Top 10 Cảm nhận Bố của Xi-mông (hay, ngắn gọn)

Bài văn cảm nhận truyện Bố của Xi-mông hay nhất, ngắn gọn gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 9 trên cả nước.

Top 10 Cảm nhận Bố của Xi-mông (hay, ngắn gọn)

Quảng cáo

Bài giảng: Bố của Xi Mông - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 1

Guy đơ Mô-pa-xăng (1850 - 1893) là nhà văn Pháp nổi tiếng thế giới. Tuy chỉ sống đến hơn bốn mươi tuổi nhưng ông đã sáng tác một khối lượng tác phẩm lớn gồm một số tiểu thuyết như Một cuộc đời (1883). Ông bạn đẹp (1885) và hơn ba trăm truyện ngắn. Các tác phẩm của ông phản ánh chân thực tình hình xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.

Bài văn Bố của Xi-mông trích từ truyện ngắn cùng tên. Nội dung kể về chị Blăng-sốt bị một gã đàn ông lừa dối, sinh ra bé Xi-mông. Khi Xi- mông đi học, em bị đám học trò chế giễu là đứa con hoang không có bố. Xi- mông buồn tủi, lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong. Rất may, em gặp bác Phi-líp. Bác dẫn em về nhà với mẹ. Em muốn bác Phi-líp là bố và bác đã nhận lời. Nhưng bọn trẻ vẫn trêu chọc vì bác Phi-líp không phải là chồng của mẹ Xi-mông thì làm sao là bố của Xi-mông được?! Sau đoạn trích này, tác giả kể rằng vì thương Xi-mông mà bác Phi-líp đã cầu hôn với cô Blăng-sốt. Từ đó, Xi-mông có một người bố thật sự, chỗ dựa vững chắc của em trong cuộc đời. Nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng đã thể hiện rất sinh động diễn biến tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt, Phi-líp. Qua đó, ông kín đáo nhắc nhở chúng ta về tình yêu thương bạn bè, mở rộng ra là lòng thương yêu con người, biết thông cảm và chia sẻ trước những nỗi bất hạnh hoặc lầm lỡ của người khác.

Quảng cáo

Bài văn chia làm 4 phần: Phân một: Từ đầu đến ...mà chỉ khóc hoài: Nỗi buồn tủi và tuyệt vọng của cậu bé Xi-mông. Phần hai : Từ Bỗng một bàn tay... đến ...một ông bố : Xi-mông gặp bác Phi-líp. Phần ba: Từ Hai bác cháu... đến ...đi rất nhanh: Bác Phi-líp đưa Xi-mông về nhà. Phần bốn: Còn lại: Ngày hôm sau ở trường.

Trong đoạn trích này có ba nhân vật chính là cậu bé Xi-mông, mẹ em là chị Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp. Ngoài ra còn có những nhân vật phụ là các bạn của Xi-mông và thầy giáo. Chúng ta sẽ phân tích nội đung bài văn theo từng nhân vật chính.Khi cất tiếng khóc chào đời, bé Xi-mông đã phải sống trong cảnh khổ sở, thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần nhưng lớn lên, nỗi đau không có bố mới thực sự dằn vặt cậu bé. Trong bài này không có chi tiết nào nói hình dáng của Xi-mông, nhưng ở một đoạn khác của truyện, tác giả cho biết : Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát, gần như vụng dại. Vẻ ngoài ấy phần nào thể hiện hoàn cảnh sống và tính cách của một đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc. Xi-mông là đứa trẻ bất hạnh, nỗi đau không có bố lúc nào cũng day dứt làm cho trái tim nhỏ bé của em rớm máu. Nỗi đau đớn, tủi nhục thể hiện qua ý nghĩ và hành động của Xi-mông. Em bỏ nhà ra bờ sông, định nhảy xuống sông cho chết đuối vì nỗi bất hạnh không có bố khiến em không thiết sống nữa. May mà cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ xung quanh khiến em nghĩ đến nhà, nghĩ đến mẹ nên không dám làm điều dại dột. Xi-mông khóc cho vơi bớt nỗi tủi hờn: Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ . Nhưng em không đọc hết được vì những cơn nức nở lại kéo đèn, dồn dập, xốn xang choán ngợp lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài.

Quảng cáo

Xi-mông đang trong tâm trạng chới với thì gặp bác Phi-líp. Nghe bác hỏi, em thổn thức không nói nên lời: Em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào: Chúng nó đánh cháu... vì... cháu... cháu... không có bố... không có bố. Bác Phi-líp dẫn em về nhà. Gặp mẹ, em vừa mừng, vừa tủi: Xi-mông nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc và bảo: Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con... đánh con... tại con không có bố. Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông vốn là một cô gái nhẹ dạ, cả tin nên đã bị phụ tình, khiến cho con trai mình không có bố. Thực ra, chị là người thật thà và từng là một trong những cô gái đẹp nhất vùng. Bản chất của chị thể hiện phần nào qua hình ảnh ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ. Điều đó nói lên rằng chị tuy nghèo nhưng sống khá nề nếp. Nhìn thấy chị, bác công nhân bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối. Nghe con kể là bị các bạn đánh vì không có bố, đôi má thiếu phụ đỏ bừng và tê tái đến tận xương tuỷ, chị ôm con hôn lấy hôn để trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Khi nghe con hỏi Phi-lip: Bác có muốn làm bố cháu không ? thì chị Blăng-sốt hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường hai tay ôm ngực.

Quảng cáo

Bác Phi-lip là một người thợ rèn cao lớn, rậm râu, tóc đen và quăn, vẻ mặt nhân hậu. Ngay từ lúc mới gặp Xi-mông, bác đă rất thương em. Bác đã đem đến cho cậu bé niềm hạnh phúc to lớn và bất ngờ. Bác gặp Xi-mông đúng lúc em đang tuyệt vọng, định nhảy xuống sông. Bác Phi-lip đã đem lại cho em niềm hi vọng bằng một câu khẳng định là muốn trở thành bố của em. Điều đó an ủi Xi-mông rất nhiều. Bác Phi-lip tốt bụng đã cứu Xi-mông ra khỏi tay thần chết.

Nhưng Xi-mông vẫn chưa được yên ổn học hành. Bọn trẻ vẫn tiếp tục làm cho em đau khổ vì "bố Phi-lip của em không phải là bố hẳn hoi, tức là không phải chồng của mẹ em. Ở đoạn tiếp theo, tác giả kể là bác Phi-líp vì thương cậu bé Xi-mông nên đã ngỏ lời cầu hôn với chị Blăng-sốt. Bác Phi-lip đến nhà chị Blăng-sốt, mong chị chấp thuận để bác trở thành ông bố hẳn hoi của Xi-mông. Từ đó, bé Xi-mông không bị đứa trẻ nào bắt nạt nữa. Bác thợ rèn nhân hậu đã giải thoát Xi-mông khỏi sự tủi hể đem lại niềm vui sựớng và tự hào cho cậu bé. Hành động của bác Phi-lip là một việc làm nhân đạo cao cả. Không chỉ đem lại niềm vui cho bé Xi-mông, bác Phi-lip còn mang lại hạnh phúc cho chị Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông. Trong lời yêu cầu được làm một người bố hẳn hoi của Xi-mông, bác Phi-lip đã thể hiện thái độ trân trọng đối với chị Blăng-sốt. Chỉ qua những cuộc chuyện trò ngắn ngủi, bác Phi-lip đã nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của chị. Tuy rằng chị đã một lần lầm lỡ, dẫn đến hậu quả là cả hai mẹ con đều phải chịu đau buồn, nhưng chị chỉ đáng thương mà không đáng trách, vì bản tính chị không phải là người phóng túng, lẳng lơ. Bác thừa nhận chị là một phụ nữ tốt bụng, can đảm và nề nếp.

Để có thể đem lại hạnh phúc cho hai mẹ con cậu bé Xi-mông, bác Phi¬lip đã phải cố gắng rất nhiều để vượt qua những thành kiến cổ lỗ của người đời. Bác Phi-lip nhận thêm sự ủng hộ, cổ vũ nhiệt tình từ những người thợ rèn tốt bụng để có thêm sức mạnh chống lại những quan niệm hẹp hòi về giá trị của người phụ nữ. Bác đã trở thành đại diện của sự công bằng và lòng nhân ái. Bác Phi-lip đã đem lại cho chị Blăng-sốt cơ hội làm một người vợ xứng đáng của một người đàn ông tử tế. Hơn thế, bác đã khẳng định giá trị nhân cách của chị. Đó là một hạnh phúc bất ngờ và to lớn đối với Blăng-sốt. Hành động đầy tình nhân ái của bác thợ rèn Phi-líp khiến cho câu chuyện kết thúc có hậu. Bác đã làm cho những người đau khổ được hạnh phúc và đem lại cho người đọc lòng tin vào con người và cuộc sống. Đó cũng chính là mục đích cao cả mà nhà văn G.Mô-pa-xăng đặt ra trong tác phẩm này.

Dàn ý Cảm nhận Bố của Xi-mông

1. Mở bài

- Vài nét về tác giả G. Mô- pa- xăng: Một nhà văn Pháp tài năng với gia tài văn chương đồ sộ

- Khái quát về đoạn trích Bố của Xi-mông: Đoạn trích là một phần của truyện ngắn Bố của Xi- mông, khắc họa thành công nét đẹp của các nhân vật Xi-mông, Blăng- sốt và Phi- líp

2. Thân bài

a. Nhân vật Xi-mông

- Là một đứa trẻ đáng thương: "Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát gần như vụng dại", là đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc

- Ý nghĩa và hành động: Bỏ nhà ra bờ sông định tự tử.

- Tâm trạng: cảm giác uể oải, buồn bã vô cùng, chẳng nhìn thấy gì và chẳng nghĩ gì?

- Cử chỉ, hành động: Khóc, nức nở, khóc hoài

- Về nhà, nhìn thấy mẹ: - Nhảy lên ôm cổ mẹ, oà khóc

- Nói năng: ấp úng, ngắt quãng, không nên lời.

- Khi được bác Phi-líp nhận làm con: Kiêu hãnh, tự tin

+ Hết cả buồn.

+ Đưa con mắt thách thức lũ bạn.

⇒ Nghệ thuật miêu tả, so sánh ⇒ Đây là một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, đáng yêu và đáng thương nhưng đồng thời Xi – mông cũng là đứa rất có nghị lực

b. Nhân vật Blăng- sốt

- Được giới thiệu: là một thiếu phụ, cao lớn, xanh xao, nghiêm nghị.

- Sống cùng đứa con trai Xi-mông trong ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.

- Thái độ với khách: đứng nghiêm nghị…như muốn cám đàn ông bước qua ngướng cửa.

- Nỗi lòng với con

+ Tái tê đến tận xương tuỷ, nước mắt lã chã tuôn rơi.

+ Lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn

⇒ Nghệ thuật miêu tả, tác giả đã cho thấy Blăng- sốt là một người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm

c. Nhân vật Phi - lip

- Được giới thiệu là một người :

+ Cao lớn, râu tóc quăn đen

+ Bàn tay chắc nịch, giọng ồm ồm.

- Khi gặp Xi-mông: Đặt tay lên vai em ôn tồn hỏi, nhìn em nhân hậu.

- Trên đường đưa Xi-mông về nhà nghĩ bụng có thể đùa cợt với chị - “tự nhủ thầm”

- Hành động: Trò chuyện và nhận làm bố của Xi-mông

⇒ Nghệ thuật kể chuyện sinh động, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ đối thoại ⇒ Bác Phi-líp là người nhân hậu, giàu tình thương đã cứu sống Xi-mông, nhận làm bố của Xi-mông, đem lại niềm vui cho em.

3. Kết bài

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích: Nghệ thuật: miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật sắc nét.

- Nội dung: Nhắc nhở lòng thương yêu con người, bè bạn.

- Liên hệ bản thân

Sơ đồ Cảm nhận Bố của Xi-mông

 Cảm nhận Bố của Xi-mông

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 2

Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng thì tình phụ tử cũng rất đỗi đáng quý, thế nhưng có những đứa bé không sống trong tình cảm của cha ngay từ nhỏ. Những đứa bé ấy thật không may mắn. Đoạn trích bố của Xi Mông thể hiện rõ được hoàn cảnh của cậu bé Xi – mông đại diện cho những cậu bé thiếu vắng tình cảm của và bị bạn bè chế giễu.

Truyện có hai nhân vật cần phải phân tích đó là nhân vật bé Xi – mông và người đàn ông nhận bé làm con Phi líp và mẹ của bé là Blăng sốt. Trước hết là nhân vật bé Xi-mông. Khi em sinh ra em đã không biết cha mình là ai, em thường xuyên bị lũ bạn xấu trêu chọc vì không có bố. Em thậm chí còn phải đánh nhau với chúng, em căm tức chúng nhưng em vẫn tự ti vì mình không có bố. Em còn nghĩ đến cái chết khi hàng ngày cứ phải nghe những lời châm chọc của lũ bạn. Em tìm đến bên bờ sông để tự tử, cảnh vật nơi đây khiến cho nỗi lòng em vơi đi. Em đuổi bắt nhái và mìm cười nhưng đến khi nghĩ đến mẹ em lại khóc nức nở. Cơn nức nở kéo đến choáng lấy em. Xi –mông tuyệt vọng, đau khổ. Khi gặp bác Phi- líp thì nói trong tiếng nấc, ngẹn ngào không nên lời. Khi trở về nhà kể lại ý định tự tử của mình với mẹ, sau đó ngỏ ý muốn Phi líp làm bố của mình. Khi có bố em vui sướng hạnh phúc. Và ngày hôm sau đến trường, Xi-mông tự tin thách thức lại lũ bạn vì em đã có bố.

Nhân vật thứ hai là mẹ Blăng sốt. Cô là một cô gái đẹp trong vùng sống ngăn nắp đức hạnh nhưng vì một lần lầm lỡ mà khiến cho bé Xi mông sinh ra không có bố. Khi con nói về chuyện không có bố, cô cảm thấy đau đớn nhục nhã và hổ thẹn. Má ửng hồng, cảm giác tê tái và cô thương con mình. Khi bé Xi mông hỏi Philip về việc nhận làm cha, cô đau đớn nhục nhã tựa vào tường, im lặng, tay ôm ngực. Có thể nói cô là một người đáng thương cần được chia sẻ và cảm thông.Về nhân vật philip, anh là một người đàn ông cao lớn, bàn tay chắc nịch và râu tóc đen quăn. Anh nhìn Xi mông nhân hậu và quyết định đưa em về nhà. Trên đường về nhà em, anh nghĩ đến cô Blăng sốt và có ý xem thường rằng cô lầm lỡ một lần thì cũng có thể lầm lỡ lần nữa. Nhưng khi gặp Blăng sốt anh im lặng, e dè, ấp úng. Anh thay đổi cách nhìn về cô. Khi Xi mông muốn anh làm bố của nó, anh chấp nhận hôn vào má nó rồi bỏ đi rất nhanh.

Tóm lại qua tác phẩm, nhà văn muốn phản ánh một hiện thực xã hội, đó là định kiến xã hội về những người con gái không chồng mà có con, những đứa con không có bố bị xã hội khinh bỉ giễu cợt. Tuy nhiên, đâu đó vẫn có những người sẵn lòng chia sẻ và cảm thông cho số phận của những con người đáng thương ấy.

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 3

Truyện ngắn Bố của Xi-mông kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố” với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo. Bé Xi-mông và mẹ em chị Blăng-sốt thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trong lòng độc giả nhiều thương cảm. Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng” đã bị lầm lỡ tình yêu. Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt “cao lớn, xanh xao” phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố.

Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ hạ lưu dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “quỷ quái” hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ nay không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn.

Bị bọn trẻ “xua đuổi”, bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục vì “không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi đau khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà “không có bố”.

Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dill nỗi đau khổ cô đơn của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm. Con nhái màu xanh “giương tròn con mắt có vành vàng” hình như đã níu giữ chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông: “Người em rung lên, em quỳ xuống và em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”. Em khóc nức nở. Em “chỉ khóc mà thôi”. Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lý bé Xi-mông với tất cả tình thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu, ngoại cảnh có đẹp đến đâu con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố”.

Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “‘cao lớn, râu tóc đen quăn, nhãn hậu” đã đến với Xi-mông. Chú đã “lau khô” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú đã an ủi cm với tình thương của một con người “có phép lạ”: “Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu một ông bố”. Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu buồn cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em-chị Blăng-sốt.

Cảnh bé Xi-mông bất ngờ gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “một ông bố”. Đoạn đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô dần trên má em; em đã được chú thợ rèn dắt tay đưa về với mẹ.

Tính cách bé Xi-mông được khắc họa đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng lên, hôn vào má em và nói: “Có chứ, chú có muốn” thì tâm hồn em “hoàn toàn khuây khỏa” và em đã khắc cái tên Phi-líp vào lòng, với niềm tự hào “có bố”. Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú lù bố cháu đấy nhé!”. Có bố, đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có nơi nương tựa. “Con có cha như nhà có nóc” (Tục ngữ). Có bố tức là có quyền làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”:

“Bố tao ấy, bố tao là Phi-líp”.

Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ!

Đọc truyện Bố của Xi-mông, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi-mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt.

“Không có bố thì đau khổ!”, “Có bố thì hạnh phúc!”. Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và đáng yêu!

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 4

“Khó tìm thấy một nhà văn nào tinh tế, sâu sắc, đôn hậu với nhiêu nỗi day dứt vê con người như Guy đơ Mô-pa-xãng”. Nhà văn ấy, dù chỉ sống cuộc đời ngắn ngủi hơn bốn mươi năm nhưng đã để lại một khối lượng tác phẩm đổ sộ với nhiều thể loại, đặc biệt hơn cả là đóng góp về lĩnh vực truyện ngắn cho nền văn học Pháp và thế giới. Bố của Xi-mông với vẻ đẹp và sự ấm áp tình người.

Chính tình người, một tình cảm nhân đạo, tình yêu thương và lòng nhân ái giữa người với người đã tạo nên thành công cho tác phẩm. Được trích từ truyện ngắn cùng tên, Bố của Xi-mông có cốt truyện đơn giản, tất cả chỉ xoay quanh nỗi buổn và niềm vui của cậu bé Xi-mông, nhưng qua đó, biết bao nhân vật, bao tấm lòng đôn hậu đã vút lên sáng ngời, chị Blăng-sốt trong truyện này bị một người đàn ông lừa dối, sinh ra Xi-mông. Vì vậy, Xi- mông trở thành đứa trẻ không có bố trong mắt mọi người. Truyện bắt đấu khi Xi-mông khoảng bảy, tám tuổi, lẩn đẩu tiên đến trường bị đám học trò chế giễu là không có bố. Em buồn bực, lang thang đến bên bờ sông.Đoạn trích kể về những sự việc tiếp theo. Qua đó thể hiện vẻ đẹp của tâm hồn con người. Đó là vẻ đẹp của lòng nhân hậu, sự hổn nhiên, lối sống nhân văn cao đẹp. Là tình người ấm áp trong khát khao tình cảm và sự che chở của bố ở Xi-mông; ấm áp trong lòng nghĩa hiệp và nhân hậu, thương người cùa bác Phi-líp.
 Vẻ đẹp và sự ấm áp tình người trước hết được thể hiện trong khao khát tình cảm và sự che chở của cậu bé Xi-mông. Cậu đã rất buồn khi bị bạn bè trêu chọc, đánh cậu chỉ vì cậu không có bố. Trong tâm trạng ấy, dù cảnh vật bên bờ sông rất đẹp: “Trời ấm áp vô cùng. Ánh mặt trời êm đểm sưởi ấm bãi cỏ. Nước lấp lánh như gương” nhưng cũng chỉ giúp Xi-mông quên đi nỗi buồn một lát. Khi em nghĩ đến nhà, rổi em nghĩ đến mẹ, em “thấy buôn vô cùng” và em lại khóc. “Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hếtđược, vì những cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang, choán lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài”. Một đứa trẻ như Xi-mông, sau khi bị bạn bè trêu chọc đã rất buồn tủi và tuyệt vọng. Hành động quỳ xuống và đọc kinh là sự cầu nguyện có được cảm giác bình an từ chúa.

Nhưng em chẳng thể đọc hết được bởi nỗi cô đơn xâm chiếm. Trong khi các bạn khác may mắn có được sự yêu thương, săc sóc của cả bỗ lẫn mẹ thì em lại quá thiệt thòi, em chỉ có mẹ mà thôi. Chính trong hoàn cảnh đáng thương, tội nghiệp, thiếu đi tình thương của cha, lại bị bạn bè trêu chọc Xi-mông chạy đến bờ sông với suy nghĩ “muốn nhảy xuống sông cho chết đuối”. Chính lúc này, Xi-mông gặp được bác Phi-líp. Câu trả lời của em với bác như một sự khẳng định nỗi tuyệt vọng và bất lực của em. Câu trả lời ấy ngắt quãng với giọng nghẹn ngào trong tiếng nấc: “Chúng nó đánh cháu vì... cháu... cháu... không có bố... không có bố.” Câu nói “cháu không có bố” mãi mới thốt ra được nhưng Xi-mông lại nhắc hai lần như tiếng nấc.  Khi bác Phi-líp đưa Xi-mông trở về nhà, em không mừng rỡ mà đau đớn, buồn tủi hơn. Nỗi đau ấy bùng lên và vỡ ra cùng cử chỉ ôm lấy cổ mẹ, nhắc lại ý định tự tử của mình. Em khao khát có được tình yêu của bố, em ao ước được giống như những đứa trẻ khác, chúng đều có bố. Lòng khát khao có một người bố yêu thương và che chở đã thúc đẩy Xi-mông đưa ra lời đê' nghị với bác Phi-líp. Em hỏi bác: “Bác có muốn làm bố cháu không?”. Chưa để bác trả lời, em đã nhắc lại ý định tự tử lúc ở bờ sông. Rất nhiều người cho rằng nó giống như muốn ép buôn bác Phi-líp nhưng với tâm hổn non nớt, trong sáng, Xi-mông đâu có nghĩ vậy, những gì em nói ra là cảm xúc rất chân thành. Dường như lúc đó, em đã đưa ra quyết định vô cùng nghiêm túc, nếu không có bố, em sẽ nhảy ngay xuống sông để thoát khỏi nỗi buồn bã, cô đơn, tuyệt vọng. Xuất phát từ khao khát ấy, khi được bác Phi-líp nhận lời, em rất vui vẻ: “Thế nhé, bác Phi-líp bác là bố cháu”. Lời khẳng định chắc nịch trong tâm trạng sung sướng, hạnh phúc ấy cho thấy lối tư duy rất trẻ con nhưng cũng vô cùng nghiêm túc và trịnh trọng. 

Đối với Xi-mông có lẽ không gì tuyệt vời hơn là có một người bố. Và giây phút này chính là giây phút trọng đại nhất trong đời em, khi em cũng có bố như bao đứa trẻ khác, có một điểm tựa cho em niềm tin sắt đá để “đưa con mắt thách thức chúng”, và em “sẵn sàng chịu hành hạ, còn hơn bỏ chạy”. So với ngày thường hay chỉ mới hôm qua thôi, khi bị bạn bè trêu chọc, đùa cợt em chỉ biết khóc, cam chịu, chạy ra bờ sông với ý định tự tử thì hôm nay, thái độ và hành động của em đã khác hẳn. Em đã chủ động trả lời, “quát vào mặt nó những lời này, như ném một hòn đá: “Bố tao ấy à, bố tao tèn là Phi-líp”. Trong câu trả lời niềm tự hào và hãnh diện không giấu giếm. Niềm tự hào và hãnh diện ấy xuất phát từ niềm tin về việc có một người bố. Chính điều đó cho em sức mạnh để sẵn sàng thách thức và chịu hành hạ chứ nhất định không chịu bỏ chạy, không chịu đầu hàng lũ bạn. Cũng chính điểu đó cho cậu bé Xi-mông sự kiên cường và lòng dũng cảm trước những lời trêu chọc. Là người đáng thương, đáng yêu, sinh ra trong hoàn cảnh gia đình bất hạnh nhưng sự tình cờ của cuộc sống đã đem lại cho Xi-mông hạnh phúc, tiếp thêm sức mạnh cho em.. Qua nỗi buồn và niềm vui của Xi-mông, tấm lòng đôn hậu, nghĩa hiệp và thương người của bác thợ rèn Phi-líp cũng ngời sáng. Bác là người có “bàn tay chắc nịch” và “giọng nói Ồm Ồm”. Bác là “một bác công nhân cao lớn, râu tóc đen, quăn”, chính bác đã hỏi thăm em lúc em đứng ở bờ sông và “nhìn em với vẻ nhân hậu”. Chỉ những chi tiết đầu tiên ấy thôi đã cho thấy bác Phi-líp là một người lao động chân chính, biết chia sẻ và cảm thông với những người bất hạnh. Không chỉ với Xi-mông, bác còn cảm thông với cả chị Blăng-sốt. Khi dắt tay đứa bé về nhà, bác đã mỉm cười, vì “bác chẳng khó chịu được đến gặp chị”. Đến khi đứng trước chị, “bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình”. Bác “e dè, ấp úng” và nể trọng chị. Chính vì thế, lời lẽ của bác khi nói chuyện với chị trở nên trang trọng hơn. 

Tấm lòng đôn hậu của bác đã vượt lên những định kiến vô lí, tàn nhẫn, thô bạo. Xuất phát từ tấm lòng ấy, bác đã nhận lời làm bố của Xi-mông. Ban đầu đó cũng chỉ là sự đồng ý làm yên lòng một đứa trẻ: “Bác công nhân cười đáp coi như chuyện đùa” nhưng sau đó, bằng tình yêu thương với Xi-mông và vẻ đẹp ấm áp tình người luôn cháy sáng trong trái tim mình, bác thực sự trở thành bố của em, bù đắp cho em những mất mát, từ hành động “nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má” cho đến niềm tin sắt đá của Xi-mông trong ngày hôm sau ở trường. Hơn thế nữa, về sau bác đã cẩu hôn chị Blăng-sốt vì bác muốn trở thành người bố thực sự của Xi-mông, bao bọc và che chở em. Cũng chính từ đó, em được yên ổn học hành và không còn bị ai trêu chọc, bắt nạt nữa. Lời cầu hôn của bác Phi-líp là một sự khẳng định nhân cách của chị Blăng-sốt. Vượt lên rào cản của những định kiến hẹp hòi, bác là hiện thân của công lí và lòng nhân ái, của người lao động thiện lương, chân chính, biết chia sẻ, cảm thông với người bất hạnh và dành tình yêu thương ấm áp cho cậu bé. Cùng với những vẻ đẹp ấm áp về tình người ấy, trái tim người đọc còn cảm nhận được vẻ đẹp từ chị Blăng-sốt, người trót lấm lỡ nhưng là một người mẹ rất mực thương con, một người phụ nữ nền nếp, trung hậu. “Chị là một trong những cô gái đẹp nhất vùng” nhưng bị lừa dối nên sinh ra bé Xi-mông và khiến cho Xi-mông trở thành đứa trẻ không có bố. Chị là người phụ nữ có hoàn cảnh thật đáng thương, vì “tuổi xuân đã lầm lỡ” mà giờ đầy chị phải sống trong áp lực của định kiến xã hội và những lời đồn đại.

Thế nhưng, vượt lên hoàn cảnh ấy, chị Blăng-sốt có một nghị lực sống phi thường. Chị có một “ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ”. Ngôi nhà ngăn nắp, gọn gàng như chính con người chị đã khiến cho không ai có thể bỡn cợt được. Chị là một người mẹ yêu thương con bằng cả trái tim. Khi ôm bé Xi-mông vào lòng, đôi má chị “đỏ bừng và tê tái đến tận xương tủy, chị ôm con, hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi”. Đó là tình thương con của một người mẹ lầm lỡ, chị hổ thẹn, lặng ngắt, quằn quại trước nỗi tuyệt vọng của con trong khi chính chị, cũng là nạn nhân. Trước câu hỏi ngây thơ của con, chị dường như không thể đứng vững được nữa, chị “dựa vào tường, hai tay ôm ngực”. Chính đức hạnh, tình mẫu tử thiêng liêng trong con người chị đã khiến bác thợ rèn Phi-líp hiểu bản tính chị không phải là người lẳng lơ, phóng túng. Trong lần lẩm lỡ của tuổi trẻ, chị đáng thương hơn là đáng trách. Với vẻ nền nếp, trung hậu và tấm lòng yêu thương con hết mực chị là hiện thân của một người phụ nữ mẫu mực và là một người mẹ hiền lương.
  Những vẻ đẹp ấm áp tình người ấy được nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng thể hiện bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc. Nhà văn đã tinh tế nhận ra và thể hiện sắc nét tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp, qua đó đê' cập đến vấn đề tâm lí gia đình của con người, vai trò của bố trong cuộc đời con người. Thứ tình cảm thiêng liêng ấy cũng được khắc họa trong Số phận con người, một truyện ngắn viết vê’ chiến tranh của nhà văn Nga M. Gorki. Truyện không kết thúc ở nỗi trầm buồn khi An-drầy đêm nào cũng “chiêm bao thấy người thân quá cố’ mà tái hiện cảnh mùa xuân, dòng sông, con đường,... khi An-drây nhận nuôi em bé mồ côi, khi hai con người xa lạ trở nên thân thiết. Dường như mỗi đứa trẻ khi “sống bên cạnh bố” để có được sức mạnh diệu kì để “khi đã lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường”. Hơn tất cả, tình cảm thể hiện ở cả hai tác phẩm không chỉ là tình phụ tử, mà còn là sự kết nối giữa những con người với con người trong tình yêu thương. Đổng thời, qua đó nhắc nhở chúng ta yêu thương bạn bè, mở rộng là tình yêu thương con người, sự đồng cảm và sẻ chia với những người bất hạnh, với những khổ đau và lỗi lầm của người khác.

Truyện ngắn Bố của Xi-mông đã khép lại trong câu hỏi đầy day dứt: “Ai có lỗi trong những đau khổ của Xi-mông?” Đó là câu hỏi mà có lẽ, nhiều năm sau nữa chúng ta cũng không thể trả lời cho đẩy đủ, toàn vẹn. Nhưng vẻ đẹp và sự ấm áp tình người trong tác phẩm sẽ luôn nhắc nhở mỗi chúng ta về tấm lòng nhân ái, yêu thương, cảm thông và chia sẻ để có thể giúp đỡ những người bất hạnh xung quanh và không vô tình gây ra khổ đau cho người khác.

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 5

Tuy chỉ là phần đầu của một truyện ngắn nhưng những trang viết này đã rất sinh động và cảm động. Trong đó, sinh động thể hiện ở việc miêu tả chân thực, sinh động, tươi vui và trong sáng cuộc sống diễn ra. Cảm động bởi những cảm xúc thấm đượm tình người, bao gồm những đau khổ, ước mơ, tình yêu và sự đồng cảm. Tuy nhiên, đó chỉ là một góc nhìn tổng quan. Để phân tích tác phẩm, không có cách nào khác là đi sâu vào nhân vật và quan hệ giữa họ. Đó là yếu tố tạo nên tính cách và cốt truyện của tác phẩm.

Cậu bé Xi-mông là một đứa trẻ không có cha, với vai trò nhân vật chính trong truyện, cậu bé thường xuyên xuất hiện và đóng vai trò gắn kết các nhân vật khác như những đứa trẻ nghịch ngợm trong lớp học, bác công nhân Phi-líp và người phụ nữ nghèo khổ, đáng thương. Xi-mông là một đứa trẻ tự trọng, nhạy cảm và thông minh. Cậu bé cảm thấy không có cha là một nỗi bất hạnh lớn. Tuy nhiên, vì sự nhạy cảm và thông minh của mình, Xi-mông không biết chia sẻ với ai ngoài việc đến bên bờ sông để tìm cách kết thúc cuộc đời của mình. Những đặc điểm này chỉ là một phần của tính cách của Xi-mông mới được hình thành.

Do đó, những ý nghĩ chỉ giống như những cơn gió thoáng qua trong tâm trí em. Vừa mới khóc lóc xong, em rất muốn đi ngủ, nhưng khi nhìn thấy một chú nhái màu xanh, tất cả những gì em vừa trải qua cứ như tan biến mất hết, thậm chí cả cơn buồn ngủ. Nhu cầu nghịch ngợm của Xi-mông trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. "Em định bắt nó. Nó nhảy thoát. Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền". Xi-mông cảm thấy vui sướng và hài lòng khi bắt được con vật và quan sát nó "cố giãy giụa thoát thân". Nỗi buồn ngủ và nỗi bất hạnh trước đó đột ngột tan biến không để lại chút dấu vết nào. Thậm chí em còn bắt đầu liên tưởng đến những thứ đồ chơi "làm bằng những mảnh gỗ hẹp đóng đinh chữ chi". Cuối cùng, không hiểu tại sao em lại tiếp tục nghĩ đến nhà của mình và đến mẹ.

Sau khi nhận được sự giúp đỡ đáng tin cậy từ một người đàn ông (ban đầu Xi-mông chưa biết là ai), bác công nhân Phi-líp, em cảm thấy cần phải chia sẻ những nỗi buồn đau, giận dữ và oan ức của mình. Với giọng điệu đầy chán nản, hờn tủi vì oan ức, em đã tìm thấy sự thông cảm, thấu hiểu từ người đàn ông đó. Sự đồng cảm đó làm cho hai bác cháu trở về nhà với tinh thần vui vẻ như một cuộc dạo chơi, trong đó người lớn dắt tay đứa trẻ, giống như cha và con. Với Xi-mông, việc có một người cha trong cuộc sống cần thiết đến mức mà chỉ cần một điều gì đó tương tự như thế, hoặc chỉ là tưởng tượng về viễn cảnh ấy, em đã cảm thấy hạnh phúc rồi.

Chi khi trở về với thực tại, ảo tưởng của Xi-mông mới tan biến hoàn toàn. Qua câu nói và giọng nói của người thợ mới quen với mẹ Xi-mông, thực tại ấy thật tàn nhẫn, phũ phàng: "Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông" (Trong trí óc còn non nớt của Xi-mông, em không cảm thấy bị lạc mất đường, mà đang đứng ở một ngã ba không biết đường tiến lui).

Sau khi trải qua hoàn cảnh đau đớn, hy vọng trong Xi-mông vẫn chưa hề tắt. Để giải thoát cho cảnh ngộ của mẹ và bản thân, Xi-mông liền hỏi bác Phi-líp: "Bác có muốn làm bố cháu không?" với tất cả sự tha thiết, hồi hộp và lo lắng. Thời gian dường như đứng im, phải đến khi bác Phi-líp đồng ý như một cam đoan đồng thuận, một giao kèo thì Xi-mông mới thực sự yên tâm: "Thế nhé ! Bác Phi-líp, bác là bố cháu". Hôm sau, khi đến trường, Xi-mông đã trở thành một người khác hoàn toàn, tràn đầy tự tin. Lời nói của em với "thằng kia" không chỉ là lời nói bình thường, mà nó chứa đựng bao nỗi căm hờn và uất ức. Xi-mông "quát vào mặt nó những lời này, như ném một hòn đá", cùng với những câu trả lời về bố của mình (dù em quên không hỏi họ của bác ấy): "Bố tao ấy, bố tao tên là Phi-líp".

Có một câu trong ca dao Việt Nam được dùng để châm biếm những ông thầy bói nói dựa ngày xưa: "Số cô có mẹ có cha - Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông". Thực tình thì nó không hề thiếu ý nghĩa mà trên thực tế, còn rất nhiều người mồ côi cha hoặc mẹ (hoặc cả hai). Câu nói của Xi-mông với niềm tự hào, hãnh diện "có mẹ", "có cha" đã chạm đến điểm cảm động nhất trong lòng người, đó là sự khao khát đơn giản, bình thường của mọi người trong xã hội. Và tính nhân văn của cách suy nghĩ đó còn là ước mơ của nhân loại mãi mãi.

Điểm tựa cho câu chuyện thương tâm mà thật ấm áp tình người này đó là bác thợ Phi-líp. Có vẻ như trên một khía cạnh nào đó, những người đơn giản, vô danh như bác chính là lương tâm của nhân loại. Việc gặp gỡ giữa bác và Xi-mông là sự trùng hợp cũng như quy luật tương đương giữa nỗi đau của người khác và chính ta. Câu hỏi đầu tiên mà bác hỏi đứa trẻ đầy nỗi niềm tâm sự (ngồi bên bờ sông, sát bên cái chết) âu yếm biết bao: "Có điều gì làm cháu buồn phiền đến thế, cháu ơi ?". Đối với bác Phi-líp, nhu cầu được chia sẻ, được đảm bảo và được bảo vệ gần giống với một bản năng. Bác là một con người đúng nghĩa với thái độ không thể bỏ qua, lạnh lùng hoặc phớt lờ nỗi khổ của con người, cho dù họ chỉ là những sinh linh nhỏ bé và vô danh.

Cách hành động ban đầu của bác Phi-líp có vẻ rất ngây thơ, cốt chỉ để an ủi và khích lệ đứa trẻ: "...đừng buồn nữa cháu ơi", "Người ta sẽ cho cháu... một ông bố". Nhưng khi đến nhà của mẹ Xi-mông, nụ cười của bác đột nhiên tắt, bởi làm sao có thể đùa giỡn được với "một cô gái cao lớn, xanh xao đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình". Đây là giới hạn mà con người giàu tưởng tượng nhất cũng không thể vượt qua.

Cảm thấy không thể vượt qua ngưỡng cửa ngôi nhà đó, bác Phi-líp - người đàn ông đã trải qua rất nhiều - cảm thấy rối rắm như một đứa trẻ vì vấn đề phức tạp mà anh ta đang đối mặt và không biết phải làm sao. Chỉ khi có cơ hội, đó là câu nói ngây thơ (không có ý nghĩa sâu xa) của đứa trẻ, bác mới có thể trả lời Xi-mông và giải thoát được chính mình. "Bác công nhân nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh". Sau đó, người đàn ông có trái tim nhân ái đó chăm sóc, che chở và yêu thương Xi-mông như một người cha tốt.

Để đánh giá nghệ thuật của một đoạn văn, chúng ta nên dựa vào tiêu chí nào? Nếu nhìn vào cách viết, có thể coi đó là một tác phẩm tự sự thông thường. Tuy nhiên, đúng hơn là xác định đó là một câu chuyện dành cho thiếu nhi. Viết về trẻ em và sử dụng giọng điệu trẻ em - cách nhìn và suy nghĩ ngây thơ nhất của con người là đặc trưng chung của nó. Trong phương diện này, ta có thể liên tưởng đến thời thơ ấu của Gooć-ki và những tác phẩm tự truyện của Nguyên Hồng.

"Bố của Xi-mông" cũng được xây dựng dựa trên một cái mặt bằng như vậy. Từ định hướng đó, Xi-mông trở thành nhân vật trung tâm trong truyện. Ngôi nhà của em là chính là người mẹ Blăng-sốt đáng thương, bác Phi-líp là bầu trời của em, nơi không gian mênh mông hy vọng. Tất cả những tâm tình, bao gồm cả những niềm vui, nỗi buồn, hy vọng và ước mơ của con người, được tập trung vào những cảm nghĩ trẻ thơ. Những cảm nghĩ trong sáng này giống như bầu trời trong xanh, nhưng đôi khi bị những đám mây u ám che phủ. Việc không có cha không phải là một số phận đau đớn mãi mãi, và rồi sẽ trở thành quá khứ. Tuy nhiên, hình ảnh của một đứa trẻ dễ thương như Xi-mông được nhìn nhận từ góc độ của người lớn.

Để vừa khắc họa một tính cách trẻ thơ vừa phát hiện được ở chiều sâu những quy luật khách quan của cuộc sống, sự tiết chế và chọn lọc là vô cùng quan trọng. Cách viết trong sáng, tự nhiên như không được chỉnh sửa trực tiếp mà đưa ngay tới cảm nhận trực tiếp của người đọc, để tạo ra một loại văn bản thứ hai từ những suy nghĩ, rung động về cuộc sống mà chính tác giả đã trải nghiệm. Một tác phẩm tốt giống như một cuộc đua tiếp sức: tác giả và người đọc luôn chạy đua để khám phá điểm giới hạn cuối cùng của chính mình trên một con đường đầy khám phá.

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 6

Truyện ngắn Bố của Xi-mông do tác giả Guy-đơ Mô-pa-xăng sáng tác là một tác phẩm hiện thực đáng đọc. Truyện nói về nỗi đau khổ của em bé Xi-mông và mẹ trong hoàn cảnh đau khổ bởi những định kiến và tục lệ cổ lỗ khi Xi-mông không biết bố mình là ai. Niềm hạnh phúc tràn đầy của em bé khi được chú Phi-lip nhận lời làm bố là điều đáng để nhắc đến. Ngoài ra, tác phẩm còn ca ngợi lòng nhân hậu của Phi-lip, một người thợ rèn tốt bụng và đáng mến.

Hành động của chú Phi-lip khi nhận làm bố của Xi-mông đã bị một số người chê cười là ngu ngốc, nhưng thực tế đó là một việc làm nhân đạo và cao cả. Chính hành động này đã mang lại nhiều niềm vui và hạnh phúc cho Xi-mông, cứu em thoát khỏi cái chết. Ngay từ ngày đầu tiên đi học ở trường, Xi-mông đã bị đám bạn bè độc ác và vô ý thức trêu chọc, chế giễu em vì không có bố. Em bị đánh đập và tức giận ném đá vào bọn chúng trước khi bỏ đi ra bờ sông. Xi-mông khóc nấc và đã nghĩ đến việc nhảy xuống sông cho chết đuối. Em ngắm đàn cá bơi lội, bắt con nhái chơi, nhưng ý định tự tử ấy vẫn còn lơ lửng.

Xi-mông lại bật khóc, cảm giác run lên trong người. Cô bé quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như lúc đi ngủ. Tuy nhiên, cơn nức nở vẫn tiếp tục dồn dập, xốn xang và choáng ngợp lấy em. Trong lúc đau khổ đó, chú Phi-lip xuất hiện và biết được tình cảnh của Xi-mông. Chú đã dẫn em về nhà và trước mặt mẹ em, chú Phi-lip mạnh mẽ và dứt khoát chấp nhận lời đề nghị muốn mình làm bố của em: "Có chứ, chú có muốn". Từ đó, chú Phi-lip đã cứu Xi-mông thoát khỏi cơn tuyệt vọng, giải thoát em khỏi vòng tay của thần chết.

Đối với Phi-lip, ban đầu chú nghĩ đó là một hành động nhân đạo, để an ủi cho Xi-mông trong những phút giây thoát khỏi cơn tuyệt vọng. Nhưng sau đó, khi Xi-mông đến tìm chú tại lò rèn và nói với chú rằng "Bố Phi-lip này, lúc nãy thằng con bác Mi-cốt bảo con rằng bố không phải là bố của con hẳn hoi vì bố không phải là chồng của mẹ". Lúc này, đó không còn là một hành động nhất thời nữa. Phi-lip phải đối mặt với một vấn đề nghiêm túc. Xi-mông có thể rơi vào tình thế tuyệt vọng một lần nữa, nếu Phi-lip xem lời nói của mình lần trước là đùa cợt.

Chính những người thợ rèn đồng nghiệp của chú Phi-lip, những vị thần khổng lồ đó đã giúp chú vượt qua định kiến với mẹ của Xi-mông. Lỗi lầm không nằm ở chị ta, và chú đã đưa ra quyết định cuối cùng: cầu hôn người phụ nữ đáng thương và đáng mến này. Việc đó đã mang lại hạnh phúc thực sự cho Xi-mông, giờ đây cậu bé đã có đủ dũng khí để tuyên bố với bạn bè cùng lớp: "Bố tớ là Phi-lip Reemi (bác thợ rèn) và bố tớ hứa sẽ kéo tai tất cả những đứa nào bắt nạt tớ".

Trong truyện ngắn này, chú Phi-lip và các bác thợ rèn được miêu tả như những vị thần phúc lộc. Họ đã giải thoát Xi-mông khỏi nỗi đau khổ và đem lại hạnh phúc cho cậu bé. Hành động của họ cũng giúp mẹ Xi-mông thoát khỏi đau khổ do lầm lỡ. Chú Phi-lip và các bác thợ rèn đã lắng nghe tiếng gọi của lòng nhân ái và thoát khỏi những thành kiến hẹp hòi. Họ đã đại diện cho sự công bằng và giúp những nhân vật đau khổ và bất hạnh tìm được hạnh phúc.

Hình ảnh của chú Phi-lip và các bác thợ rèn trong truyện thật đẹp biết bao, vừa hào hùng vừa đầy nhân ái. Mặc dù có người cho rằng việc chú Phi-lip nhận lời làm bố của Xi-mông và làm chồng của mẹ em bé là khờ dại, nhưng thực tế đó là một hành động cao cả, nhân đạo, đầy tình yêu thương và đồng cảm sâu sắc đối với cảnh ngộ đáng thương mến của Xi-mông. Hành động của chú đã khơi gợi trong lòng độc giả tình cảm quý mến với việc làm tốt đẹp, cũng như tình người của một người lao động nhân hậu và cao cả.

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 7

Guy-đơ Mô-pa-xăng là một trong những nhà văn vĩ đại của Pháp cuối thế kỷ XIX với hàng chục tiểu thuyết và khoảng 300 truyện ngắn, tên tuổi của ông đã trở thành bất tử. Mặc dù cuộc đời ông đầy những trang buồn nhưng có lẽ đó chính là nguồn cảm hứng cho ông viết về thân phận con người với nhiều tình cảm xót xa như vậy. Trong truyện ngắn "Bố của Xi-mông", tác giả kể về nỗi đau của một đứa trẻ "không có bố", bao phủ bởi tình yêu thương và tâm hồn nhân đạo. Cuộc sống của bé Xi-mông và mẹ của em, chị Blăng-sốt, thật đáng thương, để lại trong lòng người đọc nhiều tình cảm thương xót.

Xi-mông là một đứa trẻ bất hạnh, sinh ra ngoài giá thú. Mẹ em, một "cô gái đẹp nhất vùng", đã bị phản bội trong tình yêu. Hai mẹ con sống trong âm thầm tại một ngôi nhà nhỏ, được sơn trắng sạch sẽ. Người mẹ này tên là Blăng-sốt, "cao lớn, xanh xao", phải vất vả lao động để nuôi con một mình, chịu sự chế nhạo của xã hội.

Tuổi thơ của Xi-mông trôi qua trong cảm giác cô đơn và sự lạnh lẽo của ngôi nhà nhỏ. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố, cảm thấy bị bỏ rơi. Trường học cũng không phải là nơi đem lại niềm vui cho em. Đến tám tuổi, em mới được đi học và phải đối mặt với một lớp học đầy những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn, nơi cái ác và cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Đau khổ và tuyệt vọng khi bị đám trẻ hạ lưu dùng những lời nói ác độc, tiếng cười khả ố và những lời giễu cợt, Xi-mông đã bị đẩy đến chân tường.

Xi-mông đã bị bọn trẻ "quỷ quái" hành hạ liên tục ngày qua ngày và phải tự vệ. Đã hơn một thế kỷ kể từ khi câu chuyện được viết ra, người đọc vẫn cảm thấy buồn phiền và xót xa khi nghĩ về sự đau đớn của Xi-mông khi bị bạn cùng lớp làm tổn thương cả về thể xác lẫn tâm hồn. Xi-mông bị đuổi đánh, đau đớn và bế tắc hoàn toàn. Em muốn chết. Em không thể sống trong sự nhục nhã vì "không có bố". Liệu dòng sông có thể là nơi để em giải thoát khỏi cô đơn và nỗi đau khổ? Một đứa trẻ chỉ mới 8 tuổi đã cảm thấy không thể chịu đựng được nỗi đau và nhục nhã, phải nhảy xuống sông tự tử. Đó là bi kịch của thân phận con người khi đến cực điểm. Tình huống này rất cảm động và đặc trưng cho nỗi đau đớn của những đứa trẻ bị cô đơn trên thế giới vì một lý do nào đó, "không có bố".

Xi-mông đang đứng giữa bãi cỏ xanh mướt, gần đó có một chú nhái xanh đang ở cạnh dòng sông đầy thơ mộng. Trời nắng ấm, ánh nắng chiếu sáng xuống cỏ làm cho không khí trở nên dịu mát và ấm áp. Dòng sông lấp lánh như một tấm gương, phản chiếu lại bầu trời trong xanh. Cảnh sắc này đẹp như một chiếc nôi êm ái, xoa dịu nỗi đau khổ cô đơn của Xi-mông. Em nhìn xuống dòng sông, ao ước được nằm ngủ trên bãi cỏ và tận hưởng ánh nắng ấm. Con nhái xanh nhìn thẳng vào mắt Xi-mông, bộ lông có màu sắc rực rỡ và đôi mắt có vẻ như đang truyền đạt tình cảm. Nó có lẽ đã níu giữ chân em trước tử thần. Dù đang sống trong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nỗi đau khổ về thân phận cô đơn vẫn đeo bám Xi-mông mãi mãi.

Hình ảnh Xi-mông được miêu tả trong tình trạng người rung lên, quỳ gối và đọc kinh cầu nguyện giống như trước khi đi ngủ. Em khóc nức nở và chỉ biết khóc, chẳng nhìn thấy gì nữa và bước dần vào tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm trạng của Xi-mông bằng tất cả tình cảm thương xót. Bằng cách này, ông muốn chỉ cho mọi người thấy rằng dù thiên nhiên có đẹp đến mức nào, môi trường xung quanh có tuyệt đẹp đến đâu, con người vẫn luôn bất hạnh và khó sống sót khi bị cô đơn và thiếu tình thương, đặc biệt là đối với những đứa trẻ "không có bố".

Tình huống bất ngờ đã xảy ra, chú thợ rèn "cao lớn, râu tóc đều quăn... nhân hậu" đến gần bên Xi-mông. Chú đã lau khô những giọt nước mắt trên khuôn mặt của em và an ủi em với tình thương của một con người "có phép lạ": "Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố". Câu nói đơn giản đó xoa dịu nỗi đau và cô đơn của bé Xi-mông, cũng như cho mẹ em - chị Blăng-sốt - một hy vọng. Cảnh bé Xi-mông gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Bé được sống và người ta sẽ tìm cho bé "một người bố". Cuộc đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông đậm chất nhân đạo. Nước mắt dần khô trên khuôn mặt bé, và chú thợ rèn đã dắt tay bé đưa về gặp mẹ.

Tác giả đã khắc họa rõ ràng tính cách của bé Xi-mông khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: "Chú có muốn làm bố cháu không?". Khi chú thợ rèn ôm lấy em, hôn lên má em và nói: "Có chứ, chú có muốn" thì tâm hồn em đã "thoải mái hoàn toàn" và em đã khắc tên Phi-líp vào trái tim mình, với niềm tự hào "có bố". Câu nói của Xi-mông giống như một lời hứa hẹn: "Chú Phi-líp, chú là bố con đấy nhé". Có bố là niềm hạnh phúc của mỗi đứa trẻ trên thế giới. Có bố là có nơi nương tựa. "Con có cha như nhà có nóc" (tục ngữ), có bố là có quyền làm người, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông tự hào tuyên bố với bạn bè của mình "như ném một hòn đá": "Bố tao đấy, bố tao là Phi-líp". Em cảm thấy mình đã trưởng thành hơn vì đã có b. Đó là niềm vui và hạnh phúc của tuổi thơ.

Người đọc không khỏi xúc động sau khi đọc xong truyện ngắn "Bố của Xi-mông". Mô-pa-xăng đã trải qua biết bao nhiêu khổ đau trong cuộc đời mồ côi từ khi mới mười tuổi, cho nên ông rất đồng cảm và san sẻ với cảnh ngộ của bé Xi-mông và chị Blăng-sốt. Tác giả đã dùng bút pháp tinh tế lấy cảnh tả tình, nghệ thuật đối thoại kết hợp với tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt, tạo nên một không khí đầy tình người. "Không có bố thì đau khổ", "Có bố thì hạnh phúc", như một chân lý giản đơn nhưng giàu tình cảm. Bé Xi-mông rất đáng thương và đáng yêu!

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 8

Guy-đơ Mô-pa-xăng (1850 - 1893) là một nhà văn Pháp nổi tiếng toàn cầu. Dù chỉ sống được hơn bốn mươi năm, nhưng ông đã để lại một khối lượng tác phẩm lớn bao gồm một số tiểu thuyết như "Một cuộc đời" (1883), "Ông bạn đẹp" (1885) và hơn ba trăm truyện ngắn khác. Nội dung các tác phẩm của ông phản ánh chân thực tình hình xã hội Pháp trong nửa cuối thế kỉ XIX.

Trong truyện ngắn "Bố của Xi-mông", chị Blăng-sốt bị một người đàn ông lừa dối và sinh ra Xi-mông. Khi Xi-mông đi học, em bị đám học trò chế giễu vì không có bố. Em đã rất buồn và tủi thân, quyết định đến bờ sông để tự tử. May mắn thay, em gặp bác Phi-líp, người đã đưa em về nhà với mẹ. Em yêu cầu bác Phi-líp trở thành bố của mình và bác đã đồng ý. Tuy nhiên, bọn trẻ vẫn trêu chọc em vì bác Phi-líp không phải là chồng của mẹ Xi-mông, vậy làm sao lại là bố của Xi-mông được? Phần tiếp theo của đoạn trích này, tác giả kể tiếp rằng vì yêu thương Xi-mông, bác Phi-líp đã cầu hôn chị Blăng-sốt. Và từ đó, Xi-mông có một người bố thật sự và một chỗ dựa vững chắc trong cuộc sống.

Nhà văn đã mô tả cực kỳ chi tiết và sinh động diễn biến tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và Phi-líp. Từ đó, ông nhẹ nhàng nhắc nhở chúng ta về tình bạn, tình thương yêu con người cùng với lòng cảm thông và chia sẻ trước những nỗi đau và sai lầm của người khác. Trong đoạn trích này, có ba nhân vật chính bao gồm cậu bé Xi-mông, mẹ của em - chị Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp. Ngoài ra, còn có những nhân vật phụ như các bạn của Xi-mông và thầy giáo.

Khi mới sinh ra, Xi-mông đã phải trải qua những khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, khi lớn lên, tâm trạng của cậu bé mới thực sự chịu ảnh hưởng từ nỗi đau không có cha. Trong đoạn trích này không có đoạn miêu tả nào về ngoại hình của Xi-mông, nhưng ở một đoạn khác trong truyện, cậu bé được miêu tả đang ở độ tuổi bảy hoặc tám tuổi, vẻ ngoài hơi xanh xao, rất sạch sẽ, nhút nhát và hơi vụng về. Tính cách và hoàn cảnh sống của một đứa trẻ thiếu cha được phần nào phản ánh qua vẻ ngoài ấy của Xi-mông.

Xi-mông là một đứa trẻ vô cùng bất hạnh, nỗi đau không có bố luôn âm ỉ trong trái tim bé nhỏ của em. Nỗi đau ấy thể hiện rõ qua suy nghĩ và hành động của Xi-mông. Em bỏ nhà đến bên bờ sông và có ý định nhảy xuống nước để cho chết đuối vì nỗi bất hạnh không có bố khiến em không muốn sống nữa. Tuy nhiên, cảnh vật thiên nhiên xung quanh đẹp đẽ đã khiến em nghĩ về nhà, về mẹ và không dám làm điều ngu ngốc ấy nữa.

Sau khi khóc để giải tỏa nỗi tủi hờn, Xi-mông quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như thói quen trước khi đi ngủ, nhưng cơn nức nở không nguôi lại kéo đến, làm em bị choáng ngợp. Em không nghĩ ngợi được gì nữa, chỉ biết khóc mãi thôi. Trong lúc đó, Xi-mông gặp bác Phi-líp và khi bác hỏi thăm, em không trả lời được, mắt đẫm lệ. Cuối cùng, em lẩm bẩm giọng nghẹn ngào: "Chúng nó đánh cháu… vì… cháu… cháu… không có bố… không có bố".

Khi bác Phi-líp dẫn Xi-mông về nhà, vừa nhìn thấy mẹ, cậu bé vừa mừng, vừa tủi nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, òa khóc nức nở: "Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố". Mẹ của Xi-mông vốn là một cô gái đơn giản, thật thà và dễ tin người, từng là một trong những cô gái đẹp nhất vùng nhưng bị lừa dối và khiến cho con trai mình không có bố. Bản chất của cô phần nào thể hiện qua hình ảnh ngôi nhà nhỏ, trắng tinh khôi và vô cùng sạch sẽ, cho thấy rằng cô sống khá nề nếp dù trong hoàn cảnh khó khăn.

Khi vừa thấy chị, nụ cười của bác công nhân bỗng dưng tắt vì ông hiểu rằng không thể bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao đứng nghiêm trang trước cửa nhà như muốn ngăn cản đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối. Khi nghe con kể về việc bị bạn bè đánh vì không có bố, chị Blăng-sốt đỏ bừng và tê tái đến tận xương tủy, ôm con hôn lấy hôn để trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Khi nghe con hỏi bác Phi-lip liệu ông có muốn trở thành bố mình hay không, chị hổ thẹn, lặng lẽ và quằn quại, dựa vào tường và hai tay ôm ngực.

Trong truyện, nhân vật bác Phi-lip là một thợ rèn cao to, râu rậm, tóc đen và quăn với nét mặt nhân từ. Ngay từ lần đầu gặp Xi-mông, bác đã dành tình thương cho cậu bé. Bác đã mang đến cho em niềm hạnh phúc và bất ngờ to lớn. Bác gặp Xi-mông lúc em đang trong tình trạng tuyệt vọng, muốn nhảy xuống sông. Bác đã đưa ra lời khẳng định rằng muốn trở thành bố của em, mang lại cho em hy vọng và an ủi. Bác Phi-lip là người đã cứu Xi-mông khỏi bờ vực tử thần. Tuy nhiên, cuộc sống học tập của Xi-mông vẫn chưa được yên ổn. Những đứa trẻ khác vẫn gây ra nhiều đau khổ cho em vì Phi-lip không phải là cha ruột của Xi-mông, tức là không phải là chồng của mẹ em.

Trong phần tiếp theo, tác giả kể về việc bác Phi-lip vì yêu thương cậu bé Xi-mông nên đã ngỏ lời cầu hôn chị Blăng-sốt để trở thành người bố thật sự của em. Bác đã đến nhà chị và hy vọng được chị đồng ý với ý định của mình. Từ đó, Xi-mông không còn bị bọn trẻ khác bắt nạt nữa. Bác thợ rèn nhân hậu đã giúp đỡ Xi-mông thoát khỏi nỗi đau và mang lại niềm hạnh phúc, niềm tự hào cho cậu bé. Hành động của bác Phi-lip là một hành động cao đẹp và nhân văn.

Hành động của bác Phi-lip không chỉ mang đến niềm vui cho cậu bé Xi-mông mà còn mang lại hạnh phúc cho chị Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông. Khi yêu cầu được trở thành người bố thật sự của Xi-mông, bác Phi-lip đã thể hiện sự tôn trọng và đánh giá cao đối với chị Blăng-sốt. Chỉ qua vài lần trò chuyện ngắn ngủi, bác đã nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của chị. Mặc dù đã mắc sai lầm và gây ra đau buồn cho cả hai mẹ con, nhưng chị không đáng bị chỉ trích vì tính cách của chị không phải là phóng túng hay lẳng lơ. Bác đã thừa nhận rằng chị là một người phụ nữ tốt bụng, can đảm và nề nếp.

Bằng sự nỗ lực không ngừng, bác Phi-lip đã đem tới niềm hạnh phúc cho Xi-mông và cả chị Blăng-sốt. Tuy nhiên, bác đã phải đối mặt với những thành kiến cổ lỗ của xã hội. May mắn thay, bác đã nhận được sự ủng hộ và khuyến khích từ những người thợ rèn tốt bụng để đánh bại những giới hạn nhỏ bé về giá trị của phụ nữ. Bác Phi-lip đã trở thành biểu tượng của công bằng và lòng nhân ái. Hành động của bác đã đem lại cho chị Blăng-sốt một cơ hội trở thành người vợ xứng đáng với một người đàn ông tốt. Hơn thế, bác còn khẳng định giá trị nhân cách của chị. Đó là một niềm hạnh phúc to lớn và bất ngờ đối với Blăng-sốt.

Hành động nhân ái của bác thợ rèn Phi-líp đã giúp cho câu chuyện có một cái kết đẹp. Bác đã đem đến hạnh phúc cho những người đang trong đau khổ và khơi dậy lòng tin của người đọc vào con người và cuộc sống. Đó cũng chính là mục đích cao cả mà nhà văn Mô-pa-xăng muốn truyền tải qua tác phẩm này.

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 9

Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng, tình phụ tử cũng vô cùng quý giá. Tuy nhiên, không phải đứa trẻ nào cũng được sống trong tình cảm yêu thương của cha từ nhỏ. Điều đó làm cho chúng trở nên bất hạnh. Đại diện cho những đứa trẻ ấy chính là cậu bé Xi-mông trong đoạn trích "Bố của Xi-mông" bị thiếu tình thương của cha và bị bạn bè cười nhạo.

Trong truyện, có ba nhân vật cần phân tích gồm bé Xi-mông, Phi-líp - người đàn ông nhận Xi-mông làm con và Blăng-sốt là mẹ của Xi-mông. Trước hết, ta phân tích nhân vật Xi-mông. Từ khi được sinh ra Xi-mông không hề biết ai là cha của mình và bị bạn bè trêu chọc, chế giễu vì không có bố. Em thường xuyên phải đánh nhau với chúng và cảm thấy tự ti vì không có bố. Em còn nghĩ đến cái chết vì bị bạn bè châm chọc suốt ngày. Em đã quyết định tìm đến bờ sông để tự tử, nhưng cảnh vật nơi đây đã giúp em vơi bớt nỗi lòng.

Xi-mông đuổi bắt một con nhái và cười rất tươi nhưng khi nghĩ về mẹ, em lại rơi nước mắt. Cơn đau đớn, nức nở cứ choán lấy tâm hồn em. Lúc gặp bác Phi-líp, em nói lắp bắp, rưng rưng không thốt nên lời. Trở về nhà, cậu kể với mẹ về ý định tự tử của mình và mong muốn Phi-líp trở thành bố của mình. Khi có bố, cậu vui mừng và hạnh phúc vô cùng. Hôm sau đến trường, Xi-mông tự tin thách thức với lũ bạn trước đây đã chế giễu mình, vì em đã có bố.

Nhân vật thứ hai trong truyện là Blăng-sốt được biết đến là mẹ của bé Xi-mông. Cô là một người phụ nữ đẹp, đức hạnh, sống cuộc sống giản dị. Tuy nhiên, chỉ một lần lầm lỡ đã khiến cho bé Xi-mông chào đời trong hoàn cảnh thiếu vắng tình cha. Khi con trai hỏi chuyện về bố, cô cảm thấy đau đớn và hổ thẹn vô cùng. Má ửng hồng, tê tái và thương con vô cùng. Khi nghe Xi-mông hỏi Phi-líp về việc nhận làm cha, cô tỏ ra rất đau khổ, ôm ngực và lặng lẽ dựa vào tường. Hoàn cảnh đáng thương ấy của Blăng-sốt cần nhận được sự đồng cảm và chia sẻ từ mọi người.

Nói về nhân vật Phi-líp, trong truyện anh được tác giả giới thiệu là một người đàn ông cao to, tay chân sẵn sàng và râu tóc đen quăn. Anh ta nhìn Xi-mông một cách đầy nhân hậu và quyết định đưa cậu bé về nhà. Trên đường về, anh nghĩ đến Blăng-sốt và có ý coi thường cô vì đã lầm lỗi một lần. Tuy nhiên, khi gặp Blăng-sốt, anh im lặng, bối rối và e dè. Anh ta đã thay đổi cách nhìn về cô. Khi Xi-mông muốn anh trở thành bố cậu bé, anh ôm cậu bé và hôn lên má cậu rồi nhanh chóng bỏ đi.

Tổng kết lại nội dung của tác phẩm "Bố của Xi-mông", tác giả muốn thể hiện một vấn đề hiện thực xã hội đó là sự phân biệt đối xử của xã hội đối với phụ nữ độc thân có con, những đứa trẻ không có cha đáng thương bị xã hội coi thường và chế giễu. Tuy nhiên, vẫn có những người có lòng chia sẻ và cảm thông đối với những hoàn cảnh khó khăn đó.

Cảm nhận Bố của Xi-mông - mẫu 10

Khi nhắc đến loại hình văn học hiện thực tại nước Pháp vào những năm của thế kỷ XIV thì không thể không nhắc đến nhà văn Guy Đơ Mô - pa - xăng. Ông được mệnh danh là nhà văn đại tài của nên văn học nước Pháp với một khối lượng tác phẩm khổng lồ mà ông đã để lại cho đời. Mỗi tác phẩm là một câu chuyện, là một phương thức để ông có thể truyền tải tinh thần nhân văn, nhân đạo, truyền tải sự đồng cảm của mình với số phận của những nhân vật có hoàn cảnh khó khăn.

Một trong những truyện ngắn vô cùng hay và nổi tiếng của nhà văn Mô - pa - xăng đó chính là truyện ngắn " Bố của Xi - mông". Câu chuyện khai thác về một em bé tên là Xi - mông có hoàn cảnh vô cùng éo le là từ bé đã không có bố, bé được sinh ra bởi một mối nhân duyên lầm lỡ của một người đàn ông đã có gia đình và một thiếu nữ nhẹ dạ cả tin.

Thời điểm xây dựng lên hình ảnh của nhân vật cậu bé Xi - mông là thời điểm giai đoạn phong kiến cổ đại đang lên cao tại Pháp. Do đó, đối với những trường những người phụ nữ chưa kết hôn mà đã mang thai thì đứa trẻ trong trường hợp này sẽ là con hoang, không có cha, và đây bị xem như là một điều vô cùng xấu. Những người trong hoàn cảnh như thế (bao gồm cả mẹ cả con) đều sẽ bị coi thường, bắt nạt, miệt thị, cô lập.

Tác phẩm kể về cậu bé tên Xi - mông và mẹ của bé là một cô gái đẹp nhất làm nhưng lại một lần trao tình yêu cho nhầm người nên hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Mẹ của Xi - mông tên là Blăng. Chị Blăng thường phải làm rất nhiều công việc để có thể nuôi dưỡng và cho Xi - mông đi học. Chị Blăng luôn nghĩ khi đi học, Xi - mông sẽ được vui chơi với những bạn cùng lứa tuổi, trường học sẽ là nơi để Xi - mông có thể sống đúng với lứa tuổi hồn nhiên của mình, và em sẽ không phải chịu đựng những lời khinh miệt của những người xung quanh nữa. Bởi từ khi sinh ra đến khi lớn lên, Xi  - mông chỉ được lủi thủi ở nhà với mẹ, cậu và mẹ luôn phải chịu đựng sự lạnh lẽo, cô đơn của người đời. Từ khi sinh ra, Xi - mông đã không có bố nên cậu chưa bao giờ cảm nhận được tình yêu, sự quan tâm của bố dù chỉ một lần.

Khi lên tám tuổi, Xi - mông đi học tại trường nhưng đáng buồn thay, trường học lại nơi khiến cho em bị tổng thương nhiều hơn. Đặc biệt là khi em thường xuyên bị một nhóm bạn thô lỗ, không hiểu chuyện đánh đập, sử dụng lời nói khinh miệt, sỉ nhục em là đồ không có bố. Những câu nói không suy nghĩ của những cậu bạn đó không khác gì một mũi tên xuyên thẳng vào trái tim cô đơn, lạnh giá của Xi - mông tội nghiệp. Không chỉ dùng lời nói, đám bạn học còn xé rách áo của Xi - mông và đánh đuổi em. Nếu như Xi - mông chống trả lại thì đám bạn sẽ còn hành hạ em nhiều hơn nữa vì em dám chống cự lại những trò đùa điên rồ đó,

Xi - mông của chúng ta thật đáng thương biết bao khi cậu bé đã thiếu đi tình thương của người bố rồi mà cậu còn phải chịu những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần. Một đứa trẻ tám tuổi bị chính các bạn cùng lớp xua đuổi đánh đập, đã khiến cho cậu cảm thấy cuộc đời rơi vào đường cùng, hoàn toàn bế tắc. Vì thế, Xi - mông tìm đến sự giải thoát là cái chết. Em đã khóc, khóc rất nhiều, nước mắt em rơi xuống cổ, xuống áo của em ướt đẫm.

Em đã tới một bãi cỏ xanh tuyệt đẹp, bên cạnh đó là một dòng sông, một khung cảnh thiên nhiên tươi sáng nhưng con người trong khung cảnh này thì vô cùng đau đớn. Vì thế, Xi - mông không hề quan tâm đến môi trường xung quang, trong em bây giờ chỉ còn sự ám ảnh của cái chết. Em phải chết vì cái chết sẽ sung sướng hơn là sự sống khi em luôn chịu những lời rèm pha, những sự ghẻ lạnh, xa lánh.

Trên dòng xông xanh thơ mộng có những chú ếch xanh đang tắm những ánh nắng vàng tươi tắn, chan hòa. Cảnh vật như một liều thuốc, đã xoa dịu đi sự cô đơn nơi em, thế nhưng Xi - mông vẫn rất buồn vì mình không có bố. Đây chính là điều tuyệt vọng nhất của cuộc đời vì đây chính là nguyên do của tất cả. Xi - mông đã nhìn lên trời cao và ước, em ước trời cao sẽ ban cho em một người bố. Và trong giây phút đó, một việc vô cùng kỳ diệu đã xảy ra.

Người thợ rèn với ngoại hình cao lớn, nhân hậu, tên là Phi - líp đã tới an ủi và vỗ về nỗi đau của Xi - mông. Bác Phi - líp xuất hiện như điều ước của Xi - mông đang dần thành hiện thực. Sau khi trò chuyện, bác đã biết được nguyên nhân em tìm đến cái chết là do không có bố. Và bác thợ rèn Phi - líp đã đồng ý với lời đề nghị của Xi - mông về việc trở thành bố của cậu. 

"Xi-mông ngây thơ hỏi chú thợ rèn “Chú có muốn làm bố cháu không?”Chú thợ rèn nhấc bổng Xi-mông lên trời và thơm và má em một cái thật hiền hậu ấm áp tình yêu thương rồi trả lời “Có chứ, chú có muốn” ". 

Tại giây phút diệu kỳ ấy, tất thảy những bất hạnh của Xi - mông như tan biến, cậu đang tận hưởng sự hạnh phúc khi có một người cha và được cảm nhận sự ấm áp của tình cha mà từ bé đến giờ cậu chưa từng được biết. Xi - mông tự hào lắm, thế nên cậu đã nói với đám bạn hay bắt nạt mình rằng mình đã có bố, bố mình tên là Phi - líp. Một câu nói chất chứa sự hạnh phúc, niềm tự hào, sự hãnh diện của một đứa trẻ luôn khao khát tình yêu của bố.

Như vậy, khi đọc truyện "Bố của Xi - mông", chúng ta đều sẽ bị xúc động bởi những tình tiết vô cùng giản dị và chân thực. Nhà văn Mô - pa - xăng đã vô cùng thành công khi khắc họa lên một xã hội hiện thực vô cùng bất công với những định kiến cổ hủ tại giai đoạn thế kỷ XIV nước Pháp. Đồng thời, câu chuyện cũng truyền tải thông điệp: Một gia đình hạnh phúc nên được xây dựng đủ cả bố và mẹ để trẻ em có thể được sống trong tình thương đủ đầy và sự hạnh phúc trọn vẹn.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay, ngắn nhất khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài 500 bài văn hay lớp 9 được chọn lọc, tổng hợp từ những bài văn đạt điểm cao của học sinh lớp 9 trên cả nước nhằm mục đích giúp học sinh viết văn lớp 9 hay hơn.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên