vải thiều trồng tại khu vực huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, vải được trồng nhiều nhất ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Quả vải tại vùng Thanh Hà (Hải Dương) thông thường có hương vị thơm và ngọt hơn vải được trồng ở các khu vực khác (mặc dù cũng lấy giống từ đây). Một giống vải khác chín sớm hơn, có tên gọi dân gian là "vải tu hú", có hạt to hơn và vị chua hơn so với vải thiều. Nguyên do có tên gọi như vậy có lẽ là vì gắn liền với sự trở lại của một loài chim di cư là chim tu hú. Vải ra hoa vào tháng 3 dương lịch và chín vào tháng 6. Thời điểm vải chín rộ thường bắt đầu từ giữa tháng 6 tới giữa tháng 7. Khoảng thời gian thu hoạch vải thiều thường ngắn, khoảng 2 tuần.
Cây vải có rất nhiều công dụng. vải tươi dùng để ăn trực tiếp, có thể làm món tráng miệng, làm các loại bánh kem, kẹo ngọt hay bánh tươi hương vải mùi vị rất thơm và ngọt. Ngoài ra, ngày càng phát triển, các sản phẩm đa dạng của vải cũng được ứng dụng nhiều trong sản xuất, phong phú hơn cho người tiêu dùng như vải sấy khô, ướp lạnh, tẩm gia vị rất hấp dẫn. Tuy nhiên giống vải thiều vẫn nổi tiếng nhất ở nước ta bởi chất lượng của nó, cùi dày chín mọng và ngọt lịm.
Cây vải cũng cần có quy trình chăm sóc đạt chuẩn để cây phát triển bình thường. Cây vải có thể trồng trên nhiều loại đất như đất đỏ, đất vàng, đất cát pha, đất phù sa, đất thịt. Yêu cầu quan trọng nhất của đất trồng vải là phải thoát nước, tầng đất dày. Trước khi trồng nên bón lót với phân chuồng mục, vôi rồi phơi ải khoảng 15-20 ngày nhằm loại trừ các mầm bệnh gây hại cho cây. Cần cung cấp đủ nước cho cây vải nhất là trong mùa khô, khi trái đang lớn và lúc quả sắp chín. Phủ cỏ, rác, phân xanh xung quanh gốc cây để tránh cỏ dại. Mỗi năm làm cỏ khoảng 2 lần vào vụ Xuân tháng (tháng 1-2) và vụ Thu. Hàng năm bón phân khoảng 4 đợt cho cây vải. Với những đặc điểm này hi vọng rằng bạn sẽ trồng cây vải của mình thật tốt nhé.
Cây vải đã trở thành loài cây thân thuộc và gần gũi với hương vị của nó vào mùa hè trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Hi vọng rằng cây vải sẽ ngày càng được phát triển ở cả thị trường tiêu dùng trong và ngoài nước.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây xoài
Việt Nam muôn nghìn cây trái khác nhau, loài cây nào cũng mang đến những lợi ích riêng đối với đời sống con người. Có những loại cây trồng đem lại nguồn gỗ quý cũng có những loại cây đen lại giá trị kinh tế cao, nhiều loại cây khác thì được dùng làm thuốc. Trong số đó, có thể kể đến một loài cây thu trái có giá trị xuất khẩu- cây xoài.
Xoài là một loại cây có vị ngọt thuộc chi xoài. Cây được biết đến có nguồn gốc từ Nam Á và Đông Nam Á. Vì đây là một loại cây tương đối được ưa chuộng, nên cây được trồng trên toàn thế giới hiện nay. Xoài là giống cây quen thuộc của làng quê, sinh trưởng và phát triển tốt ở những nơi có khí hậu nhiệt đới ẩm, nhiệt độ sinh trưởng tốt nhất của xoài là từ 24 cho tới 27 độ. Cây không kén đất nên thích hợp trồng ở nhiều loại đất khác nhau.
Xoài là một loại cây thân gỗ, rễ thuộc loại rễ cọc, có thể ăn sâu xuống dưới đất 2m. Tùy từng loại khác nhau mà cây có độ cao khác nhau, độ cao trung bình của cây là từ 1,5 cho tới 2,5 m. Chiều cao của cây sẽ tỉ lệ thuận với độ dinh dưỡng của đất. Nếu như cây được trồng ở những vùng khí hậu thuận lợi, trong một khoảng đất thích hợp, cây phát triển càng cao. Tán cây rộng, hình vòm. Tùy theo từng giống xoài khác nhau mà tán cây có thể có độ rộng khác nhau. Lá xoài có màu xanh, mọc so le với nhau trên cành và thuôn dài. Mặt dưới của lá do không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời ít nên có màu xanh nhạt hơn. Lá có gân giữa và các nhánh gân nhỏ nhỏ mọc ra hai bên như hình xương cá. Hoa xoài không nở từng bông riêng biệt mà mọc thành từng chùm với nhiều bông hoa nhỏ, mỗi chùm hoa bao gồm cả hoa đực lẫn hoa cái. Hoa xoài thường có màu trắng. Trên cây xoài, quả xoài mang lại giá trị cao nhất. Đây là một loại quả có hột, quả xoài thuôn dài và phình to hơn ở đầu, khi còn non, quả xoài có màu xanh. Khi chín, vỏ xoài chuyển sang màu vàng. Phần thịt xoài dày và có màu cam đẹp mắt, khi ăn xoài có vị chua chua ngọt ngọt thanh mát rất được nhiều người ưa thích.
Mặc dù xoài không phải là một cây cảnh đẹp, tuy nhiên tại các quán cà phê hay tại các hộ gia đình người ta vẫn trồng cây xoài với tác dụng làm bóng mát và mang lại không khí trong lành. Phần thân cây và cành cây, lá cây khi khô có thể được sử dụng làm chất đốt. Qủa xoài là một loại quả có mùi vị thơm ngon, thích hợp để làm các món tráng miệng, hoa quả ăn trực tiếp, ngoài ra xoài chín còn là nguyên liệu để chế biến cho nhiều món ăn khác nhau như làm sinh tố làm kem bánh kẹo. Đặc biệt tại Thái Lan, xoài còn là nguyên liệu chính cho một món xôi rất nổi tiếng- xôi xoài. Quả xoài còn xanh có thể làm nguyên liệu cho món xoài dầm hay nộm tôm xoài rất ngon. Đối với Việt Nam, xoài có giá trị xuất khẩu mang đến lợi ích kinh tế cao đối với các hội gia đình.
Xoài không phải là một loại cây khó trồng và chăm sóc, tuy nhiên để cây phát triển tốt nhất người trồng cần lưu ý phòng trừ sâu bệnh kịp thời cho cây, làm cỏ dưới gốc cây để cây có thể phát triển một cách tốt nhất. Ngoài ra việc quan trọng đối với người trồng xoài đó là cần có biện pháp bảo vệ các loại hoa và các loại quả non. Xoài cũng là một loại cây ưa ánh sáng vì vậy người trồng nên tránh trồng xoài với một mật độ quá dày để đảm bảo cho cây luôn xanh tốt nhất. Việc bón phân cho xoài cũng nên theo chu kỳ đều đặn.
Xoài một loại cây ăn quả quen thuộc và gần gũi. Cây gắn bó với tuổi thơ của mỗi con người. Đối với người dân Việt Nam, nhắc đến xoài không phải là chỉ nhắc đến một loài cây có quả ngon mà còn là nhắc đến một người bạn tâm tình. Hiểu được điều đó để chúng ta càng thêm yêu quý trân trọng những giá trị mà cây xoài đem lại.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây mít
“Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng”
Đó là quê hương trong trái tim rất nhiều người. Còn quê hương trong trái tim tôi là hương mít chín thơm lừng, ngọt ngào mê say. Cây mít là loài cây đặc trưng của làng quê bình dị nơi tôi sinh ra.
Mít là một loại cây ăn quả, mọc phổ biến ở Đông Nam Á và Brasil. Mít thuộc họ Dâu tằm và được cho là có nguồn gốc từ Ấn Độ và Băng – la - đét. Ở mỗi vùng miền hay quốc gia khác nhau thì quả mít lại mang một hương vị rất riêng. Khắp mọi miền trên đất nước ta, ở nơi nào cũng trồng được mít. Tuy nhiên mít được trồng chủ yếu ở nông thông, và có nhiều nhất ở vùng Hà Tĩnh, Quảng Trị và Tây Nguyên. Mít có nhiều loại: mít dai, mít mật, mít mỡ, mít tố nữ. Mít tố nữ quả nhỏ tròn, ngọt ngon là loại mít được ưa chuộng nhất.
Về đặc điểm, cây Mít thuộc loại cây thân gỗ, có chiều cao từ 8 đến 15m, bộ rễ gắn sâu, chống hạn tốt, nhưng muốn mít có sản lượng cao thì người ta hay trồng ở những vùng có lượng mưa nhiều từ 1.000 mm trở lên, nếu không tưới. Ngược lại, cây Mít chống úng kém. Vào những năm bị lụt, trên vùng đất bị úng, mít là cây chết trước tiên. Lá mít tương tự như lá đa, chỉ khác là mịn hơn không có lông mịn như trên mặt lá đa, có mùi thơm nhẹ rất đặc biệt.
Mít trồng xuống đất, chăm sóc sau ba năm mới bắt đầu ra quả. Qủa mít hình bầu dục, cũng có một số cây cho quả tròn, nhưng mít thường có kích thước dài 30 – 60 rộng 20 – 30 cm, nặng khoảng vài cân, có quả to nặng đến hai, ba yến. Ngoài vỏ quả có những chiếc gai hình lục giác nhô lên, đều tăm tắp. Các múi xếp thành lớp hình những chiếc túi, nhiều có thể lên tới vài trăm múi to như quả táo; mỗi múi lại có một hạt màu vàng sẫm. Bà Chúa thơ Nôm từng sáng tác những câu thơ rất hóm hỉnh: “Thân em như quả mít trên cây – Da nó xù xì, múi nó dày” miêu tả vẻ ngoài của quả mít. Mít chín có vị ngọt, đặc biệt tỏa mùi thơm, từ trong nhà có thể ngửi thấy mùi mít chín ngoài vườn. Qủa mít có nhiều nhựa. Ở quê tôi, khi mít chín cắt xuống không bổ ra ngay mà để nguyên quả rồi dùng một thanh gỗ vót nhọn một đầu, đem đóng vào cuống mít để cho chảy bớt nhựa. Đợi thêm hai ba hôm sau, mới bổ mít ra thì bớt dính nhựa. Nếu còn nhựa thì dùng lá khoai không thấm nước hoặc lá gấc để lau bớt. Mít ra quả vào khoảng giữa mùa xuân và chín vào giữa và cuối mùa hè khoảng tháng 7 - 8.
Trong đời sống của con người, mít có rất nhiều giá trị. Mít là loại quả nhiều người yêu thích bởi hương vị của nó. Các múi mít chín có thể ăn tươi, có vị rất ngọt do có hàm lượng đường như glucoza, fructoza cao (10-15%). Người ta dùng mít chế biến nhiều món khác nhau, ở Huế có món mít trộn với tôm, hành, nước mắm ăn kèm với bánh tráng nướng. Quả mít non có thể sử dụng như rau để nấu canh, kho với cá, xào với thịt, làm gỏi. Múi mít chín làm sữa chua mít mát lạnh mùa hè, mứt mít, mít sấy khô... Xơ mít có thể dùng làm dưa muối gọi là nhút. Món này làm từ xơ mít chín hoặc từ quả mít xanh. Phương ngôn "Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn" nhắc đến hai đặc sản của vùng quê ở Nghệ An. Hạt mít cũng ăn được và có giá trị dinh dưỡng nhất định. Hột có thể đem rang, luộc, hoặc hấp. Trước khi ăn thì bóc lớp vỏ mỏng bên ngoài; có mùi thơm và vị bùi. Lá mít có địa vị đặc biệt dùng để lót oản cúng Phật. Lá mít cũng được dùng để gói thuốc lào truyền thống.
Ngoài giá trị dinh dưỡng trong ẩm thực, nhiều bộ phận của cây mít còn là vị thuốc có tác dụng giúp xương chắc khỏe, phòng chống bệnh ung thư, tốt cho da, hệ tiêu hóa, tim mạch, tốt cho phụ nữ mang thai... Gỗ mít, nhất là tâm gỗ ở các cây to, là một loại gỗ quí, không những dùng trong xây dựng còn để làm dụng cụ, chế những đồ gỗ mỹ nghệ do thớ mềm, không nứt. Mít cũng ảnh hưởng tích cực đến môi trường. Do cây to, cao, sống lâu, chịu hạn, chịu nắng tốt, tán lá dày, xanh quanh năm, bóng râm có giá trị cải thiện môi trường cao đặc biệt ở nông thôn, mùa nắng, giữa các ruộng lúa thiếu bóng cây.
Mít là một trong nhiều cây ăn quả của vùng nông thôn, cuốn hút người ta bởi vị ngọt và hương thơm nồng nàn của nó. Ai đã từng nếm qua một múi mít ngọt thơm, hẳn sẽ không bao giờ quên hương vị quyến rũ đó.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây sầu riêng
Sầu riêng là cây có vị thơm và trồng chủ yếu ở vùng Nam Bộ, nơi đó khí hậu mới phù hợp để trồng loại quả này, quả sầu riêng là loại quả mà em thích ăn nhất.
Quả sầu riêng có hình dạng kiểu giống như quả mít ở miền Bắc, nó có nhiều gai trên bề mặt quả, mỗi quả đều được gắn với những cuống lá to rộng bản. Thân của nó to và thuộc loại gỗ cứng, hình dạng của cây mang những đặc trưng riêng, thân nó to giống thuộc gỗ của cây mít ở miền Bắc, lá to rộng bản, lá của nó có gân xanh ở giữa, mặt thì xanh và có những đường nét riêng.
Cây sầu riêng phù hợp với khí hậu hai mùa như trong vùng Nam Bộ, hoa của sầu riêng thì thành từng chùm giống kiểu hoa của cây đu đủ đực, nó mọc ở thân cây chỗ đó cũng chính là chỗ mà ra quả của cây sầu riêng, những hình ảnh của cây sầu riêng có những nét riêng biệt và có ý nghĩa sâu sắc cây sầu riêng mang một vẻ đẹp chất phác và vô cùng đẹp. Hình dạng của cây sầu riêng giống với cây mít ở miền Bắc mình, quả của nó cũng có rất nhiều gai, có màu ngả vàng, múi của nó cũng giống như múi mít nhưng mùi vị của nó nồng hơn.
Cây sầu riêng được trồng trong những vùng đất tốt, nó mang một vẻ đẹp của vùng xứ sở Nam Bộ, mùi của nó nếu như ai ăn được thì cảm thấy rất thơm ngon nó mang những vị béo béo và những màu hơi nức mũi, hình ảnh của nó cũng đẹp mỗi quả tầm nặng của nó là 3-4 kg, quả to thì 5 kg, múi của nó to, ít múi hơn quả mít. Sầu riêng chủ yếu có vào tháng 5 tháng 6, trong những vùng trồng sầu riêng lúc đó bắt đầu thu hoạch những quả sầu riêng ngon và bổ dưỡng.
Quả sầu riêng hiện nay cũng được bán rất nhiều ở ngoài miền bắc và nó là loại quả được ưa chuộng của tất cả mọi người, mọi người thường lựa chọn loại quả này là do, tính chất của nó cũng có là một bài thuốc để chữa trị bệnh, bên trong quả thì dùng để ăn và là một loại quả chứa nhiều dinh dưỡng, bên ngoài thì là một vị thuốc. Có thể thấy rằng quả sầu riêng là một loại cây có rất nhiều chức năng.
Sầu riêng là một loại quả có nhiều những công dụng hết sức đặc biệt và mùi vị của nó cũng rất ngon.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây dừa
“Những rặng dừa xanh trải nhiều tàu
Đưa tay đón gió gật đầu gọi trăng”
Có lẽ hình ảnh cây dừa đã trở thành hình ảnh quen thuộc đối với mọi người. Ai chưa thưởng thức hương vị thơm ngon của nước dừa? Ở Việt Nam dừa thường có nhiều ở các vùng ven biển và đặc biệt dừa thường tập trung từ Quảng Ngãi đến Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre.
Có nhiều tranh cãi về nơi cây dừa xuất hiện lần đầu tiên, với một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc từ Đông Nam Á trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc từ Bắc Á 'Nam Mỹ. Bất cứ nơi nào nó được tìm thấy, nó là một loại trái cây được mọi người đánh giá cao. Dừa cạn thường sống ở vùng khí hậu nhiệt đới, mọc trên đất pha cát và có khả năng chống chịu tốt. Đặc biệt, dừa sẽ có thể phát triển tối ưu nếu nơi có độ ẩm cao (khoảng 70-80%). Có lẽ vì vậy mà người ta thường trồng rất nhiều dừa ở bờ biển để chúng có thể phát triển một cách tốt nhất. Dừa được chia làm nhiều loại như dừa xiêm (loại dừa này trái nhỏ hơn dừa thường nhưng nước rất mềm), dừa nếp (quả màu vàng xanh), dừa lửa óc chó (lá màu đỏ, quả màu vàng hồng)… Mỗi loại dừa đều có vẻ đẹp riêng. Cây dừa rất cao, có thể cao bằng tòa nhà cao tầng ở đây để đón nắng và gió. Rễ cây dừa không lớn, nhưng xòe ra thành nhiều sợi rễ nhỏ, cắm sâu xuống đất để hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Thân dừa không to, chỉ to bằng cánh tay tôi, nhưng rất to. Thân cây màu nâu, sần sùi, trên thân cây thường có những vòng tròn nhỏ đều nhau và cách đều nhau từ gốc đến ngọn cây. Từ thân cây sẽ tỏa ra những chiếc lá to và dài. Nhìn từ dưới lên, những chiếc lá xanh mướt như vươn thẳng về phía bầu trời xanh như những cánh tay che chở cho cây trước những cơn gió bão của biển khơi, trong mỗi cuống lá có những chiếc lá nhỏ dài xếp dọc theo thân lá và nhỏ dần lại. trở lên. Đặc biệt ẩn dưới những tán lá này là những khóm dừa to tròn xanh mướt trông rất thích mắt. Quả dừa to, nặng trĩu trông từ xa như một quả bóng. Trái có lớp vỏ cứng và dày, có màu xanh nhạt, ẩn bên trong lớp vỏ này là lớp cùi trắng ngần rất hấp dẫn, cuộn lên như bảo vệ phần nước dừa bên trong. Nước dừa không quá ngọt như các loại cây ăn quả khác mà ngọt vừa, khi uống rất sảng khoái và dễ chịu.
Cây dừa mang lại nhiều công dụng cho con người. Như đã nói ở trên, nước dừa được coi là thức uống vô cùng phổ biến trong những ngày hè nóng nực. Ngoài ra, nước dừa còn được dùng để làm nước chấm, kho thịt cá… Cùi dừa có thể dùng để làm mứt, làm nước cốt dừa hay dầu dừa đều rất ngon và giàu chất dinh dưỡng. Bên cạnh đó, vỏ cứng của quả dừa còn có thể được dùng để làm than hoạt tính hoặc chất đốt. Không chỉ quả dừa có giá trị mà các bộ phận khác của cây cũng được sử dụng vào nhiều việc hữu ích như thân dừa chắc khỏe có thể làm cột, làm cầu; Lá dừa lớn có thể dùng để lợp nhà….
Như vậy có thể thấy cây dừa không chỉ giúp làm đẹp thêm cảnh quan đất nước mà còn được sử dụng vào rất nhiều việc. Cây dừa rất hữu ích nên mỗi chúng ta cũng phải chăm sóc và bảo vệ nó cẩn thận để cây phát triển một cách tốt nhất.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây vải thiều
Mùa hè là thiên đường trái cây. Mỗi loại quả đều ngon và có hương vị riêng. Trong đó, vải thiều là một trong những loại trái cây hấp dẫn và thơm ngon nhất của mùa hè. Để có được những trái vải thiều thơm ngọt là nhờ công sức của người nông dân trong việc trồng trọt và chăm sóc vải thiều. Đối với nhiều người Việt Nam, vải thiều không còn quá xa lạ.
Ở Đông Nam Á, hầu như vải thiều được trồng khắp nơi. Ngoài ra, vải thiều còn được trồng ở nhiều nước khác như nam Trung Quốc, nam Nhật Bản, Ấn Độ, Florida, Hawaii (Mỹ). Ở Việt Nam, vải thiều là loại cây ăn quả được ưa chuộng bởi mùi vị dễ ăn, phù hợp với khẩu vị của người Việt Nam. Mỗi cây vải thiều thường có chiều cao từ 5 đến 10 m. Có những giống vải thiều có thể cao hơn. Có những giống vải thiều chỉ cần đứng dưới gốc là có thể hái được những chùm vải chín một cách dễ dàng. Ngoài ra, tùy theo cách chăm sóc mà vải của các vùng miền khác nhau có chiều cao khác nhau. Chất lượng của chúng vì thế cũng khác nhau. Vải thiều có thân màu nâu, xù xì, xù xì. Lá của chúng trông giống như những chiếc lông mọc so le với nhau. Trước khi đậu quả, cây vải thiều nở những bông hoa nhỏ màu trắng. Hương thơm của hoa vải có mùi nồng giống như hoa nhãn. Khi hoa rụng, vải thiều bắt đầu lớn. Chúng mọc thành chùm với kích thước mỗi quả khá đồng đều. Vỏ quả vải khi chín có màu đỏ sẫm, hơi sần sùi nhưng bên trong là cùi trắng mọng nước và rất ngọt.
Để vải thiều phát triển, điều kiện khí hậu là vô cùng quan trọng. Vải phù hợp với khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm. Nếu thời tiết lạnh cũng không được xuống dưới -4 độ C. Đất trồng vải thiều cũng phải là loại đất thoát nước tốt, hơi chua và nhiều mùn. Thời gian thu hoạch khác nhau tùy theo giống. Vải thiều thường chín vào mùa hè, nhưng có những loại chín muộn hơn do thích hợp với khí hậu mát mẻ. Có nơi người dân trồng vải làm cảnh. Ở Việt Nam, vải thiều được trồng nhiều nhất và cũng được cho là ngon nhất ở Thanh Hà, Hải Dương và Lục Ngạn, Bắc Giang. Bên cạnh vải thiều ngọt, hạt nhỏ còn có vải hạt to, vị chua đậm đà hơn. Người ta gọi loại vải này là bạn hú. Từ khi vải chín tới khi thu hoạch xong chỉ mất khoảng 2 tuần.
Quả vải thiều thường được người dân tiêu thụ trực tiếp như một món tráng miệng. Không những thế, từ quả vải người ta còn chế biến để tạo hương vị cho các loại bánh, kẹo, vải thiều sấy khô hay làm chè vải giải khát mùa hè. Tuy nhiên, có lẽ cách thưởng thức được ưa chuộng nhất vẫn là ăn thẳng.
Để vải thiều phát triển bình thường, người nông dân cũng phải tuân thủ quy trình chăm sóc. Loại đất thích hợp cho loại cây này là đất thịt, đất phù sa, đất cát pha, đất vàng, đất đỏ… nhưng yêu cầu chung là tầng đất phải dày và thoát nước. Trước khi trồng vải, bà con luôn bón lót bằng phân chuồng hoai mục, bón vôi, sau đó phơi ải 15-20 ngày. Số tiền này để loại bỏ mầm bệnh thực vật. Vào mùa khô, cây vải thiều phải được tưới nước đầy đủ và giữ nước khi cây ra quả. Xung quanh gốc cây nên phủ cỏ, rác, phân chuồng v.v. để tránh cỏ dại. Hàng năm người dân trồng vải làm cỏ khoảng 2 lần vào vụ xuân và vụ thu. Việc bón phân sẽ được chia thành 4 lần trong năm. Có những năm vải thiều được mùa, giá vải thiều thấp nên đời sống của người trồng vải thiều gặp nhiều bấp bênh. Hãy cùng nhau cầu mong năm nào vải thiều được mùa, bà con bán lại được giá, để bà con yên tâm trồng vải thiều, mang lại những trái ngon cho đời.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây cao su
Cuộc sống là một dòng chảy với những tiến bộ, những đổi mới không ngừng với những sáng tạo, phát minh giúp ích cho con người trong mọi công việc. Với cuộc sống hiện đại, vật dụng làm từ cao su chẳng còn quá xa lạ nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu rõ về cây cao su, nguyên liệu tạo ra những sản phẩm ấy. Liệu chăng các bạn đã thực sự hiểu rõ về loài cây này? Hãy cùng tìm hiểu nhé!
Cây cao su được biết đến là một loài cây thân gỗ thuộc họ Đại kích. Cao su đem lại nguồn lợi nhuận kinh tế lớn, phần nhiều là do nhựa cây, hay còn được gọi là mủ cao su. Một cây cao su trưởng thành có thể cao tới 30 mét. Chỉ khi mới đạt đến độ tuổi 5,6 năm, cây cao su đã được người ta khai thác để lấy mủ. Nếu như các mạch nhựa mủ ở vỏ cây thường tạo thành một vòng xoắn ốc thì khi khai thác, người ta rạch những vết cắt vuông góc với mạch nhựa mủ với một độ sâu hợp lí để vừa làm nhựa mủ chảy ra nhưng đồng thời không gây tổn hại đến sự phát triển của cây. Hoạt động khai thác này nhiều khi được gọi là cạo mủ cao su. Dựa vào giống, địa điểm trồng, cách chăm sóc và khai thác, ta có thể nhận biết được lượng mủ cao su khai thác được. Một cây cao su trung bình có chu kỳ khai thác kéo dài từ 20 đến 25 năm.
Tìm hiểu về đặc tính của cây cao su, ta cũng bắt gặp rất nhiều thông tin thú vị. Ngoại trừ ba tháng cây thay lá, khoảng thời gian còn lại trong năm ta đều có thể thu hoạch được nhựa mủ cao su. Vốn dĩ thời gian cây thay lá có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến sinh lý cây cũng như năng suất, nên cây thường được người ta khai thác từ tháng ba năm trước và kết thúc vào tháng một năm sau. Cây cao su mang bộ rễ cọc cắm sâu vào lòng đất để chống sự khô hạn, giữ vững thân cây và hấp thụ dinh dưỡng từ đất. Vỏ cây nhẵn, có màu nâu nhạt. Lá cao su thuộc loại lá kép, mỗi năm thay lá một lần nhưng lại có hoa đơn. Vùng nhiệt đới ẩm với nhiệt độ trung bình cao, mưa nhiều chính là nơi phù hợp nhất cho loài cây này phát triển. Trước đây, cây cao su thường được trồng và sinh trưởng tự nhiên bằng hạt nhưng do yêu cầu về chuyên canh, nhiều cây cao su hiện nay được nhân bản vô tính bằng phương pháp ghép mắt trên gốc cây sinh trưởng bằng hạt tự nhiên.
Một điểm đặc biệt cần lưu ý về cao su là đây là một loài cây độc. Ban ngày hay ban đêm, việc trao đổi khí đều đem lại nguy hiểm cao nên mọi người thường tránh xây dựng, sinh hoạt trong rừng hoặc những khu gần rừng trồng cao su bởi vì cây hấp thụ oxi cao, dễ gây hiện tượng hiếm khí. Bên cạnh đó, mủ của cây cao su cũng là một chất lỏng rất độc có thể gây hại với môi trường, đặc biệt là nguồn nước tại những nơi khai thác hoặc gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của bất cứ những ai tham gia khai thác lấy mủ cao su.
Cây cao su cũng khá phổ biến ở Việt Nam, cây được trồng nhiều nhất tại vùng Tây Nguyên với khí hậu, đất đai phù hợp. Cây cao su là mặt hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam, đem lại những giá trị kinh tế cao. Hiện nay, những sản phẩm làm từ cao su rất phổ biến và mủ cao su là nguyên liệu chủ lực để sản xuất nên cao su tự nhiên. Găng tay, lốp xe, đồ chơi…đó đều là những mặt hàng được làm rất nhiều từ cao su, đem lại lợi ích kinh tế cũng như nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Cho dù cây cao su có một vài những điểm trừ có thể gây hại cho con người, song sản phẩm làm từ nguyên liệu này vẫn đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống con người, đồng thời góp phần vào quá trình phủ xanh đất trống đồi trọc không chỉ ở Việt Nam mà còn ở rất nhiều vùng khác trên thế giới.
Cao su là một loài cây quen thuộc đem lại nhiều giá trị kinh tế cao. Thực trạng lâm tặc khai thác rầm rộ hiện nay yêu cầu một giải pháp kịp thời để có thể bảo vệ loài cây này. Trồng, chăm sóc và khai thác hợp lí cũng là cách hữu hiệu mà mỗi chúng ta cần cân nhắc và kiên trì thực hiện.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây tre
Có lẽ đối với mỗi người Việt Nam, cây tre đã trở thành một phần của cuộc sống. Đặc biệt với mỗi con người ra đi từ làng quê thì hình ảnh những luỹ tre xanh đã ăn sâu vào tiềm thức, do vậy dù có đi đâu đến nơi đâu họ cũng đều nhớ về luỹ tre xanh như nhớ về kỉ niệm gắn bó, thân thương nhất. Và đó chính là niềm tự hào của họ hàng nhà tre chúng tôi.
Sự gắn bó, gần gũi của họ hàng nhà tre chúng tôi được thể hiện ở chỗ đi bất cứ nơi đâu, đồng bằng hay miền núi thì bạn cũng đều thấy chúng tôi nghiêng mình trên những con đường hay trong những cánh rừng bát ngát. Họ nhà tre chúng tôi rất đông đúc, nào là: Tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên, rồi dang, rồi hóp và cả luỹ tre thân thuộc đầu làng...
Khác với các loài cây khác, từ khi mới bắt đầu sinh ra, chúng tôi đã thể hiện sự ngay thẳng, điều đó các bạn có thể thấy ngay khi nhìn những mầm tre mọc thẳng tắp và dù trong bất cứ môi trường nào chúng tôi cũng vẫn vươn lên để sống mạnh mẽ và xanh tốt. Thân tôi gầy guộc hình ống rỗng bên trong,màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Tôi bền bỉ hiên ngang chẳng dễ gì bị ngã dưới các anh mưa chị gió. Vả lại trên thân tôi có rất nhiều rất nhiều gai nhọn như những chiếc kim giúp tôi tự vệ ,bảo vệ cuộc sống của mình trước những bàn tay ác quỷ dám chặt phá tôi một cách vô lí. Lá của tôi mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những hình gân song song trên lá như những chiếc thuyền nan rung rinh theo những cơn gió thoảng. Rễ tôi thuộc loại rễ chùm, gầy guộc và cằn cỗi nhưng bám rất chắc chắn vào đất giúp giữ mình không bị đổ trước những cơn gió dữ.
Vào những ngày khô hạn nóng nực vô cùng. Cả nhà chúng tôi đung đưa theo gió, dang những cành tre che mát cho đàn con - những đàn con thân yêu. Đến thời kì mưa gió bão bùng,chúng tôi kết thành lũy dày kiên cố ra sức chống gió cản mưa. Chính nhờ đặc điểm này mà chúng tôi sống được ở nhiều vùng khí hậu khác nhau, ở những nơi gần nước hay những nơi xa nước. Vì thế mà câu thơ này ra đời:
"Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu"...
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng tôi luôn cùng con người đấu tranh cho độc lập, tự do. Chẳng thế mà từ lâu, người Việt đã ví chúng tôi với phẩm chất quật khởi của dân tộc ngàn đời.Những ngày đất nước Việt Nam còn sơ khai, chúng tôi đã giúp ông Gióng diệt lũ giặc Ân bạo tàn, đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Rồi trong cuộc chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chính chúng tôi đã dìm chết bao tàu chiến của địch khiến cho chúng khiếp sợ phải thua cuộc. Thuở đất nước còn chưa có vũ khí hiện đại như bây giờ, chúng tôi là vũ khí mạnh nhất được dùng để tiêu diệt quân thù. Và trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, chúng tôi cũng tích cực tham gia kháng chiến bằng cách góp một phần bé nhỏ cơ thể mình để làm ra những cây chông nhọn hoắt sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù. Bởi vững vàng trong chiến đấu mà họ mà tre tôi đã được phong danh hiệu anh hùng bất khuất.
Không chỉ trong đánh giặc giữ nước, loài tre nhà chúng tôi còn rất có ích trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi khi về thăm một thôn xóm, một bản làng nào bạn cũng sẽ thấy vòng tay của chúng tôi dang rộng, ôm trọn và toả bóng mát cho cho cả dân làng. Trong vòng tay của chúng tôi, những ngôi nhà trở nên mát mẻ, những chú trâu mới có bóng râm để nhởn nhơ gặm cỏ. Những trưa hè, chúng tôi thật hạnh phúc khi được ngắm những khuôn mặt trẻ thơ say nồng giấc ngủ trong tiếng võng kẽo kẹt dưới khóm tre. Hơn thế chúng tôi còn là những vật liệu để bà con dựng nhà, những ngôi nhà được làm từ tre rất mát mẻ và sạch sẽ.
Dưới bóng chúng tôi là cả một nền văn hoá lâu đời đang từng ngày được nâng niu và gìn giữ. Trong đời sống sinh hoạt, chúng tôi còn làm ra những đồ dùng thân thuộc với mỗi người: đó là đôi đũa, là chiếc chõng tre, chiếc giường tre. Đối với mỗi gia đình nông dân, tre tôi là người bạn vô cùng thân thiết. Ngoài ra cây danh, nứa, một trong những họ nhà trẻ còn giúp con người chẻ lạt buộc nhà, nứa giúp cắm sào làm giàn cho bầu bí leo quấn quýt vào nhau. Tre còn gắn với tuổi già, cho họ chiếc ống điếu hút thuốc làm vui.
Đối với trẻ con ở miền thôn quê thì tre còn có thể làm nên những trò chơi thú vị, bổ ích. Dưới những bãi đất rộng, được chúng tôi che hết ánh nắng oi ả của mùa hè, các bạn tha hồ chơi đùa thoả thích. Các bạn nữ còn trò gì thú vị hơn ngồi đánh chuyền với những que chắt bằng tre. Còn các bạn nam lại chạy nhảy reo hò theo tiếng sáo vi vút trên chiếc diều cũng được làm ra từ tre. Những cánh diều đó sẽ đem ước mơ của các bạn về nơi xa.
Tre chúng tôi còn làm nên những tiếng nhạc réo rắt từ những cây sáo tre, sáo trúc, làm vơi đi bao nỗi vất vả nhọc nhằn của người nông dân chân lấm tay bùn.
Ngày nay loài tre của chúng tôi còn vươn xa hơn nữa. Có một giáo sư là Việt Kiều sống ở Pháp đã đưa anh em chúng tôi sang trồng thử trên đất Pháp. Thế mà ở xứ lạ, chúng tôi vẫn sống vững vàng. Ngày sau, dẫu nước mình có hiện đại hơn, loài tre chúng tôi cũng vẫn sẽ ngay thẳng, thuỷ chung và can đảm để tôn lên những đức tính của người hiền - đức tính Việt Nam.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây tre
Từ bao đời nay, cây tre là người bạn gắn bó và gần gũi với người dân Việt Nam. Tre đã cống hiến tất cả sự sống cho con người nên ta phải yêu quý và bảo vệ cây tre Việt Nam.
Tre là một loại cây khẳng khiu, có nhiều công dụng. Lá tre thường được người miền Nam lấy để gói bánh tro vào dịp lễ giết sâu bọ. Lạt tre dùng để cột bánh. Thân tre được dùng để làm đũa. Các thợ thủ công cũng đã tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre. Nhân dân ta thường đong dầu, đong nước mắm khi mua bán bằng ống tre. Thời cách mạng, bộ đội Việt Nam dùng ống tre để đựng nước, nấu cơm. Trong quán ăn ở vùng nông thôn, người ta cũng chẻ thân tre để làm ống tăm cho khách sử dụng sau bữa ăn. Thân tre chẻ nhỏ để nhóm bếp rất đượm lửa.
Tre có một số loại thông dụng như: tre gai, tre xanh, tre ngà, tre rừng... Bên cạnh đó, nó còn có anh em bà con như: lồ ô, trúc, tầm vông... Tre xanh lúc còn sống có màu xanh mượt, đốt dài và bóng nhẵn, đường kính của thân tre trưởng thành khoảng từ 6 – 8 cm. Cao không đến 10 m. Tre gai kích thước ốm và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn nhưng ở mỗi đốt tre mọc ra rất nhiều nhánh gai, sắc, nông dân thường trồng thành hàng rào chống trộm. Tre ngà là loại tre có thân sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp. Người ta thường trồng làm cảnh. Tre rừng, mọc hoang trong rừng nên thường không tươi tốt lắm.
Ngược lại, lồ ô là loại tre rừng khổng lồ, bề ngang và bề cao của nó gấp hai, ba lần tre xanh. Nó mọc thành từng bụi, từng hàng như rừng trong vùng đất hoang. Người ta đốn lấy gỗ làm nhà tranh, nhà sàn rất chắc chắn. Lồ ô to lớn bao nhiêu thì trúc lại mảnh mai, yếu ớt bấy nhiêu vì thân rỗng và kích thước nhỏ bé. Có hai loại trúc là trúc xanh và trúc vàng. Gần đây nước ta có nhập thêm một ít trúc kiểng gọi là trúc Nhật. Những cây kiểng này có hình dáng đặc biệt, thân màu vàng óng, lá xanh mượt mà rất được mọi người ưa chuộng, trồng làm cảnh và thường bày ở mái hiên, phòng khách.
Hình ảnh cây tre đã đi vào ca dao, thơ văn và ca từ. Chẳng hạn như:
"Rễ siêng chẳng ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu lá bấy nhiêu cần cù
Nghiêng mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành..."
(NGUYỄN DUY)
Ông bà ta có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn tre tốt:
"Trồng tre, trồng trúc, trồng dừa
Muốn nên cơ nghiệp thì chừa lang vân"
Người ta còn sử dụng tre già hay tre non vào những việc khác nhau:
"Tháng tám tre non làm nhà
Tháng năm tre già làm lạt"
Người thợ mộc còn so sánh độ bền của tre như sau:
"Tre già là bà gỗ lim"
Ngoài ra, ông bà ta còn nhìn cây tre để nghe ngóng về thời tiết: "Lá tre trôi lộc, mùa rét xộc đến". Và từ đó người xưa còn rút ra một quy luật sống của thiên nhiên và con người: "Tre già, măng mọc" tre chẻ ra làm nuộc lạt, trở thành, một thứ không thể thiếu ở nhiều chỗ: khi gói bánh, bó rau hoặc lợp nhà. Ca dao cũng nhắc đến nuộc lạt: "Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu".
Ai từng đọc truyện Thánh Gióng hẳn không quên bụi tre Đằng Ngà khi Thánh Gióng nhổ tre đánh tan giặc ngoại xâm: "Chẻ tre nghe Gióng".
Tre không những đi vào thơ văn mà măng tre còn là một thực phẩm chế biến đa dạng. Các món ăn từ măng tre: măng tươi, măng khô, bún măng vịt, măng xào thịt ba rọi, thịt kho măng, măng luộc chấm mắm tôm, măng chua... Bún măng vịt là món ăn được nấu với vịt non, béo, măng tươi hoặc khô đã được luộc và thay nước nhiều lần, khi ăn người ta cho bún, một ít hành răm và rau sống vào nữa, trở thành một món ăn vừa thơm vừa béo với nước dùng ngọt dịu. Măng tươi đã luộc kĩ, có màu vàng chanh, được sắt miếng xào chung với thịt ba rọi trở thành một món ăn dân dã và rất ngon nếu có thêm một vài lát ớt đỏ thì lại càng hấp dẫn. Thịt heo kho măng cũng là một món ăn "bắt mắt", nấu nhanh và để được vài ngày, tiết kiệm được thời gian nấu nướng mà khi chan vào chén cơm nóng thì cũng rất ngon miệng. Măng luộc phải chọn măng trúc non, vào mùa mưa. Sau khi luộc nhiều lần, ta sắt mỏng rồi chấm với mắm tôm hoặc nước mắm ngon ăn kèm với cơm như một món rau. Nó sẽ có một vị vừa giòn vừa mát, kèm theo một vị ngọt dịu của măng tươi. Nói tóm lại thì cây tre luôn là người bạn đồng hành và nó đóng góp tất cả lợi ích của bản thân mình cho con người Việt Nam.
Hiện nay cuộc sống ngày càng hiện đại và có nhiều đồ dùng là bằng nhựa, inox xuất hiện. Nhưng người ta vẫn có khuynh hướng quay về với thiên nhiên. Bằng chứng là những bộ salon làm bằng mây và tre rất được ưa chuộng và trở thành một món hàng xuất khẩu đắt giá. Ngày nay, nhiều người đã bỏ trồng lúa hoặc cây khoai, đốn cây tre để có chỗ xây nhà lầu, nhưng nếu một lúc nào đó, nước ta không còn một bóng tre thì đời sống sẽ khó khăn và buồn tẻ biết mấy!
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây dừa
Dừa không chỉ một loại cây ăn quả, cây cảnh mà còn là loại cây quen thuộc của nhiều làng quê Việt Nam. Cây dừa đã gắn bó với đời sống của người Việt, và trở thành biểu tượng của làng quê, trong đó phải nói đến vùng đất dừa Bến Tre.
Có thể nói, bất kì ở vùng quê nào trên đất nước Việt ta đều thấy thấp thoáng những bóng dừa. Có 2 loại dừa: Dừa cao và dừa lùn. Dừa lùn thường trồng để làm cảnh, loại dừa cao được phân ra thành các loại dừa như: Dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa lửa, dừa dâu, dừa dứa, dừa sáp.
Các bộ phận của cây dừa gồm: Thân, lá, hoa, buồng, trái. Thân dừa cao khoảng 20 – 25m, trên thân dừa có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45 cm. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm.
Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Cây dừa có rất nhiều quả, quả của chúng kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ 5 đến 10 trái dừa, có loại trên 20 trái.
Dừa không phải chỉ để ăn quả mà các bộ phận của nó được dùng vào rất nhiều việc. Nhiều người đã dùng thân dừa để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Do thân dừa rất chắc nên người ta đã dùng nó làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa. Bông dừa tươi được dùng làm vật trang trí rất đẹp mắt. Đọt dừa non có thể làm gỏi, lăn bột, xào rất thích hợp với người ăn chay. Có một món ăn đặc biệt mà nhiều người không biết đó là con sâu sống trên cây dừa (còn gọi là đuông dừa. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp nên được chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng.
Trái dừa luôn được coi là phần giá trị nhất trên cây dừa. Trái dừa non được cắt ra lấy nước uống, là loại nước giải khát thơm ngon. Ngoài ra nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Lá dừa có thể dùng để lợp nhà, làm phên liếp, chằm nón, mà còn là chất đốt thường dùng để đun nấu phổ biến ở thôn quê, lá dừa khô bó lại làm đuốc để đi trong đêm tối trời.
Có thể thấy cây dừa không chỉ mang lại cảnh đẹp cho cuộc sống thêm phần tươi đẹp, cho con người những món ăn thơm ngon bổ dưỡng mà nó còn có rất nhiều công dụng với đời sống của con người. Cây dừa cũng trở thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự kiên cường bất khuất, giám đối mặt với mọi gian nan để vươn cao, vươn xa hơn
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây bàng
Dù đã đi ngược về xuôi, vào Nam ra Bắc, nhưng tôi chưa từng nhìn thấy một cây bàng nào từng trải và to lớn như cây bàng phố tôi. Thân nó to, phải hai, ba vòng tay người lớn mới ôm xuể. Còn tán nó rộng, che kín cả một cái sân lớn diện tích cả trăm mét vuông. Sinh thời bác tôi bảo: Cây bàng lớn này dễ thương đã sống cả trăm năm, đáng được gọi là cây bàng cổ thụ.
Tuổi thơ tôi gắn bó với cây bàng cổ thụ. Tôi nhớ những lần trốn nắng, trú mưa trong sự chở che hào phóng của tán bàng, những lần thưởng thức mùi vị ngọt chát hấp dẫn của quả bàng chín, những lần nhấm nháp vị bùi bùi khó tả của nhân quả bàng và nhớ cả những lần đi bắt ve, những lần chơi trốn tìm hớ hênh quanh gốc bàng. Tất cả cho tôi hình dung về một khái niệm bàng của riêng đám trẻ phố tôi.
Tôi thích nhất là vào tiết rét lộc vào cữ tháng 2 âm lịch, theo cách phân chia mùa đông của các cụ nhà ta: Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba cộc rét. Vào thời điểm ấy, những lộc bàng râm ran như thể đang mời mọc nhau, mời gọi nhau mọc, mời gọi nhau lớn cho kịp phủ kín cành vào đầu mùa hạ. có thể nói: Lá bàng (cũng giống như một số cây khác thuộc họ nhà xoan) có biểu hiện rõ nhất về sự chuyển mùa, nếu như có một ai đó chịu khó quan sát sự phát triển và tàn lụi lẫn sự đổi thay màu lá của nó. Có lẽ vì thế mà từ bao đời nay, đám trẻ hay lưu luyến mấy câu trong lời một vài bài hát: Mùa đông lá đỏ, mùa hạ lá xanh…như một điệp khúc chào đón mùa hè quay trở lại (sau này tôi mới biết đây là phần mở đầu trong ca từ một ca khúc của nhạc sĩ Hoàng Vân viết cho thiếu nhi vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước). Có một nhà thơ, trong khi nhìn ngắm mùa đông, nhìn ngắm màu đỏ của lá bàng mà đã viết được một bài thơ thật xúc động: Vẫn gió bấc căm căm/ Vãn mơ hồ mưa bụi/ Vẫn những lá bàng uốn cong mình mà cháy/ Đỏ như khi phải từ biệt bầu trời/ Anh chẳng biết thế nào để yêu em thêm nữa/ Khi mùa đông tới gần….
Nhưng đến bây giờ thì cây bàng cổ thụ ấy không còn nữa. Vì lấy đất dành cho sự mưu sinh, người ta đã triệt hạ nó. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về đứng trên mảnh đất từng gắn bó với cây bàng cổ thụ mà lòng không khỏi xót xa, tiếc nuối. Trong lòng tôi tự dưng thấy trống trải thiếu thốn…
Bây giờ, cứ mỗi khi nhìn thấy lá bàng đỏ rực lên sau khi hoàn tất chức phận của mình, để mà rụng về gốc, trong buổi giao mùa, tôi lại nao nao nhớ cây bàng cổ thụ. Cũng phải, vì nó là một phần kỷ niệm không thể thiếu trong khoảng trời thơ ấu và đáng nhớ của chúng tôi.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây chuối
Thiên nhiên tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho con người nhiều loại trái cây thơm ngon. Biết bao loại cây, mỗi loại lại có một dáng vẻ, một công dụng khác nhau. Chuối là một loài cây đã vô cùng quen thuộc, gần gũi với làng quê. Đi khắp đất nước Việt Nam, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh những cây chuối, bụi chuối xanh tốt vươn lên từ bờ ao, bờ sông.
Chuối là loại cây có quả được ăn rộng rãi nhất. Nguồn gốc của cây chuối là từ vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á và Úc. Ngày nay, nó đã được trồng khắp vùng nhiệt đới. Chuối có mặt ở ít nhất 107 quốc gia. Quả của những cây chuối dại có nhiều hột lớn và cứng. Nhưng hầu hết loại chuối để ăn đều thiếu hột vì đã được thuần hóa lâu đời.
Chuối thường được trồng nhiều ở nông thôn và miền núi. Vì là loài ưa nước nên nó thường mọc ở bên bờ sông, bờ suối. Thân chuối thẳng, nhẵn bóng như cái cột nhà. Thân chuối do nhiều bẹ chuối ôm lấy nhau tạo thành. Bẹ ở ngoài thường có màu đậm hơn, bẹ nằm chính giữa thì có màu trắng. Thân chính này là một thân giả của chuối. Nõn chuối màu xanh non, có hình dạng giống cuốn thư thời xưa. Cây chuối có rất nhiều tàu lá, lá chuối to như tấm phản, gân lá to chạy dọc phiến lá. Lúc lá chuối còn tươi thì có màu xanh nhạt, lúc già thì rũ xuống thân cây, chuyển thành màu nâu. Hoa chuối lúc mới ra thì hướng thẳng lên trời, sau quay sang ngang rồi đâm xuống đất. Sau khi hoa chuối già, bẹ ở ngoài rụng hết thì bắt đầu phát triển thành quả. Một buồng chuối có nhiều nải chuối, thường là 10 nải. Những buồng chuối có khi dài từ đỉnh xuống tận gốc, trĩu nặng cả thân cây. Quả chuối màu xanh lúc còn non, khi chín chuyển thành vàng, trông như vầng trăng lưỡi liềm.
Chuối có rất nhiều công dụng, hầu như bộ phận nào của cây cũng không cần bỏ đi. Quả chuối chín thơm ngon, bổ dưỡng được nhiều người ưa chuộng. Ăn chuối còn có tác dụng làm đẹp cho da. Quả chuối xanh ăn kèm với thịt luộc và thường được nấu kèm với cá, ốc, trai..., vừa khử tanh vừa làm cho món ăn thêm đa dạng. Lá chuối tươi dùng để gói quà, gói bánh. Lá chuối khô có thể làm chất đốt hoặc dây buộc. Củ chuối, hoa chuối thì nấu canh hoặc làm món nộm, salad. Thân chuối thái nhỏ làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Hạt chuối có thể làm một vị thuốc tốt trong Đông y. Chuối có một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt. Vào ngày Tết, trên mâm ngũ quả của mỗi gia đình không thể thiếu một nải chuối để cúng tổ tiên. Chuối vốn dĩ chỉ trồng để ăn quả nhưng hiện nay nó còn được dùng để trang trí trong nhà. Tàu lá rộng, xanh mướt của chuối tạo cảnh quan đẹp mắt, mang lại cảm giác tươi mới, êm đềm, tin cậy tượng trưng cho tình yêu của mẹ thiên nhiên. Những năm tháng chiến tranh đói ăn, đói mặc, chuối là nguồn thực phẩm dồi dào đã cứu sống không biết bao nhiêu mạng người.
Chuối cũng khá phong phú, đa dạng về chủng loại. Một số loại chuối tiêu biểu như: chuối ta quả dài như lưỡi liềm, chuối tây quả tròn và ngắn hơn, chuối hột, chuối mật, chuối trứng cuốc. Chuối ngự quả ngắn nhưng ruột vàng và có vị rất thơm ngon. Khi xưa, chuối ngự là món ăn hoàng gia, chỉ có vua chúa mới được thưởng thức. Chuối ngự chính là đặc sản của cùng Hòa Hậu, Lí Nhân, Hà Nam
Cây chuối mọc thành từng bụi và được trồng bằng cách tách rời thân non đem trồng thành bụi mới. Ta nên trồng chuối ở nơi gần nguồn nước như ao, hồ để tiện tưới tắm. Chuối là loại cây dễ trồng và phát triển khá nhanh nên không cần tốn công chăm sóc.
Nguyễn Trãi đã từng làm bốn câu thơ về cây chuối, gọi là “Ba tiêu” :
“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, màu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem”
Trải qua bao nhiêu năm nữa, chuối vẫn sẽ có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt Nam.
Thuyết minh về loài cây ăn quả - cây xoài
Hoa quả là những món ăn rất tốt cho sức khỏe của chúng ta. Trên đất nước Việt Nam xinh tươi này, có vô vàn những loại quả tốt: mận, lê, táo, dưa hấu. Loại quả nào cũng tốt cho con người và những cây hoa quả như vậy đã thân thuộc với chúng ta từ lâu và đặc biệt phải kể đến một loại cây ăn quả đó là cây xoài.
Xoài là một loại cây ăn quả nhiệt đới, vẫn chưa biết chính xác nguồn gốc của loại cây này nhưng có tài liệu cho rằng đây là một loại cây xuất phát từ miền Đông Ấn Độ và các vùng giáp ranh như là Myanma, Việt Nam, Malaysia. Cây xoài có phần rễ mọc sâu, bám chắc, thường tập trung ở phần đất cách gốc khoảng hai mét và thích nghi với vùng đất cát ẩm ướt. Cây xoài là cây thân gỗ lớn, mọc khỏe, chắc, cao, màu nâu sẫm. Lá mọc đơn, nguyên, mọc so le, phiến lá xoài có hình thuôn mũi mác, thơm, có màu xanh tươi tốt. Xoài nở hoa rất đẹp, hoa hợp thành chùm kép ở ngọn cành, chùm hoa dài khoảng 30cm, có 200-400 hoa tủa ra trên cành xen vào những quả xoài chưa kịp chín. Mỗi chùm thường có 2 loại hoa: hoa lưỡng tính và hoa đực. Hoa xoài nhỏ li ti, có màu vàng với búp nụ màu xanh. Mỗi hoa có năm lá đài nhỏ, có lông ở mặt ngoài. Có lẽ, phần đáng được chú ý đến nhất ở cây xoài là quả xoài. Quả xoài có ba lớp, lớp vỏ mỏng bên ngoài khi ăn có thể gọt bỏ hoặc ăn không cần thiết vì phần này vẫn có thể ăn được, phần thịt bên trong dày và hạt trắng hình bầu dục ở trong cùng. Khi chưa chín, ở trên cây, xoài có màu xanh của lá cây, khi ăn có vị chua, chua nhiều hay chua ít tùy thuộc và mức độ sắp chín của trái xoài. Nhưng đến khi xoài đã chín, vỏ ngoài của xoài từ màu xanh đã chuyển thành màu vàng tươi bắt mắt, khi ăn không còn vị chua mà vừa ngọt vừa mát. Xoài một năm có thể ra độ ba đến bốn đợt tùy theo giống, tuổi thọ của cây, thời tiết và tình hình dinh dưỡng cũng như sự chăm sóc tưới tắm của con người. Xoài có rất nhiều loại giống: Xoài cát Chu, Xoài cát Hòa Lộc, Xoài Tứ Quý, Xoài Tượng, Xoài Thanh Ca, Xoài Tím(loại xoài có vỏ màu tím),…
Cây xoài trong đời sống con người đã trở nên gần gũi và không thể thiếu. Xoài xanh có thể làm xoài dầm, một món hoa quả ngon. Khi ăn xoài xanh cũng có tác dụng chữa viêm họng và đặc biệt đây là một thức quả mà phụ nữ thai nghén những tháng đầu rất ưa thích khi thèm của chua. Còn xoài chín được dùng nhiều hơn, có tác dụng bổ não, có lợi cho người làm việc trí óc, suy nhược thần kinh, giúp tăng cường sức đề kháng, chống viêm, phòng ngừa ung thư, giảm béo, cải thiện hệ tiêu hóa, giúp hạ cholesterol máu, hạ huyết áp, phòng bệnh mạch vành, nên các chị em phụ nữ vẫn thường chọn cho gia đình những trái xoài chín khi đi chợ. Vào mùa hè, khi dầm xoài chín ra làm sinh tố thì đúng là không còn gì ngon lanh bằng, vừa mát mẻ, vừa bổ dưỡng. Ta vẫn hay thấy quả xoài xuất hiện trong mâm ngũ quả ngày tết như một biểu tượng về sự đủ đầy no ấm. Ngoài ra vỏ thân cây xoài có thể dùng để chữa ho, sưng cổ họng, đau răng, tẩy giun sán, khử trùng, lá xoài có thể dùng để chữa viêm da, viêm họng.
Tuy là một loại quả tốt nhưng nếu sử dụng quả xoài quá nhiều cũng có một số những hạn chế nhất định ví dụ như là tiêu chảy, nổi nhọt, sưng mủ. Cần lưu ý rằng không ăn xoài, nhất là xoài xanh vào lúc đói, dễ bị cồn ruột, người bị sốt, có vết thương thì không nên ăn xoài chín sẽ gây nên những hậu quả đáng tiếc.
Cây xoài đã trở thành một loại cây rất quen thuộc với chúng ta, mang lại cho con người rất nhiều những lợi ích đáng kể. Trên đất nước mình không chỉ cây xoài mà còn rất nhiều những loại cây khác cũng rất có giá trị như vậy, biết được điều này, ta càng thấy tự hào vì non sông tươi đẹp.
Xem thêm các bài Văn mẫu thuyết minh, phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 8 khác:
- Thuyết minh về trò chơi mang bản sắc Việt Nam (dàn ý, 30 mẫu)
- Thuyết minh về cái phích nước (dàn ý, 30 mẫu)
- Thuyết minh về danh lam thắng cảnh quê hương em
- Thuyết minh về Lăng Chủ tịch (Lăng Bác) (dàn ý, 30 mẫu)
- Thuyết minh về một ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Việt Nam (dàn ý, 30 mẫu)
Mục lục Văn mẫu | Văn hay lớp 8 theo từng phần:
- Mục lục Văn phân tích, phát biểu cảm nghĩ, cảm nhận
- Mục lục Văn biểu cảm
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn nghị luận
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 6-8 cho phụ huynh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 8 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 8 và Những bài văn hay lớp 8 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 8 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 8 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 8 Friends plus
- Lớp 8 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 8 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 8 (ngắn nhất) KNTT
- Giải sgk Toán 8 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 8 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 8 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - KNTT
- Giải sgk Tin học 8 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 8 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 8 - KNTT
- Lớp 8 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 8 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 8 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 8 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 8 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 8 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - CTST
- Giải sgk Tin học 8 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 8 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 8 - CTST
- Lớp 8 - Cánh diều
- Soạn văn 8 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 8 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 8 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 8 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 8 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 8 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 8 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 8 - Cánh diều