SBT Ngữ văn 10 Bài tập tiếng Việt trang 30,31,32 - Cánh diều

Với giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài tập tiếng Việt trang 30,31,32 sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 10.

Giải SBT Ngữ văn 10 Bài tập tiếng Việt trang 30,31,32 - Cánh diều

Câu 1 trang 30 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Xác định câu chủ đề và phân tích tính liên kết, tính mạch lạc trong các đoạn văn sau:

a) Nguyễn Trãi đã ý thức rõ ràng tự giác về chức năng chiến đấu của văn chương, tự hào khi đã biết dùng ngòi bút như một vũ khi. Ở nhà văn này, có sự gắn bó mật thiết giữa sự nghiệp và văn chương, giữa con người hành động và con ngừời sáng tác. Sự nghiệp càng lớn, công tích càng cao, đức độ càng dày, thì sáng tác càng hay, càng có giá trị, từ đó hình thành nên nhà văn - chiến sĩ. Nguyễn Trãi ngày xưa, Bác Hồ ngày nay là những nhà văn như thế. (Bùi Duy Tân)

b) Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế, thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hoá ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ ở trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là hạng thất phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được? (Nguyễn Trãi)

c) Tất cả những điều ấy chẳng phải đã khiến cho Nguyễn Khuyến hiện ra giữa chốn vườn Bùi như một cây “cô trúc” thanh cao hay sao? Thân “cô trúc” chỉ cần một gợn gió nhẹ thôi cũng đủ xao mình, trăn trở! Giữa nơi yên mà nào nó có yên? Và làm sao biết trong cõi riêng của ba bài thu kia, thân “cô trúc” ấy còn “lơ phơ”, còn “hắt hiu”, còn bất an thể đến thể kỉ nào? (Chu Văn Sơn)

Quảng cáo

Trả lời:

a)

+ Câu chủ đề của đoạn văn là câu đầu và cũng là câu mang ý chính của đoạn văn: “Nguyễn Trãi đã ý thức rõ ràng, tự giác về chức năng chiến đấu của văn chương, tự hào khi đã biết dùng ngòi bút như một vũ khí”.

+ Tính mạch lạc: các câu trong đoạn thông nhất về chủ đề của đoạn và các ý triển khai chủ đề của đoạn văn bằng các ý nhỏ theo lô gích sau: “chức năng chiến đấu của văn chương”. Các câu 3, 4, 5 đều triển khai ý của câu l - câu mang chủ đề của đoạn văn.

+ Tính liên kết: sử dụng chặt chẽ các phương thức liên kết và phương tiện liên kết phù hợp, hiệu quả: phép nỗi (“từ đó”), phép lặp (“sự nghiệp”, “văn chương”, “nhà văn”), phép thế (“như thế”).

b)

+ Câu chủ đề của đoạn văn là câu đầu, mang ý chính của đoạn văn: “Xưa nay người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế”.

Quảng cáo


+ Tính mạch lạc: các câu trong đoạn thống nhất về chủ đề của đoạn và các ý triển khai chặt chẽ: “Kể ra người giỏi dùng binh là ở chỗ biết rõ thời thế”. Các câu liên kết trong đoạn có chức năng triển khai qua các ý nhỏ từ chủ đề của đoạn văn được thể hiện trong câu chủ đề.

+ Tính liên kết: sử dụng chặt chẽ các phương thức liên kết và phương tiện liên kết phù hợp, hiệu quả: phép lặp (“dùng binh”, “thời thế”,...), phép nối (“kể ra”).

c)

+ Câu chủ đề của đoạn văn là câu đầu, mang ý chính của đoạn văn: “Tất cả những điều ấy chẳng phải đã khiến cho Nguyễn Khuyến hiện ra giữa chốn vườn Bùi như một cây cô trúc thanh cao hay sao?”.

+ Tính mạch lạc: câu chủ đề biểu thị chủ đề của đoạn văn: Nguyễn Khuyến như một “cây cô trúc” giữa chốn vườn Bùi, luôn biết giữ mình thanh cao. Các câu sau triển khai ý chủ đề của đoạn văn để lí giải như thế nào là khí tiết thanh cao của Nguyễn Khuyến được thể hiện qua chùm thơ thu (“Thân cô trúc chỉ cần một gợn gió nhẹ thôi cũng đủ xao mình, trăn trở!”,...), tất cả đều hướng về chủ đề của đoạn văn.

Quảng cáo

+ Tính liên kết: sử dụng chặt chẽ các phương thức liên kết và phương tiện liên kết phù hợp, hiệu quả: phép thế (“Tất cả những điều ấy”), phép nối (“và”), phép lặp (“thân cô trúc”,...).

Câu 2 trang 30 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: (Bài tập 2, SGK) Đọc các đoạn văn dưới đây và thực hiện những nhiệm vụ sau:

- Xác định chủ đề của đoạn văn.

- Nhận xét về tính liên kết trong đoạn văn.

- Nhận xét về tính mạch lạc của đoạn văn.

a) Ngày nay, người ta thường nói nhiều đến sự xung đội giữa chiếc xe Lếch- xới với cáy ô liu. Chiếc xe Lếch-xớt đại diện cho sự hiện đại và sự toàn cẩu hoá. Cây ô liu đại diện cho bản sắc và cho truyền thống. Có vẻ như toàn cầu hoá đang áp đặt vô số những chuẩn mực chung cho mọi tộc người. Các chuẩn mực về kĩ thuật, về công nghệ thông tin và truyền thông, về thương mại, về đầu tư,... tất cả là chung và tất cả những cái chung đang ngày một nhiều thêm lên. Cái chung nhiều thêm lên, thì cái riêng sẽ bị giảm bớt đi. Đó là một nguy cơ hoàn toàn có thật. Tuy nhiên, chiếc xe Lếch-xớt và cây ô liu không nhất thiết bao giờ cũng phải xung đột và triệt tiêu lẫn nhau. Ngược lại, chiếc xe Lếch-xớt vẫn có thể tạo điều kiện cho việc bảo tồn cây ô liu và cây ô liu vẫn có thể trang điểm cho chiếc xe Lếch-Xớt. Việc hội nhập và việc giữ gìn bản sắc cũng vậy. Không có hội nhập, nghề múa rối nước, nghề thổ cẩm của chúng ta chắc sẽ rất khó phát triển. Ngược lại, các nhà hàng, khách sạn cao cấp chắc cũng sẽ có ít sức hấp dẫn đối với khách du lịch nước ngoài, nếu thiếu sự hiện diện của hồn văn hoá Việt. (Nguyễn Sĩ Dũng)

Quảng cáo

b) Cuối cùng, “Thu vịnh " đã kết lại bằng bức hoạ thật nhanh mà thật đọng:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

Nỗi niềm u ẩn không chịu buông tha cho Tam nguyên Yên Đổ. Cái cảm giác “thẹn với ông Đào” là nét thanh tao, lặng thầm mà khiêm cung của Nguyễn Khuyến. Nó không chỉ in riêng vào bài thơ này, mà còn đổ bóng xuống cả ba bài thơ, làm nên

một chân dung thật nhất quán của Nguyễn Khuyến: một thi nhân tao nhã - một nho gia khí tiết. (Chu Văn Sơn)

c) Tại sao chúng ta cư xử thô lỗ? Bởi vì chúng ta bị xao nhãng, đầu óc ta đang mải mơ màng những việc khác? Đôi khi, lí do này đúng. Nhưng sự thô lỗ thường là dấu hiệu của cảm giác bất an. Đó là cách chúng ta tránh né người khác để họ không nhận thấy cảm giác thật của mình. Làm như vậy có thể hiệu quả nhưng nó chẳng giúp ích cho ai cả. Nó khiến mọi người xa rời nhau thay vì đoàn kết vì một mục đích chung. Chúng ta không bao giờ tìm thấy sự bình yên nếu cứ khăng khăng bảo vệ cái ốc đảo cô đơn của mình. Cố gắng theo đuổi mối liên kết chung với mọi người là con đường bằng phẳng nhất đưa chúng ta đến hoà bình. (Ca-ren Ca-xây)

Trả lời:

a)

+ Câu chủ đề của đoạn văn là câu đầu và cũng là câu mang ý chính của đoạn văn: “Ngày nay, người ta thường nói nhiều đến sự xung đột giữa chiếc xe Lếch-xớt với

cây ô liu”.

+ Tính mạch lạc: các câu trong đoạn thống nhất về chủ đề của đoạn và các ý triển khai chủ đề của đoạn văn bằng các ý nhỏ theo lô gích sau: “sự xung đột giữa chiếc xe Lếch-xớt với cây ô liu”; “hiện đại và toàn cầu hoá...” (câu 2); “bản sắc và truyền thống” (câu 3). Các câu sau đi vào lí giải theo cách giải thích, triển khai các ý về sự xung đột nói ở câu chủ đề.

+ Tính liên kết: sử dụng chặt chẽ các phương thức liên kết và phương tiện liên kết phù hợp, hiệu quả: phép nối (“lúc này”), phép lặp (“phát triển”; “đổi mới”; “cha anh”), phép thế (“đó là”).

b)

+ Câu chủ đề của đoạn văn là câu đầu, mang ý chính của đoạn văn: “Cuối cùng, “Thu vịnh” đã kết lại bằng bức hoạ thật nhanh và thật đọng”.

+ Tính mạch lạc: các câu trong đoạn thống nhất vẻ chủ đề của đoạn và các ý triển khai chặt chẽ: “bức hoạ trời thu”, được triển khai qua các ý: “nỗi u ẩn của mùa thu...” (câu 2); “nét thanh tao, lặng thầm,...” (câu 3), “chân dung thật nhất quán của Nguyễn Khuyến...” (câu 4).

+ Tính liên kết: sử dụng chặt chẽ các phương thức liên kết và phương tiện liên kết phù hợp, hiệu quả: phép thế (“nó”), phép lặp (“mùa thu”, “hồn thu”,...).

c)

+ Câu chủ đề của đoạn văn là câu đầu, mang ý chỉnh của đoạn văn: “Tại sao chúng ta cư xử thô lễ?”.

+ Tính mạch lạc: câu chủ đề biểu thị chủ đề của đoạn văn: nguyên nhân chúng ta cư xử thô lỗ. Chín câu sau triển khai ý chủ đề của đoạn văn để lí giải nguyên nhân vì sao con người cư xử thô lỗ với nhau, đều hướng về chủ đề của đoạn văn.

+ Tính liên kết: sử dụng chặt chẽ các phương thức liên kết và phương tiện liên kết phù hợp, hiệu quả: phép thế (“đó là”; “làm như vậy”; “nó”), phép nối (“bởi vì”; “đôi khi”; “nhưng”), phép lặp (“sự thô lỗ”; “chúng ta”;...).

Câu 3 trang 31 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: (Bài tập 3, SGK) Phát hiện và sửa lỗi trong các đoạn văn sau:

a) Cảnh vật trong bài thơ “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến thật là vắng vẻ. “Ngõ trúc” quanh co, “sóng nước” gợn tí, lá vàng đưa “vèo”, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Cảnh vật dường như ngưng đọng, im lìm. Bởi vậy, nét bút của Nguyễn Khuyến

đã tạo dựng được rất thành công cảnh sắc im ắng ấy (Dẫn theo Bùi Minh Toán, Nguyễn Quang Ninh)

b) Trong ca dao Việt Nam, những bài về tình yêu nam nữ là những bài nhiều hơn tất cả. Họ yêu gia đình, yêu cái tổ ấm cùng nhau sinh sống. Những người nông dân yêu người làng, người nước, yêu từ cảnh ruộng đồng, đến công việc trong xóm, ngoài làng. Tình yêu trong bài ca dao thật nồng nhiệt, đằm thắm. (Dẫn theo Bùi Minh Toán, Nguyễn Quang Ninh)

c) Cắm đi một mình trong đêm. Trận địa đại hội 2 ở phía bãi bồi bên một dòng sông. Hai bố con cùng viết đơn xin ra mặt trận. Mùa thu hoạch lạc đã vào chặng cuối. (Dẫn theo Trần Ngọc Thêm)

Trả lời:

a)

+ Phân tích lỗi: lỗi liên kết dẫn đến lỗi mạch lạc. Câu 1 là câu chủ đề đoạn văn, bàn về cảnh vật vắng vẻ trong bài thơ Câu cá mùa thu. Câu 2, câu 3 là câu triển khai ý câu chủ đề. Câu cuối lạc ý, nói về “nét bút của Nguyễn Khuyến” nên không thể dùng từ liên kết “bởi vậy” như là sự khái quát cho đoạn văn.

+ Sửa lỗi: Bỏ câu cuối đoạn văn hoặc viết lại câu cuối đoạn văn.

b)

+ Phân tích lỗi: đoạn văn mắc lỗi về mạch lạc: mâu thuẫn. Các câu của đoạn văn hoặc các phần, các đoạn văn trong văn bản không nói về cùng một chủ đề. Chủ đề của đoạn văn được thể hiện ở câu đầu đoạn văn: các bài ca dao nói về tình yêu nam nữ, nhưng câu sau lại triển khai về “yêu người làng”, “yêu người nước”, “yêu đồng ruộng”, ...

+ Sửa lỗi: người viết phải triển khai các ý của đoạn văn phù hợp với câu chủ đề của đoạn. Ví dụ: Trong ca đao Việt Nam, những bài về tình yêu nam nữ là những bài nhiều hơn tất cả.

c)

+ Phân tích lỗi: đoạn văn mắc lỗi về mạch lạc, lạc chủ đề. Các câu của đoạn văn hoặc các phần, các đoạn văn trong văn bản không nói về cùng một chủ đề. Câu 1 nói về “Cắm”, câu 2 nói về “trận địa đại đội 2”, câu 3 nói về “hai bố con”, câu 4 nói về “mùa thu hoạch lạc”. Có thể nói, mỗi câu trong đoạn là một chủ đề, không liên quan tới nhau.

+ Sửa lỗi: xác định chủ đề bộ phận của đoạn văn thông qua câu chủ đề, từ đó triển khai bằng các câu hướng về chủ đề đó.

Câu 4 trang 32 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 8 - I0 dòng) triển khai ý từ câu chủ đề sau đây: Trong bất cứ thời đại nào, sự sẻ chia, yêu thương giữa con người với nhau luôn được trân trọng, gìn giữ và phát huy.

Trả lời:

Trong bất cứ thời đại nào, sự sẻ chia, yêu thương giữa con người với nhau luôn được trân trọng, gìn giữ và phát huy. Tình yêu thương luôn mang lại những điều kì diệu riêng cho cả người cho đi và nhận về nó. Cái hạnh phúc mà tình yêu thương đem lại dành cho cả hai phía. Bên cạnh đó, yêu thương còn là lực hấp dẫn kéo con người ta xích lại gần nhau, tạo thành khối thống nhất, gây dựng những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Song trong cuộc sống hiện đại ngày nay, còn có những kẻ sống lạnh lùng như một cỗ máy, vô hồn vô cảm, chỉ biết sống cho mình, luôn đố kị ganh ghét, xung đột, cướp đoạt, là mối hiểm họa lớn cho xã hội mà ta cần lên án và bài trừ. Yêu thường đem lại hạnh phúc cho nhân loại, chỉ có yêu thương mới xoa dịu những ngăn cách giàu nghèo, những bất đồng đố kị, làm cho xã hội văn minh tươi đẹp. Hãy dành tình thương của mình cho mọi người thật nhiều. Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi ta biết mạnh dạn cho đi, hãy đem tình thương của mình gửi đến muôn đời như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nhắn nhủ: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi”.

Câu 5 trang 32 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Các em hãy sắp xếp các đoạn văn sau đây (theo Lê Nguyên Cần, Mã văn hoá trong tác phẩm văn học, những vấn đề lí thuyết và giảng dạy, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2018) theo trật tự hợp lí nhất và giải thích tại sao lại sắp xếp được như vậy.

(1) Trước hết, chúng tôi không xem xét tiêu đề của tác phẩm cho dù bài thơ này từ lâu đã có tiêu đề “Mời trầu”; bởi lẽ chúng tôi không tường mình được tiêu đề đó là của chính nữ sĩ Hồ Xuân Hương đặt ra hay của các học giả đời sau thêm vào. Sở đĩ nói điều này là vì, trong văn học cổ điển nói chung, trong văn học trung đại nói riêng, có rất nhiều bài thơ thuộc dạng vô đề và cũng không ít các bài thơ thuộc dạng vô đề ấy được các học giả đời sau chưa thêm tiêu đề với nhiều mục đích, có thể hoặc để tường minh một hoàn cảnh, có thể hoặc để tường minh chủ đề mà nhà nghiên cứu muốn hướng tới.

(2) Kết luận được đưa ra cũng rõ ràng, dứt khoái. “Đừng xanh như lá, bạc như vôi”. Các từ “xanh”, “bạc” ở đây, ngoài tính chất chỉ màu sắc hiểu theo phương diện màu sắc hội hoạ thì cần phải hiểu theo nghĩa màu sắc tinh thần - đạo lí hay đạo đức mà các kí hiệu đó tạo ra. “Xanh” đồng nghĩa với sự thờ ơ, sự lãnh đạm, sự bàng quan hay về sự khác biệt, không hoà nhập, giữa bên trong, bên ngoài, giữa bản chất và hình thức mà ta thường gặp trong cách nói “xanh vỏ đỏ lòng”; còn “bạc” gắn với bạc bẽo, bạc nghĩa bạc tình, bạc duyên bạc phận,...

(3) Các cách hiểu đã nêu ở câu khai được mở ra trong câu thừa: “này của Xuân Hương mới quệt rồi” với một kết cấu ngữ pháp khác thường, thể hiện trước tiên ở sự nhấn mạnh một cách cô ý, một cách đay nghiến, một cách dứt khoát: “Này”. Ở đây không còn âm hưởng của “Trầu này trầu tính trầu tình / Trầu nhân trầu nghĩa, trầu mình trầu ta” nữa cho dù chủ thể của miếng trầu đã lộ diện bằng danh xưng cụ thể “Xuân Hương” và “của Xuân Hương”. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, đây chính là cách đánh bài ngửa, chẳng cần úp ngửa mà nói thẳng tuột ra: “Này”. Không ai mời trầu nặng nề như vậy cả, trừ người bị đặt vào hoàn cảnh, người bị khinh thường về mặt thân phận. Tính cách hay tính chất “của Xuân Hương” được bộc lộ ra, không che giấu, không úp mở...

(4) Về mặt thể loại, bài thơ này thuộc thể thất ngôn tứ tuyệt, một dạng thức phổ biến của loại hình thơ Đường luật, mà đương nhiên về mặt lí thuyết thì không thể chia tách thành đoạn mặc đu trong thực tế thì vẫn chia được, bởi lẽ tính chất khai, thừa, chuyển, hợp của kết cấu thơ Đường luật tự thân cũng là một cách chia tách rất tinh tế theo chức năng đã quy định (là chức năng khai, thừa, chuyển, hợp), nghĩa là mỗi câu thơ tự thân đã có chức năng riêng và đây cũng là một phẩm chất mà mỗi yếu tố ngôn ngữ hay mỗi đơn vị ngôn ngữ khi cấu thành hay trở thành một kí hiệu trong văn bản ngôn từ đều phải đẹp, đều phải được xác lập, để từ đó dẫn tới khả năng tạo nghĩa hay khả năng sản sinh nghĩa của văn bản.

(5) Câu luận là một câu có điều kiện, mở đầu bằng “có phải” và sẽ tạo ra kết cấu “có phải + nếu - thì” quy định tính chất của cuộc đối thoại, của cuộc đổi trao mà chủ thể trữ tình đang phải đối mặt, “Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Tính điều kiện ở đây đương nhiên gắn liền với sự khập khiễng, sự mất cân đối hàm chứa trong hai câu đầu như đã phân tích. Điều cần nói ở đấy là chữ “duyên”, đích hướng tới của “miếng trầu”, gắn liền với một câu hỏi tu từ “có phải” mà ta có thể tách thành “có duyên” và “phải đuyên” mà hai tính chất này là rất quan trọng để tạo nên nghĩa nên tình, nên chồng nên vợ...

(6) Câu thơ “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi ” thực hiện chức năng khai mở hay khai truyện, đưa các nhân vật (ở đây có thể hiểu là bản thân tác giả và đối tượng đang đến hay chính xác hơn là được giới thiệu mai mối đến với nữ sĩ) vào trong cùng một trường đối thoại, vừa hiểu theo nghĩa văn hoá học “miếng trầu là đầu câu chuyện”, vừa là hình thức tự giới thiệu một cách hết sức khiêm nhường bởi chủ thể trữ tình rất ý thức được thân phận của mình lúc ấy, đồng thời cũng cho thấy cái không gian giao tiếp bắt buộc miễn cưỡng, nhà không chật nhưng lòng lại hẹp, gắn với kiểu thời gian hiện tại được bất tử hoá, được vĩnh viễn hoá bằng một sự kiện không đao to búa lớn nhưng là sự kiện để đời...

Trả lời:

Tính liên kết và mạch lạc được thể hiện vừa trong nội bộ các câu trong đoạn văn, vừa thể hiện giữa các đoạn văn trong văn bản. Để nhận diện liên kết giữa các đoạn văn cần dựa vào các phương tiện liên kết được sử dụng, tức dấu hiệu hình thức; còn để nhận diện tính mạch lạc của các đoạn văn trong văn bản cần dựa vào các luận điểm được diễn đạt, tức dấu hiệu về nội dung, ý nghĩa. Dựa vào các phương tiện liên kết và nội dung trong mỗi đoạn, trật tự hợp lí của các đoạn trong văn bản là:

(1) - (4) - (6) - (3) - (5) - (2).

Xem thêm các bài giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Cánh diều hay, chi tiết khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 10

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 10 Cánh diều khác
Tài liệu giáo viên