SBT Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo Bài 4 Đọc trang 72, 77, 78
Với giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài 4 Đọc trang 72, 77, 78 sách Chân trời sáng tạo hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ 12.
- Câu 1 trang 72 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 2 trang 72 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 3 trang 72 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 1 trang 77 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 2 trang 77 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 3 trang 77 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 4 trang 78 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 5 trang 78 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 6 trang 78 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
Giải SBT Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo Bài 4 Đọc trang 72, 77, 78
A. Câu hỏi củng cố kiến thức, kĩ năng theo sách giáo khoa
Phóng sự là một thể loại thuộc ……... phản ánh những sự việc, câu chuyện mang tính ………... và có ý nghĩa ……... đối với một cộng đồng xã hội, thể hiện thái độ ……….. của người viết đối với những sự việc đó.
Trả lời:
Phóng sự là một thể loại thuộc ký, phản ánh những sự việc, câu chuyện mang tính thời sự và có ý nghĩa xã hội đối với một cộng đồng xã hội, thể hiện thái độ khách quan của người viết đối với những sự việc đó.
Trả lời:
Khi viết phóng sự, tác giả thường sử dụng các biện pháp nghiệp vụ báo chí như điều tra, phỏng vấn, đối thoại,...nhằm bảo đảm tính xác thực của tư liệu.
Trả lời:
Lí do của việc kết hợp chi tiết, sự kiện hiện thực với trải nghiệm khi viết phóng sự, nhật kí: Nhằm thể hiện tính xác thực của thông tin, đồng thời đem lại cho người đọc những nhận thức sâu sắc gắn liền với cái nhìn, tình cảm của tác giả về thông tin được phản ảnh trong văn bản.
B. Câu hỏi thực hành đọc hiểu
Đọc văn bản Thuế máu (Nguyễn Ái Quốc) và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
THUẾ MÁU
Nguyễn Ái Quốc
I. CHIẾN TRANH VÀ “NGƯỜI BẢN XỨ”
Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” (Annanite) bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiển” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lí và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng (Balkan), lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, – chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sống Mác-nơ (Marne), hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ (Champagne), để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế.
Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn “bô-sơ”, nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đăng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy. Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương, đất nước mình nữa!
II. CHẾ ĐỘ LÍNH TÌNH NGUYỆN
Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khoá, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 – 1916 tới nay, lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa.
Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: Lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,...
Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền không thiên vị được giao cho sử dụng ở châu Âu “vật liệu biết nói” châu Á, thì vật liệu này đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất lớn về chuyên chở và bảo quản.
Sau nữa, việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “chúa tỉnh” - mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” – ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở kiểu D thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này phải chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “Đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra. Những người bị tóm đi như thế còn hào hứng gì nữa với cái nghề cột vào cổ họ. Cho nên, bước chân vào trại lính là họ liền tìm mọi cơ hội để trốn thoát.
Còn những người nào thấy không thể thoát khỏi số phận hẩm hiu, thì tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất, mà thông thường hơn cả là bệnh đau mắt toét chảy mủ, gây ra bằng cách xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống đến mủ bệnh lậu.
* * *
Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, Phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những người lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh tốp thì bị xách tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miêu, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”?
[...]
III. KẾT QUẢ CỦA SỰ HI SINH
Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người “Nê-gơ-rô” (negroid) lẫn người “An-nam-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”.
Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua đến các vật kỉ niệm đủ thứ,... trước khi đưa họ đến Mác xây (Marseille) xuống tàu về nước, đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? Về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” đó sao?
Thế là những “cựu binh” – đúng hơn là cái xác còn lại – sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lí nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lí cả.
Theo báo chí Đông Dương thì thương binh người Pháp bị mất một phần thân thể và vợ con của tử sĩ người Pháp đều được cấp môn bài' bán lẻ thuốc phiện.
Như thế là trong một việc mà chính quyền thuộc địa đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại. Một mặt, họ vẫn chưa thoả khi tự tay làm cái việc bỉ ổi của người đầu độc, mà còn muốn lôi kéo vào đây cả những nạn nhân đáng thương hại của cuộc huynh đệ tương tàn nữa. Mặt khác, họ coi rẻ tính mạng và xương máu của những kẻ đã bị họ lừa bịp, đến nỗi tưởng rằng chỉ cần quẳng cho những người này khúc xương thối ấy là đủ để đền bù được một cánh tay bị mất hoặc mạng của một người chồng.
Chúng tôi chắc rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ vào mặt kẻ tặng quà. Chúng tôi cũng tin chắc rằng thế giới văn minh và người Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân đang không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi.
[...]
(In trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2,
NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 25 – 33)
Nội dung sự việc |
Lời kể |
Lời miêu tả |
Lời bàn luận của người viết |
Chiến tranh và “người bản xứ” |
… |
… |
… |
Chế độ lính tình nguyện |
… |
… |
… |
Kết quả của sự hi sinh |
… |
… |
… |
Trả lời:
Nội dung sự việc |
Lời kể |
Lời miêu tả |
Lời bàn luận của người viết |
Chiến tranh và “người bản xứ” |
Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta,... |
Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhỏ, để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế,... |
Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cho cái vinh dự đột ngột ấy... |
Chế độ lính tình nguyện |
Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương... |
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? |
Những người bị tóm đi như thế còn hào hứng gì nữa với cái nghề cột vào cổ họ,… |
Kết quả của sự hi sinh |
Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người “Nê-gơ-rô” lẫn người “An-nam-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”. |
Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ... trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước, đó sao? |
Thế là những “cự binh” – đúng hơn là cái xác còn lại – sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lí nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lí cả,… |
Trả lời:
- Giải thích nhan đề Thuế máu: Thuế đóng bằng máu, đóng bằng mạng sống của con người.
- Từ nhan đề và các đề mục, xác định chủ đề và thông điệp của văn bản:
+ Chủ đề: Tố cáo chính sách tàn bạo của thực dân Pháp trong việc bắt người dân nghèo khổ ở các xứ thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ cho lợi ích của nước Pháp.
+ Thông điệp: Chế độ thực dân là độc ác và lừa bịp. Cần lên án, vạch trần, lật đổ chế độ này.
Trả lời:
- Thái độ của các quan cầm quyền thực dân Pháp đối với dẫn bản xứ trước trong và sau chiến tranh:
+ Trước chiến tranh: Coi người dân bản xứ chỉ là bọn người “bẩn thỉu”, làm những nghề mạt hạng và chỉ xứng đáng “ăn đòn”.
+ Chiến tranh bùng nổ: Ca ngợi dân bản xứ là “con yêu”, “bạn hiền”, “những chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”, nhằm mục đích đẩy họ ra trận, đến làm bia đỡ đạn ở những vùng đất xa xôi của nước Pháp.
+ Chiến tranh kết thúc: Người dân bản xứ lại trở về là giống người “bẩn thỉu”; tính mạng và xương máu của họ bị coi rẻ, phớt lờ. Những “tuyên bố tình tứ” trước kia của nhà cầm quyền “... bỗng dưng im bặt như có phép lạ!”.
- Đó là cách miêu tả theo lối đối lập. Cách miêu tả này đã có tác dụng rõ rệt trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm:
+ Làm nổi bật luận điệu xảo trá, hành động lừa bịp, thái độ lật lọng, trơ tráo của thực dân Pháp đối với người bản xứ.
+ Tăng sức mạnh tố cáo “chế độ lính tình nguyện” cưỡng ép người dân bản xứ phải chịu đựng biết bao bi kịch.
Trả lời:
- Cảm hứng chủ đạo: Cảm hứng vạch trần sự thật qua đó phê phán, tố cáo chế độ bắt lính tàn bạo, vô nhân đạo; thái độ lật lọng, trơ tráo của thực dân Pháp đối với người dân bản xứ; đồng thời thể hiện niềm xót xa đối với những bất hạnh, thương đau mà người dân các nước thuộc địa phải gánh chịu trong chiến tranh phi nghĩa.
- Phân tích sự phù hợp giữa chủ đề, thông điệp, tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của tác phẩm:
Chủ đề [1] |
Thông điệp [2] |
Tư tưởng [3] |
Cảm hứng chủ đạo [4] |
Chủ đề: Tố cáo chính sách tàn bạo của thực dân Pháp trong việc bắt người dân nghèo khổ ở các xứ thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ cho lợi ích của nước Pháp. |
Chế độ thực dân là độc ác và lừa bịp. Cần lên án, vạch trần, lật đổ chế độ này. |
Tư tưởng nhân đạo, đấu tranh cách mạng chống lại chế độ thực dân Pháp dựa trên lợi ích, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân bản xứ và các dân tộc thuộc địa. |
Cảm hứng vạch trần sự thật, qua đó phê phán, tố cáo chế độ bắt lính tàn bo, vô nhân đạo; thái độ lật lọng, trơ tráo của thực dân Pháp đối với người dân bản xứ; đồng thời thể hiện niềm xót xa đối với những bất hạnh, thương đau mà người dân các nước thuộc địa phải gánh chịu trong chiến tranh phi nghĩa. |
1) Văn bản Thuế máu thuộc thể loại phóng sự, nghĩa là một văn bản tự sự phí hư cấu được thực hiện dựa trên cảm hứng vạch trần sự thật, vạch trần bản chất bị che dấu và cảm hứng phê phán, tố cáo chính sách thuế khoá, sưu sai, tạp dịch tàn bạo của thực dân Pháp, đặc biệt là “thuế máu”. Từ cảm hứng phê phán mãnh liệt mà chủ đề tố cáo chính sách tàn bạo của thực dân Pháp trong việc bắt người dân nghèo khổ ở các xứ thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ cho lợi ích của nước Pháp được thể hiện rõ. Mặt khác, cảm hứng phê phán của một bản án phải dựa trên sự triển khai chủ đề, tức là dựa trên các số liệu, kết quả điều tra và các bằng chứng mô tả không thể chối cãi.
2) Từ cảm hứng chủ đạo là vạch trần sự thật, phê phán, tố cáo, tác giả khơi sâu chủ đề thông qua việc miêu tả hàng loạt hành động tàn độc, tráo trở của thực dân Pháp:
+ Hành động tàn độc: Đẩy người dân bản địa vùi thây nơi đáy biển, bỏ xác tại những miền hoang vu, một số khác bị tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc bãi lầy Săm-pa-nhơ,... Kết cục là: “... Bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương, đất nước mình nữa!”.
+ Thái độ tráo trở: Trước chiến tranh, các quan cầm quyền không ngớt lời ca ngợi, hứa hẹn với người dân bản xứ. Khi chiến tranh kết thúc, người dân đi lính trở về bị lột sạch của cải, bị đánh đập vô cớ, bị đối xử như súc vật và được “... Chào đón nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!”.
3) Cảm hứng phê phán, tố cáo gắn liền với tư tưởng nhân đạo, đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân bản xứ.
4) Sức mạnh của cảm hứng vạch trần sự thật và cảm hứng phê phán, tố cáo (nêu trong cột [4]) cũng như độ sâu sắc của chủ đề, thông điệp của tác phẩm (nếu trong cột [1], cột [2]) phải dựa trên một nền tảng tư tưởng nhân đạo, tiến bộ. Tư tưởng ấy, như đã nêu trong cột [3], là tư tưởng nhân đạo, đấu tranh cách mạng chống lại chế độ thực dân Pháp, dựa trên lợi ích, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân bản xứ và các dân tộc thuộc địa.
5) Phân tích trên đây cho thấy văn bản Thuế máu (trích Bản án chế độ thực dân Pháp của tác giả Nguyễn Ái Quốc) là một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất; không chỉ thống nhất cao độ giữa hình thức nghệ thuật (nhất là hình thức thể loại phóng sự) với nội dung mà còn có sự phủ hợp, thống nhất cao giữa các yếu tổ nội dung: sự phù hợp giữa chủ đề, thông điệp, tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, của tác phẩm.
Trả lời:
- Số liệu cụ thể, dẫn chứng tiêu biểu của thiên phóng sự đã mang đến sức mạnh tố cáo về hành động dã man của những kẻ đi khai hoá. Tính xác thực của số liệu đã thức tỉnh và kêu gọi được sự đồng tình của nhân loại tiến bộ đứng về phía những người dân bản xứ đấu tranh cho độc lập, tự do. Trước những số liệu xác thực, thực dân Pháp không thể làm ngơ, không thể chối cãi.
- Bằng những thủ pháp trào phúng (từ ngữ giễu nhại: “con yêu”, “bạn hiền”, “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”); giọng điệu mỉa mai, đả kích: “ấy thế mà”, “đùng một cái”,...; khai thác những hình ảnh, chi tiết tương phản, đối lập để tạo nên những bất ngờ, gây cười,...), tác giả đã hạ uy thế giả tạo của chính quyền thực dân, cay đắng cho số phận của người dân thuộc địa. Lối nói hài hước mà đả kích sâu cay đã bóc trần chính sách lính “tình nguyện” ở xứ Đông Dương là ép buộc, bắt bớ, đẩy người dân vô tội đến cái chết bi thảm. Bản chất của chính quyền thực dân là giả nhân giả nghĩa, lật lọng trắng trợn.
- Các biện pháp tu từ (liệt kê, phép đối, chơi chữ, câu hỏi tu từ,...) được tác giả sử dụng rất hiệu quả.
+ Phép đối: “cuộc chiến tranh vui tươi”, “quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, “quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé”,...
+ Liệt kê: “Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng; một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ”...
+ Chơi chữ: “vật liệu biết nói”, “thịt đen, thịt vàng”...
+ Câu hỏi tu từ: xuất hiện ở đoạn 2 và 3, tạo thành các đoạn văn chất vấn dồn dập, xoáy sâu vào lòng người đọc những vấn đề nhức nhối.
Nghệ thuật viết phóng sự trong Thuế máu phù hợp với nội dung, góp phần đưa Thuế máu trở thành “bản án” đanh thép đối với chế độ thực dân Pháp.
Trả lời:
“Chế độ lính tình nguyện” của thực dân Pháp là một hệ thống bóc lột và áp bức đối với người dân bản xứ. Đây là hình thức cưỡng bức họ tham gia vào quân đội để phục vụ lợi ích của thực dân, mà không được hưởng quyền lợi và điều kiện sống tương xứng. Những người lính tình nguyện thường bị đẩy vào các chiến trường khốc liệt mà không có sự lựa chọn hoặc quyền quyết định nào về số phận của mình.
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài 4: Sự thật và trang viết (Phóng sự, nhật kí) hay khác:
Xem thêm giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 12 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:
SBT Văn 12 Bài 1: Những sắc điệu thi ca (Thơ cổ điển và lãng mạn)
SBT Văn 12 Bài 2: Những ô cửa nhìn ra cuộc sống (Truyện lãng mạn và hiện thực)
SBT Văn 12 Bài 3: Sông núi linh thiêng (Truyện truyền kì, văn tế)
SBT Văn 12 Bài 5: Tiếng cười trên sân khấu (Kịch - hài kịch)
Sách VietJack thi THPT quốc gia 2025 cho học sinh 2k7:
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST