SBT Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo Bài 2 Đọc trang 21, 22, 31, 32

Với giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài 2 Đọc trang 21, 22, 31, 32 sách Chân trời sáng tạo hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ 12.

Giải SBT Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo Bài 2 Đọc trang 21, 22, 31, 32

Quảng cáo

A. Câu hỏi củng cố kiến thức, kĩ năng theo sách giáo khoa

Câu 1 trang 21 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Phương án nào dưới đây nếu không đúng thể loại ưa chuộng của phong cách sáng tác hiện thực?

A. tiểu thuyết

B. truyện ngắn

C. phóng sự

D. thơ trữ tình

Trả lời:

Chọn đáp án: D. thơ trữ tình

Câu 2 trang 21 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Phương án nào dưới đây nêu đúng đặc điểm của phong cách hiện thực?

A. đề cao cảm xúc và trí tưởng tượng của con người

B. chú trọng việc khắc hoạ bức tranh chân thực về cuộc sống, môi trường xã hội

C. có khuynh hướng phá vỡ các quy phạm thu

D. đề cao tính chất khuôn mẫu trong chuẩn mực về tư tưởng và nghệ thuật

Quảng cáo

Trả lời:

Chọn đáp án: B. chú trọng việc khắc hoạ bức tranh chân thực về cuộc sống, môi trường xã hội

Câu 3 trang 22 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Phương án nào dưới đây nêu không đúng về đặc điểm của phong cách lãng mạn?

A. phá vỡ các chuẩn mực và quy phạm

B. đề cao trí tưởng tượng, sự bay bổng

C. chú trọng sự phóng khoáng, tự do

D. sử dụng nhiều điển tích, điển cố

Trả lời:

Chọn đáp án: D. sử dụng nhiều điển tích, điển cố

Câu 4 trang 22 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Tóm tắt các sự kiện chính được kể trong truyện Lão Hạc. Phân tích một nét tính cách mà theo bạn là nổi bật nhất ở nhân vật lão Hạc.

Quảng cáo

Trả lời:

1) Tóm tắt:

– Lão Hạc sang nhà ông giáo tâm sự về việc đã bán chó; ngỏ ý gửi vườn và một số tiền nhờ ông giáo lo hậu sự cho mình; chấp nhận cuộc sống tằn tiện (ăn củ ráy trừ bữa,...).

– Nghe Binh Tư nói về việc lão Hạc xin bả chó, ông giáo đã có lúc hiểu lầm, thất vọng

về lão Hạc.

– Nhưng hoá ra Lão Hạc xin bả chó để tự tử. Chứng kiến cái chết của lão Hạc, ông giáo hiểu hơn về lão; tự hứa sẽ giữ gìn mảnh vườn cẩn thận để giao lại cho con trai lão.

2) Nét tính cách nổi bật nhất của nhân vật lão Hạc:

Bạn có thể chọn phân tích một trong hai nét khá nổi bật sau đây ở nhân vật lão Hạc:

a) Nhân hậu, giàu tình thương

b) Giàu lòng tự trọng

Quảng cáo

Tuy nhiên, việc phân tích không chỉ là đơn giản nêu tên nét tính cách mà phải tìm được các chi tiết thuyết minh cho nét tính cách ấy.

Chẳng hạn, nếu chọn ý (a), có thể phân tích:

(a) Lão Hạc là người nhân hậu, giàu tình thương. Nét tính cách này thể hiện qua nhiều chi tiết:

– Lão toan lo mọi thứ cho cuộc đời con; cố giữ bằng được mảnh vườn dành dụm cho tương lai của con.

– Lão đau khổ vì sợ mất con khi con nộp thẻ đi phu.

– Lão thương “cậu vàng” như thương con.

–…

Nếu chọn ý (b), có thể phân tích:

(b) Lão Hạc là người giàu lòng tự trọng. Nét tính cách này thể hiện qua các chi tiết:

– Dù nghèo đói vẫn dành dụm tiền để lo hậu sự cho bản thân, không để phiền luy đến hàng xóm; không nhận giúp đỡ của ông giáo vì biết ông giáo cũng không khá giả gì.

– Tự trách móc dằn vặt khi đã lừa gạt một con chó.

– Chọn cái chết bằng bả chó để không phiền luỵ đến ai.

Câu 5 trang 22 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Bạn có nhận xét gì về thái độ, tình cảm của ông giáo đối với lão Hạc?

Trả lời:

(a) Những biểu hiện thái độ, tình cảm của ông giáo, chẳng hạn:

– Cảm động khi nhớ lại nguồn gốc của con chó và hoàn cảnh khốn khó của lão Hạc;

– Xót xa, đồng cảm khi lão Hạc cho biết đã bán “cậu Vàng” của lão.

– Thương cảm xen lẫn trách móc khi lão Hạc ăn khoai ráy qua ngày và từ chối sự giúp đỡ của ông.

– Đau xót, thất vọng khi nghe Binh Tư nói lão Hạc xin bả chó với mục đích đáng ngờ.

– Xúc động đau buồn nhưng càng quý trọng lão Hạc hơn khi chứng kiến cái chết của lão Hạc.

(b) Nhận xét về thái độ, tình cảm của ông giáo đối với lão Hạc:

– Thái độ, tình cảm của ông giáo dành cho lão Hạc xuất phát từ tấm lòng của một người trí thức nghèo, gần gũi, thân thiện với một lão hàng xóm, nghèo khó, đơn độc;

– Thái độ, tình cảm của ông giáo dành cho lão Hạc có những thay đổi theo diễn biến truyện (qua: việc lão Hạc bán chó; việc lão Hạc ăn khoai ráy qua ngày và từ chối sự giúp đỡ của ông; việc lão Hạc xin bả chó; việc chứng kiến cái chết của lão Hạc).

– Chính sự gần gũi, thân thiện và thái độ, tình cảm chân thành ấy đã giúp ông giáo rút ra được bài học quý: cần phải làm gì, bằng cách nào để hiểu đúng “những người quanh ta”.

Câu 6 trang 22 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Theo bạn, truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam được viết theo phong cách sáng tác nào? Dựa vào đâu để bạn khẳng định như vậy?

Trả lời:

Nội dung xem xét

Phong cách lãng mạn

Phong cách hiện thực

Biểu hiện qua văn bản Hai đứa trẻ

Đề tài và cảm hứng

Tình cảm chủ quan và trí tưởng tượng bay bổng (hiện thực được miêu tả một cách chủ quan thông qua lăng kính tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng)

Hiện thực khách quan của đời sống hằng ngày (hiện thực được miêu tả một cách khách quan như nó đang tồn tại, trong tính quy luật của nó)

Thạch Lam miêu tả vừa khách quan cuộc đời của những người dân phố huyện lầm than, vừa chủ quan qua thế giới nội tâm và những cảm xúc trong trẻo, trắc ẩn của Liên.

Nguyên tắc tổ chức hệ thống hình ảnh, từ ngữ, nhân vật

Sự phóng khoáng, tự do, bay bổng, phá vỡ các chuẩn mực và quy phạm

Tính điển hình cao, đại diện cho những số phận, cảnh đời có thực và thể hiện những mâu thuẫn xã hội gay gắt

- Những hình ảnh rực rỡ, bay bổng đại diện cho ước mơ, khát vọng: đoàn tàu đêm

- Những hình ảnh chân thực điển hình cho những cảnh đời có thực: hàng nước chị Tí, bà cụ Thi hơi điên, những đứa trẻ nghèo,...

B. Câu hỏi thực hành đọc hiểu

Đọc văn bản Đời thừa và thực hiện các yêu cầu nêu phía dưới:

ĐỜI THỪA

Nam Cao

Từ ngửng mặt lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần, Từ muốn nói, nhưng lại không dám nói. Hắn đang đọc chăm chú quá. Đôi lông mày rậm của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên một chút. Đôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán rộng hơi nhăn. Đôi lưỡng quyền đứng sừng sững trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn. Từ thấy sợ...

Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi. Từ bản tính rất dịu dàng, rất tận tâm. Vả lại Hộ, đối với Từ, còn là một ân nhân nữa. Hộ đã cúi xuống nỗi khổ đau của Từ. Hộ đã cúi xuống và đã đưa một bàn tay cầm lấy cái bàn tay mềm yếu của Từ, giữa lúc Từ đau đớn không bờ bến: Từ bị tình nhân bỏ với một đứa con vừa mới đẻ. Gã tình nhân vô liêm sỉ ấy, Từ đã yêu hắn bằng cả tấm lòng yêu lúc ban đầu. Từ đã tin như người ta tin một vị thần. Từ đã hiến mình một cách dè dặt tâm hồn và xác thịt. Và khi biết mình sắp có một đứa con, Từ không hề hối hận một mảy may: Từ rất bằng lòng. Ấy thế mà hắn đã phụ Từ, phụ một cách hèn nhát và khốn nạn, ngay chính vào lúc Từ cần đến hắn để bảo tồn sự sống và danh dự, lúc đứa con ra đời. Từ sửng sốt vô cùng. Từ không tin ở sự thật rành rành. Rồi khi sự sửng sốt qua thì Từ khóc. Từ khóc như mưa, khóc tưởng chẳng bao giờ còn lặng được. Từ khóc, và ôm con ngồi nhịn đói, bởi vì Từ chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ bà mẹ già mù và quanh năm, nay ốm, mai đau, mà Từ vẫn phải nuôi. Bà mẹ già biết làm sao? Bà chỉ còn một cách là còn được ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với con và cả mẹ lẫn con chỉ còn một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu xương thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả. Giữa lúc ấy thì Hộ mở rộng đôi cánh tay ra, đón lấy Từ. Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Hộ nhận làm bố cho đứa con thơ. Vì muốn yên ủi Từ và cứu lấy danh dự của Từ, Hộ đã chính thức nhận Từ làm vợ. Rồi Hộ đứng làm ma cho bà mẹ Từ, khi bà cụ mất. Biết bao nhiều là ân nghĩa! Từ có yêu Hộ đến đâu, có chịu khó đến đâu, có làm nô lệ cho Hộ suốt đời Từ nữa, thì cũng chưa đủ để mà đền ơn. Bởi thế, nên luôn mấy năm trời, Hộ thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm. Và đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm. [1]

Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp của hắn, và thấy cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Đói rét không có nghĩa lí gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn'. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời... Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi khổ đau của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn đẹp nhẹp, vô nghĩa lí, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn kí tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng, vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn... Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là để tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hi sinh như người ta vẫn nói ư? Đã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ. Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỉ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường; nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Vả lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?... Hắn tự bảo: “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn! Sự sinh hoạt lúc này chẳng dễ dàng đâu!”. Từ khi đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. Từ săn sóc chúng đã đủ ốm người rồi, chẳng còn có thể làm thêm một việc khác nữa. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng văng mát ở bên ngoài đã làm cái trán nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích. Rồi khi gió nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh. Hắn tìm một người bạn thân nào để nói chuyện văn chương, ngỏ ý kiến về một vài quyển sách mới ra, một vài tên kí mới trên các báo, phác hoạ một cái chương trình mà hắn biết ngay khi nói là chẳng bao giờ hắn có thể thực hành, rồi lặng lẽ nghĩ đến các tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra, như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi... những mộng đẹp ngày xưa... một con người rất đáng yêu đã chẳng còn là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”. Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn... Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng : việc được kể từ điểm hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn... [2]

***

Ít lâu nay, mỗi lần ra đi, Hộ không chỉ trở về buồn bã mà thôi. Hắn say mềm. Thường thường hắn đã ngủ một nửa ngay từ khi còn ở dọc đường; và vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, tháo giày, đã đổ như một khúc gỗ xuống bất cứ một cái giường nào, ngủ say như chết. Từ phải chờ khi con ngủ mê, rón rén lừa con, dậy lại tháo giày, cởi quần tây cho hắn, luồn một cái gối xuống gáy hắn, và cố nhắc chân, nhắc tay hắn, đặt cho hắn nằm ngay ngắn lại... Nhưng cũng có đêm hắn chưa ngủ vội. Hắn lảo đảo bước vào nhà, mắt gườm gườm, đôi môi mím chặt. Hắn đi thẳng lại trước mặt Từ. Hắn cúi xuống, quắc mắt nhìn Từ, gõ gõ một ngón tay trỏ vào trán Từ và doạ như người ta doạ trẻ con:

– Ngày mai... mình có biết không?... Chỉ ngày mai thôi! – Là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này... Tôi đuổi tất, không chừa một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan nhất... Mấy đứa kia đều đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn với hét! Cả con mẹ nữa, con mẹ là mình ấy... cũng đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn rồi ngồi ôm con như nhện ôm khư khư bọc trứng, không chịu làm thêm việc gì cho có tiền. Chỉ khổ thằng này thôi!

Hắn rít lên như vậy. Rồi hắn lại mím chặt môi, đôi mắt ngầu ngầu nhìn vào tận mặt Từ. Từ chẳng dám cãi nửa lời, chỉ lẳng lặng cúi mặt nhìn xuống, như một đứa trẻ con biết mình có lỗi khi người ta quở phạt. Bởi vậy hắn trừng trị một lúc rồi quay ra, loạng choạng cởi quần, cởi áo, hắn vứt bừa bộn xuống giường. Rồi hắn tháo giày, quăng từng chiếc một vào một xó nhà. Có khi máy tay, hắn quăng cả những vật gì thấy trên bàn, rồi lải nhải mắng Từ về tội không biết thu dọn nhà cho gọn ghẽ. Hắn nói chán rồi đi ngủ. Bấy giờ Từ mới dám đứng lên, treo quần áo cho hắn lớn mắc và thu dọn tất cả những thức hắn đã vất lổng chổng ra đầy nhà.

Lần đầu, Từ sửng sốt. Từ chẳng hiểu ra sao, Tử đoán chồng nghe ai nói nên ghen bóng, ghen gió chi đây, Từ khóc suốt đêm và dự định sẵn những câu để sáng hôm sau nói. Nhưng sáng hôm sau, hắn không để cho Tử phải nói. Hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén tối hôm qua, hỏi Từ về những thủ đoạn vũ phu của mình rất buồn cười, rồi xin lỗi Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn tuyên bố từ giờ chừa rượu và giữ được khá lâu, nhưng rồi lại uống và say như lần trước để làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Cứ thế mãi Từ quen đi, không giận nữa. Nhưng Từ lờ mờ hiểu nỗi đau khổ mà có lẽ chính Từ đã gây ra cho chồng. Từ hiểu và Từ buồn lắm, buồn lắm lắm. Còn gì buồn cho bằng mình biết mình làm khổ cho người mà mình yêu? Nhưng Từ biết làm sao được? Đã nhiều lần Từ muốn ẵm con đi. Đã nhiều lần, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, Từ muốn hi sinh. Nhưng lòng Từ mềm yếu biết bao! Từ là vợ! Từ là mẹ. Từ sống với những tình cảm thông thường của đàn bà. Từ rất yêu chồng và thường nhận ra rằng chồng Từ cũng yêu Từ, cũng muốn có Từ. Những khi Từ ốm đau chẳng hạn. Hộ lo xanh mắt và thức suốt đêm để trông coi thuốc thang cho vợ. Đối với các con cũng vậy. Chỉ xa chúng mấy ngày, Hộ đã nhớ và lúc về thấy các con chạy ra reo mừng và nắm lấy áo mình, thường thường Hộ cảm động đến ứa nước mắt. Hắn hôn hít chúng vô vập lắm... Biết đâu hắn sẽ sung sướng khi không con, không vợ? Từ nghĩ về hắn; nghĩ thế nhưng Từ cũng chẳng dám tìm cách mà xa hắn. Mới nghĩ đến sự xa hắn, Từ đã phải thổn thức đến bật tiếng khóc ra được rồi... Từ đành chỉ cố ngoan ngoãn hơn, đáng yêu hơn. Từ nhịn mặc, nhịn ăn để bớt những món tiêu. Từ thu xếp cửa nhà ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng. Nhất là Từ hết sức ngăn những tiếng khóc, tiếng nô đùa của lũ con. Từ sợ cả nói với chồng. Bởi vậy ba lần nhìn chồng để toan nói, Từ thấy chồng đang đọc sách chăm chú quá, không dám nói lại cúi mặt xuống nhìn đứa con đang nằm trong lòng Từ.

Nhưng Hộ bỗng ngoảnh mặt lên. Hắn vừa gặp được một đoạn hay lắm nên ngừng đọc, ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng. Đôi mắt hắn, tuy mới rời trang sách đã nhìn ngay lại phía Từ. Hắn mỉm cười, Từ cũng mỉm cười.

Hắn bảo:

– Này, Từ ... Nghĩ cho kĩ, đời tôi không đáng khổ mà hoá khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình tính: người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!... Mình có hiểu không? ... Ba câu giản dị một cách không ngờ – mà hay được đến như thế này...

Hắn đọc lại đoạn văn. Hắn dịch nghĩa để Từ nghe. Hắn giảng giải cho Từ. Tuy Từ chẳng hiểu được bao nhiêu, nhưng cũng tin lời hắn lắm. Từ giữ mãi nụ cười hiền dịu trong khi nghe hắn nói. Khi hắn ngừng nói đã được một lúc khá lâu, Từ mới làm như chợt nhớ ra:

– Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi, mình nhỉ?

– À phải! Hôm nay mồng ba... Giá mình không hỏi tôi thì tôi quên... Tôi phải đi xuống phố.

Từ nhắc khéo:

– Hèn nào mà em thấy người thu tiền nhà sáng nay đã đến...

Hộ sầm mặt lại:

– Tiền nhà... tiền giặt... tiền thuốc... tiền nước mắm... còn chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn quá, mới mồng mười đã hết tiền. May mà còn có đất mua chịu được.

Hắn nghĩ đến món tiền hắn đã tiêu phí mấy hôm đầu tháng. Mỗi lần bực tức hay chán nản, hắn lại đi uống rượu, thành thử tiền hết sớm. Từ không hé môi phàn nàn nửa tiếng, nhưng cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn khem khổ, thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm, ăn cháo. Hộ trông thấy thế, thương vợ, thương con quá, và ân hận vì mình đã tiêu quá trớn. Bởi vậy suốt từ mồng mười đến hết tháng, hắn không ra khỏi nhà để chẳng phải tiêu thêm tí gì...

Hắn vừa mặc quần áo, vừa nhắc thầm trong trí:

– Nhất định hôm nay không đi đâu cả... Lấy tiền xong là về ngay...

Nhưng Từ bảo:

Mình đi phố thì đi ăn nhé. Còn có ít gạo chỉ đủ cho lũ trẻ. Em chả đong thêm nữa, để mai trả tiền rồi lấy luôn thêm một thể... Em không để cơm mình đâu đấy... Nhà chẳng còn gì ăn...

Hộ hơi cau mày. Bởi vì hắn sợ bước vào tiệm ăn lắm. Hắn có thể gặp ở đây một vài người bạn... và khi ấy thì... ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những cái gì còn lại.... Hắn sẽ uống rất khoẻ, nói toàn những chuyện vá trời lấp biển, rồi đi la cà đến hết đêm mới về. Hắn nghĩ ngợi một chút rồi hắn bảo:

– Được! Tôi sẽ mua cái gì về để cả nhà cùng ăn.

– Đừng phiền nữa! Em cứ cho chúng nó ăn cơm trước rồi đi ngủ.

– Đừng ăn trước... Đợi tôi đem thức ăn về, ăn một thể. Tôi về sớm. Cả tháng chúng nó đói khát, khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.

Vẽ chuyện!

Hắn mỉm cười, đáp lại. Hắn lại gần Từ, cúi xuống nắm lấy tay đứa bé và gọi nó. Mặt hắn và mặt Từ ghé sát. Hắn cố ý khẽ chạm môi mình vào má Từ một cái. Từ vờ rũ mấy cái bụi ở tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn vuốt má Từ một cái rồi ra đi.

***

Ở toà báo ra, Hộ đi thẳng tới một hiệu thịt quay. Hắn định mua mấy hào thịt vài cái bánh tây, gói đem về. Lòng hắn sáng bừng. Hắn tưởng tượng ra cái cảnh lũ con háu ăn và đói khát, rón thịt bằng tay và ăn những miếng bánh thật to, miệng phụng phịu và mỗi bóng nhờn những mỡ. Cái cảnh thô tục và cảm động! Hắn sẽ cười thoả thích. Còn Từ sẽ ngồi bên hắn mà nhìn chúng, đôi mắt sung sướng và thương hại loang loáng ướt... Đến trước cửa hiệu thịt quay, Hộ dừng lại. Hắn cẩn thận nhìn trước, nhìn sau, trước khi vào. Một người quen có thể đi qua, và nếu họ bắt gặp hắn đang cố nhét một gói thịt vào túi áo!... Không! Không có gì đáng ngại, ngoài đường phố... Nhưng trong hiệu, một thiếu nữ đẹp đang mặc cả... Hắn đành đợi vậy. Trong khi đợi, hai tay chắp sau lưng, hắn làm ra vẻ đợi một người bạn vừa vào một nhà nào gần đấy. Bỗng một bàn tay đập vào vai khiến hắn giật mình quay lại. Trung nhếch cười lặng lẽ và Mão cười ầm ĩ, cùng đưa tay cho hắn bắt:

– Mải ngắm nàng thơ nào mà ngây người ra thế?

Hộ ấp úng:

– À! Các anh!...

– Không theo gót sen nào đấy chứ?

– Cái ấy không quan hệ! Thi sĩ là người giữ được mình trẻ mãi và đến muôn năm vẫn còn trinh bạch.

– Cũng may tôi lại cũng không là thi sĩ nốt.

– Nghĩa là chẳng theo nàng nào cả?

– Chẳng theo nàng nào cả!

– Thế thì đi theo hai thằng này! [3]

Hộ nhìn Trung và Mão một thoáng rồi mới hỏi:

– Làm chi?

– Chẳng làm chi cả!

– Thế thì đệ kiếu. Đệ phải về kẻo hết tàu điện.

Trung cau mày nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ:

– Sao lại có người điên đến thế. Về giữa lúc chiều thì đẹp mà phố thì vui thế này.

Họ trở nên đứng đắn:

– Không đùa nữa... Thật ra thì tôi có việc phải về, thế thôi.

– Ờ! Nói vậy còn dễ nghe... Thôi thế anh về nhé.... Nhưng mà... này! Anh đã biết gì chưa:

Hộ đã toan đi, quay đầu lại nhìn Trung...

Đường về sắp được dịch ra tiếng Anh đấy nhé! Bản quyền tác giả ba nghìn đồng. Hộ trợn mắt lên. Người hắn bồi hồi. Một lúc lâu hắn mới hỏi được Trung:

– Có đích không?

– Đích xác rồi. Chính Quyền đưa cái thư điều đình cho chúng tôi xem.

Hộ có vẻ hoài nghi:

– Không mà lại.... Tôi biết lắm... Nhưng lại đăng này đã, về làm gì vội? Chúng mình làm cốc bia...

Hộ đã quên hẳn vợ con. Hắn chỉ còn háo hức muốn biết thêm về việc quyển Đường về của Quyền được dịch ra tiếng Anh. Hắn bám lấy Mão và Trung. Ba người vào một tiệm giải khát ở Bờ Hồ. Và chỉ độ nửa giờ sau, Mão và Trung đã thấy Hộ đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia xuống mặt bàn:

– Cuốn Đường về chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay, các anh có hiểu không? Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem... Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyền ấy sẽ ăn giải Nô-ben (Nobel) và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu!

Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. Mão thì cười hô hố. Hộ không cười, mặt căng lên vì hứng khởi. Hắn nói say sưa lắm. Và đến lúc đèn phố bật, Trung và Mão muốn về, Hộ bảo luôn:

– Thong thả đã! Đi đâu mà vội? Chúng mình đi uống rượu... Tôi có tiền...

Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Đó là sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ... Hắn đột nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ. Nhưng không! Từ vẫn còn nhà... Chắc hẳn trong lúc quá say, hắn gài cửa nhưng chưa gài được, thành thử khi thấy hắn ngủ mệt rồi, Từ lại bế con vào. Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Đầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xoè ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kĩ thì Từ khó mặt lắm. Đột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kĩ xem mặt Từ lúc bấy giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sẽ xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực... Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi... Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng níu hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc: [4]

– Anh... anh... chỉ là một thằng... khốn nạn!...

– Không!... Anh chỉ là một người khổ sở!... Chính vì em mà anh khổ...

Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:

A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình... Mợ thương.

Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng... Từ vừa đưa vừa hát:

Ai làm cho gió lên giời,

Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;

Ai làm Nam, Bắc phân kì,

Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân...

(Đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 490 (4/12/1943)

(Trích trong Tuyển tập Nam Cao, tập 2, NXB Văn học 1993, tr. 5 –17)

Câu hỏi

Câu 1 trang 31 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Tóm tắt các sự kiện được kể trong văn bản; nhận xét về cách đặt nhan đề của văn bản.

Trả lời:

1) Về những sự kiện chính trong truyện Đời thừa, có thể liệt kê:

- Là một nhà văn nghèo, giàu mộng ước nhưng cũng giàu tình thương, Hộ dang tay cứu vớt cuộc đời của Từ và đứa con riêng của Từ, cưới Từ làm vợ, chu toàn đám tang khi mẹ Từ mất,...

- Hộ phải làm việc cật lực để nuôi sống một gia đình ngày càng đông, do đó anh phải viết nhanh, viết nhiều một cách cẩu thả và điều này trái với lương tâm anh.

- Đau đớn nhận ra hoài bão văn chương chính đáng, cao đẹp càng ngày càng xa vời, bản thân ngày càng chìm sâu vào cảnh sống “đời thừa”, Hộ sinh ra cáu gắt, tìm rượu giải buồn,... và nhiều khi đối xử phũ phàng, vô lí với vợ con. Cứ sau mỗi lần như vậy, Hộ đều tự trách mình, tự hứa với mình sẽ thay đổi, yêu thương vợ con hơn. Nhưng rồi Hộ vẫn “chứng nào, tật đó”.

- Một lần, Hộ đi lĩnh nhuận bút, dự định sẽ về sớm để cùng ăn cơm với gia đình. Nhưng khi nghe tin có một cuốn truyện khá tầm thường mới được dịch ra tiếng Anh, nhân mới lĩnh tiền, anh lại cùng bạn quá chén, sa đà đàm đạo và sa đà vào cuộc say. Về đến nhà trong cơn say, anh lại trút buồn giận lên người vợ đáng thương.

- Khi tỉnh rượu, Hộ rất ân hận về cách hành xử phũ phàng, vô lí của mình. Nhìn hình ảnh người vợ gầy guộc, xanh xao nằm ôm con ngủ trong dáng vẻ khổ não trên chiếc võng, lòng Hộ lại trào lên tình yêu thương, niềm ân hận. Anh tự mắng nhiếc mình và bật khóc.

- Truyện kết thúc bằng câu hát ru buồn của Từ.

2) Về nhan đề Đời thừa

- “Đời thừa” là một cụm từ được tạo ra bởi cách kết hợp độc đáo, chỉ tình trạng sống của con người không được xem là có giá trị, sống vô ích, vô vị…

- Nhan đề này rất phù hợp với nội dung tự nhận thức của nhà văn Hộ về tình trạng sống của bản thân nhân vật này trong văn bản truyện. Hộ vòn là nhà văn có hoài bão, có nhân cách, chỉ vì gánh nặng cơm áo, gia đình, đành phải gác lại hoài bão, tự thấy mình đã và đang đánh mất giá trị, ý nghĩa trong cuộc đời mình, đề sống vô ích, tầm thường như một “kẻ bất lương” một “thằng khốn nạn”. Hơn ai hết, anh hiểu rằng đó chính là tình trạng “đời thừa”, sống mà như đã chết – một cái chết về mặt tinh thần, gắn với bi kịch tình thần đau đớn.

Câu 2 trang 31 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Xác định ngôi kể và điểm nhìn được sử dụng trong văn bản. Cách sử dụng ngôi kể điểm nhìn như vậy, theo bạn, có ưu thế/ giới hạn gì so việc sử dụng ngôi kể, điểm nhìn khác?

Trả lời:

- Truyện Đời thừa sử dụng người kể chuyện ngôi thứ ba toàn trị.

- Tác dụng:

+ Giúp người kể chuyện có được tầm nhìn bao quát (toàn tri) để quan sát câu chuyện, sự việc, nhân vật từ nhiều vị trí không gian, thời gian khác nhau; nàng cao tính khách quan của lời kể, bổ sung nhiều thông tin phong phú về các sự kiện, nhân vật.

+ Giúp người kể chuyện có thể khai thác sâu đời sống nội tâm của nhiều nhân vật. Trong Đời thừa, cả Hộ và Từ đều hiện lên với nội tâm sinh động là nhờ ưu thế của ngôi kể, điểm nhìn này.

Câu 3 trang 31 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Kẻ bảng sau vào vở. Chỉ ra một số biểu hiện về sự thay đổi của Hộ khi phải đối mặt với thực tế cuộc sống:

 

Quan niệm, khát vọng của Hộ

Sự thay đổi của Hộ khi phải đối mặt với thực tế

Với hoài bão viết văn

   

Với lẽ sống vì tình thương

   

Trả lời:

 

Quan niệm, khát vọng của Hộ

Khi Hộ phải đối mặt với thực tế

Với hoài bão viết văn

Xem văn chương như lẽ sống, “nghệ thuật là tất cả, hoài bão viết một tác phẩm để đời; khi viết phải viết một cách cẩn thận, không được dễ dãi, cẩu thả, vì “sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện” (Quan niệm về nghệ thuật).

Vì hoàn cảnh nuôi cả một gia đình, Hộ dần xa rời lí tưởng, viết vội, viết nhanh, hời hợt, cạn kiệt ý nghĩa. Những hoài bão trở nên xa vời mà ngay cả anh cũng biết mình không bao giờ hoàn thành được nó.

Đây là thực tế đưa đẩy; quan niệm, khát vọng đó không hề thay đổi hay mất đi, và vì như vậy Hộ mới lâm vào bi kịch tinh thần đau đớn.

Với lẽ sống vì tình thương

Bản thân có thể thiệt thòi, nhưng nhất định nghe theo lí tưởng sống vì lòng nhân từ, bác ái, giúp đỡ kẻ yếu thế, kẻ thân cô thế cô (Quan niệm về cuộc sống).

Ban đầu, Hộ cứu vớt Từ vì tình thương, lòng bác ái. Nhưng rồi những khổ cực của đời thường đã khiến anh trở nên cáu bẳn, mắng nhiếc, hành hạ vợ con và tự cho rằng bi kịch của mình là do vợ con gây ra. Thậm chí anh còn sa vào rượu chè. Khi tỉnh dậy, anh có hối lỗi nhưng rồi đâu lại hoàn đấy, Hộ vẫn trong một cái vòng luẩn quẩn bi kịch không lối thoát.

Những thay đổi trong cách hành xử của Hộ là một minh chứng về sự xung đột giữa một bên là lí tưởng và một bên là thực tế. Lí tưởng thì cao đẹp nhưng để thực hiện được nó thì không dễ và khi đối mặt với thực tế, lí tưởng đó đã bị “vỡ mộng” một cách không thương tiếc.

Câu 4 trang 31 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Qua cuộc sống của nhân vật Hộ trong truyện ngắn, bạn nhận xét thế nào về cuộc đời của bộ phận trí thức tiểu tư sản Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945?

Trả lời:

Cuộc sống của bộ phận trí thức tiểu tư sản Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 bị đời sống thực tế trước mắt làm thui chột hi vọng, niềm tin, phải lao vào kiếm tiền một cách vội vã, hời hợt để nuôi sống bản thân và gia đình. Họ ý thức được bị kịch “sống mòn” đó nên luôn khổ sở, chán nản, lâm vào bế tắc. Lí tưởng cao đẹp dần dần lụi tàn.

Bi kịch tinh thần của những người trí thức nghèo như Hộ có thể tìm thấy trong rất nhiều tác phẩm khác của Nam Cao, học sinh có thể tìm đọc thêm như Trăng sáng, Lão Hạc, Sống mòn,...

Câu 5 trang 31 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Các chi tiết miêu tả nước mắt của Hộ, của Từ, nước mắt trong câu hát ở cuối văn bản có tác dụng gì trong việc thể hiện chủ đề và tư tưởng của truyện?

Trả lời:

Trong văn bản, có nhiều lần Hộ khóc, và Từ khóc. Học sinh có thể thống kê để thấy trong toàn văn bản, có bốn lần Từ khóc và ba lần Hộ khóc. Ngoài ra, Nam Cao còn kết thúc thiên truyện bằng một câu hát có từ “nước mắt” Những chi tiết này cho thấy dụng ý của Nam Cao trong việc thể hiện chủ đề và tư tưởng của truyện. Truyện cho ta thấy chủ đề về một cuộc sống tù túng, chật hẹp, quẩn quanh không lối thoát của trí thức nghèo thành thị giai đoạn 1932 – 1945, những con người có hoài bão, ước mơ cao đẹp nhưng lại bị cơm áo gạo tiền đòi hỏi, không còn đủ sức để thực hiện những lí tưởng của mình.

Nước mắt tượng trưng cho sự đau khổ. Ở đây Hộ khổ, Từ cũng khổ, và không biết khi nào họ mới hết khổ. Truyện của Nam Cao kết thúc bằng một câu hát đầy đau khổ cho thấy tư tưởng bế tắc của nhà văn lúc bấy giờ.

Từ đó, chúng ta hiểu và cảm thông hơn với họ, những trí thức nghèo trong xã hội Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945. Đó chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của Nam Cao.

Câu 6 trang 31 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Theo bạn, truyện Đời thừa của Nam Cao được viết theo phong cách sáng tác nào? Căn cứ vào đâu để bạn khẳng định như vậy?

Trả lời:

Truyện Đời thừa được sáng tác theo phong cách hiện thực.

Căn cứ nhận biết:

Đời thừa đã khắc hoạ tỉ mỉ, sinh động bức tranh chân thực về xã hội và cuộc sống của người trí thức nghèo Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 với cảm hứng phê phán sâu sắc. Cái xã hội ấy đã đẩy những trí thức nghèo như văn sĩ Hộ đến chỗ cùng quẫn, tự đánh mất mình vì “gánh nặng áo cơm” và lâm vào bi kịch tinh thần đau đớn, không lối thoát.

- Đề tài của tác phẩm gắn với cái hằng ngày, sinh hoạt hằng ngày, những lo toan, buồn vui hằng ngày của con người. Đây là một đề tài ưa chuộng của phong cách hiện thực nói chung, sáng tác của các nhà văn thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 – 1945 nói riêng.

- Trong tác phẩm, hoàn cảnh sống của nhân vật Hộ là hoàn cảnh điển hình; Hộ là nhân vật điển hình – điển hình cho bi kịch tinh thần của những trí thức, văn nghệ sĩ nghèo, nạn nhân của xã hội đương thời.

Câu 7 trang 32 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Trích dẫn và giải thích ý nghĩa của một số câu văn/ đoạn văn thể hiện quan niệm của nhân vật Hộ về hoạt động sáng tác văn chương.

Trả lời:

Truyện ngắn này là một truyện ngắn có tính chất luận đề của Nam Cao, qua đó ông bộc lộ những quan niệm về nghệ thuật của mình một cách đầy đủ và sâu sắc.

Có thể trích dẫn và giải thích ngắn gọn một số câu văn/ đoạn văn sau:

Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”: đây là đoạn văn cho thấy lí tưởng viết văn của Hộ. Anh muốn sáng tác một tác phẩm lớn, có ý nghĩa, có giải thưởng lớn, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Và muốn vậy anh phải lao tâm khổ tứ với nó.

“Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”: Hộ quan niệm viết văn phải cẩn thận, trau chuốt, kĩ lưỡng, không chấp nhận lối viết cẩu thả.

“Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”: văn chương đòi hỏi phải sáng tạo, có cá tính, có chiều sâu và độc đáo.

“Những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình tính: người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!... Mình có hiểu không? ... Ba câu giản dị một cách không ngờ – mà hay được đến như thế này...: văn chương là niềm vui, hạnh phúc, lẽ sống của Hộ. Anh đề cao sự tiếp nhận của độc giả.

“Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”: đối với Hộ, một tác phẩm có giá trị là một tác phẩm mang tính nhân văn, phải vượt biên giới một quốc gia lan toả ra thế giới, giúp con người hướng thiện và xích lại gần nhau.

Nhìn chung, những quan niệm nghệ thuật trên đây của Hộ (cũng chính là của Nam Cao) rất xác đáng, sâu sắc và thâm thuý. Có lẽ văn chương muôn đời nay đều mong mỏi đạt được cái đích như thế.

Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài 2: Những ô cửa nhìn ra cuộc sống (Truyện lãng mạn và hiện thực) hay khác:

Xem thêm giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 12 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official


Giải bài tập lớp 12 Chân trời sáng tạo khác
Tài liệu giáo viên