Top 20 Cảm nhận khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá (điểm cao)
Tổng hợp các bài văn Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đoàn thuyền đánh cá lớp 9 hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 1)
- Dàn ý Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 2)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 3)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 4)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 5)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 6)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 7)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 8)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 9)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá (mẫu khác)
Top 20 Cảm nhận khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá (điểm cao)
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 1
Sau năm 1945, văn học Việt Nam bước sang thời kì văn chương Cách mạng. mang đậm âm hưởng anh hùng ca bi tráng, oai hùng nhằm tiếp thêm động lực, sức mạnh chiến đấu và xây dựng đất nước. Thoát ra khỏi cái tôi u sầu của mình trong thời kì Thơ mới, Huy Cận thổi vào hồn văn của mình sự vui tươi, phấn chấn về thiên nhiên, con người hăng say lao động kiến thiết nước nhà.
Đoàn thuyền đánh cá là một trong số những tác phẩm “thay máu” của ông, lấy cảm hứng từ người dân miền biển và vẻ đẹp biển khơi phóng khoáng năng động. Trong bài thơ, khổ thơ đầu mở ra khung cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá gây ấn tượng đặc sắc cho người đọc.
Ra đời sau chuyến đi thực tế dài ngày của tác giả tới vùng mỏ Quảng Ninh, bài thơ được ví như một bức tranh tả thực cảnh đoàn thuyền của những người dân chài lưới ra khơi đánh cá trên nền trời thăm thẳm. Hình ảnh tráng lệ, đẹp đẽ cùng con người lao động tươi vui thể hiện sự tin tưởng, hy vọng và tự hào của nhà thơ với công cuộc đổi mới đất nước. Khổ thơ đầu của bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, khổ thơ cuối lại là cảnh đoàn thuyền trở về với chuyến thu hoạch thắng lợi.
Những hình ảnh, cảnh tượng lặp lại trong hai khổ thơ mang đến suy nghĩ và liên tưởng về sự lặp vòng, vần xoay của vũ trụ cũng như hoạt động của con người. Thời gian tuần hoàn, từ hoàng hôn tới bình minh cũng giống như con người luôn luôn cố gắng phát triển sự nghiệp, cải tạo nước nhà.
Mở đầu bài thơ bằng cảnh hoàng hôn, khi đoàn thuyền đánh cá chuẩn bị nhổ neo căng buồm ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Đứng trên bờ để quan sát cảnh tượng hoàng hôn kỳ vĩ, phóng tầm mắt ra xa, thu vào trong ống kính của nhà thơ là hình ảnh mặt trời đỏ ối “như hòn lửa”. Mặt trời, biểu tượng của sự sống luôn rực rỡ và tráng lệ, nhất là khi được quan sát giữa không gian rộng lớn. “Mặt trời xuống biển”, người đọc có thể hình dung ra đường chân trời, nơi giao thoa giữa ánh sáng chói chang và mặt nước in hằn sắc đỏ cam kỳ vĩ.
“Sóng đã cài then, đêm sập cửa”, với người dân chài quanh năm bám biển, biển chính là nhà, là nơi để về, là nơi cho họ thức ăn, nguồn sống. Sóng “cài then”, con sóng trở nên hiền hòa và êm dịu dưới màn đêm yên tĩnh, “đêm sập cửa”, cả bầu trời tối đen sau khi mặt trời tắt nắng. Ở đây, tác giả dùng từ “cài then”, “sập cửa”, cũng giống như một ngôi nhà khi màn đêm buông xuống đều cửa đóng then cài, chuẩn bị cho một giấc ngủ sâu sau ngày dài làm việc vất vả.
Thiên nhiên đối với người dân lao động thật gần gũi, giống như mái ấm chở che, nuôi dưỡng họ trưởng thành. Trong thời khắc vạn vật chìm vào giấc mộng như thế, những người dân vạn chài lại bắt đầu công việc thường nhật của mình:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Phép tu từ ẩn dụ “đoàn thuyền đánh cá” chính là những người dân chài khỏe mạnh, giàu sức sống. Cùng với con thuyền – kế sinh nhai, người dân biển đi theo đoàn ra khơi đánh bắt cá. Tuy làm việc vào ban đêm, nhưng dường như, ta vẫn cảm nhận được rõ ràng cái khí thế hừng hực như đoàn quân ra trận. “Câu hát căng buồm cùng gió khơi’, ẩn dụ khí phách của người lao động với câu hát mạnh mẽ, mang tầm vóc vũ trụ “cùng gió khơi”.
Câu hát hay là sức mạnh của người lao động giúp con thuyền căng mới buồm, xứng đáng đứng cạnh thiên nhiên mênh mông vĩ đại. Tác giả khéo léo lồng ghép sự tự hào, tự tin đặt ngang con người sánh vai với vũ trụ, “cùng gió khơi” đưa thuyền ra xa, tìm về vùng đất nơi có nhiều hải sản quý giá. Con người làm chủ thiên nhiên, khai thác thiên nhiên để phục vụ cho đời sống kinh tế, hình ảnh con người chế ngự thiên nhiên vẫn luôn là khao khát và mục tiêu, nhất là trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước đương thời
Đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ này là ở những hình ảnh không gian, con người hòa quyện làm một. Gói gọn trong một vài câu từ, khoảng thời gian từ lúc mặt trời lặn cho đến khi màn đêm bao phủ đều được miêu tả bao quát. Trên cái nền hùng vĩ ấy của thiên nhiên điểm xuyết hình ảnh con người, nhưng con người không hề bé nhỏ, lạc lõng mà là đoàn người ra khơi, vẻ oai hùng ngang hàng với năm châu bốn bể. Cảnh ra khơi huy hoàng, con người chinh phục thiên nhiên gây ấn tượng mạnh cho người đọc ngay từ đầu tác phẩm.
Với lời thơ dứt khoát, mạnh mẽ cùng âm hưởng bản anh hùng ca, ở khổ thơ mở đầu, tác giả đã mang đến một nức họa với những khối màu vừa hài hòa, giao thoa vừa đối lập, tương phản. Đặc sắc nghệ thuật của hai khổ thơ chính là ở chỗ, dùng những hình ảnh cũ nhưng nội dung lại nói về cái mới, tạo nên sự hô ứng giữa không gian và thời gian. Không gian tuần hoàn, thời gian ngày đêm lặp vòng cũng giống như những người lao động luôn làm việc hăng say, hết mình cho sự nghiệp lớn lao của dân tộc.
Dàn ý Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá
I. Mở bài phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về nội dung cần phân tích – khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá.
II. Thân bài phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá:
a. Khái quát hoàn cảnh ra đời và nội dung của tác phẩm:
- Sáng tác năm 1958, trong một chuyến đi thực tế của nhà thơ tại Hồng Gia, Cẩm Phả, Quảng Ninh.
- Là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động làm chủ biển khơi làm chủ cuộc đời.
b. Phân tích đoạn thơ:
- 2 câu thơ đầu: Thời gian ra khơi của đoàn thuyền
+ Mặt trời so sánh với “hòn lửa”, khung cảnh lung linh rực rỡ sắc màu, dù là thời khắc của ngày tàn những hình ảnh đoàn thuyền ra khơi vẫn hiện lên thật đẹp, thật tráng lệ và căng tràn sức sống.
+ Ẩn dụ “sóng – cài then”, “đêm – sập cửa”, màn đêm đang dần buông xuống
+ Khi vạn vật đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi, chỉ có đoàn thuyền là căng tràn sức sống, hăng hái lên đường
- 2 câu thơ sau: không khí ra khơi vui tươi, sôi nổi đầy hứng khởi
+ Từ “lại” nhấn mạnh đến nhịp công việc quen thuộc, lặp lại hàng ngày của người dân làng chài.
+ “Câu hát” cùng “gió khơi” và con người với thiên nhiên như đang hòa làm một.
+ Khổ thơ thứ nhất với sự vui tươi cùng hình ảnh thiên nhiên tráng lệ đã thật sự mở ra một bức tranh, một hành trình ra khơi mới
III. Kết bài phân tích khổ 1 Đoàn thuyền đánh cá:
- Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ.
- Nêu cảm nhận của bản thân.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 2
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Khổ thơ đầu của bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng,lạc quan.
Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước.
Trước hết cảnh hoàng hôn trên biển và cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi được diễn tả rất sinh động ở 2 khổ thơ đầu. Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả bằng một hình tượng độc đáo.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.
Với sự liên tưởng độc đáo và so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kỳ vĩ, tráng lệ như thần thoại. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt. Nó như hòn lửa, một quả cầu lửa đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả bao la như nồng ấm hẳn lên. Phép tu từ so sánh: mặt trời được ví với hòn lửa đem đến cho bức bức tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp chứ không hiu hắt, ảm đạm như trong thơ cổ.
Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then đêm sập cửa” giúp người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống là cánh cửa. Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Có thể nói, hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu mến cuộc đời của nhà thơ Huy Cận.
Vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa. Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kỳ diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhạy cảm.
Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm. Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động. Sự đối lập này làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả.
Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân đã xuống đáy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, mỗi ngày của công việc lao động, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả.
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc. Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:
Khổ thơ đầu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 3
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia – Cẩm Phả – Quảng Ninh. Bài thơ đã dùng được một không khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu diễn tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên biển.
Hai câu thơ đầu diễn tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị gợi cảm:
”Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”.
Ở câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm,ngày tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang vắng nhờ hình ảnh rực sáng này. Trong cảm quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống “Đêm sập cửa” thì sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy.
Những hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú. Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuyền đánh cá thì đây lại là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng, đoàn thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc. Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát khỏe khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.
Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, với thể thơ tự do, giọng thơ bay bổng trí tưởng tượng phong phú. Tác giả đã sử dụng thành công các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa liệt kê và liên tưởng tưởng tượng. Điều này đã đem đến thành công cho tác phẩm, bài thơ trở thành khúc tráng ca của người lao động vì sự giàu đẹp của quê hương, đất nước.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 4
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới với những vần thơ sầu vũ trụ, nhưng sau cách mạng Huy Cận ấm áp hơi thở cuộc sống. Trong đó, bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá là bài thơ mang âm điệu ngọt ngào niềm vui và sự say mê của con người lao động. Và phải chăng đó cũng chính là niềm vui của tác giả. Có đọc bài thơ, ta mới cảm nhận sâu sắc điều đó và hẳn rằng hình ảnh mặt trời sẽ chạm khắc trong tâm hồn ta.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Khổ thơ đầu của bài thơ đã gây ấn tượng cho người đọc bởi chất thơ chất lãng mạn theo nhịp điệu tiếng sóng vỗ. Chao ôi, hãy lắng tai nghe âm hưởng của bài ca lao động khỏe khoắn vang lên từ xa. Trông kìa, mặt trời đang xuống biển, cảnh hoàng hôn hiện lên thật đẹp. Với biện pháp so sánh ” mặt trời” được ví như “hòn lửa” cùng biện pháp nhân hóa đặc sắc ” Sóng đã cài then, đêm sập cửa.” miêu tả cảnh về đêm thật kỳ vĩ tráng lệ, mặt trời đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông buông xuống.
Không xe lạnh mà ngược lại ta còn thấy ấm áp biết nhường nào. Phải chăng bầu trời và mặt biển bao la là ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mùng. Dường như lúc đất trời đang đi vào trạng thái nghỉ ngơi cũng là lúc con người bắt đầu một ngày lao động mới, đó là ra khơi đánh cá.
Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà cả đoàn thuyền một sức mạnh của cuộc đời đổi thay, chữ ” lại” trong ý thơ” lại ra khơi” vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã đi vào ổn định, nề nếp, khúc hát lên đường vang động, gió biển thổi mạnh, cánh buồm cùng gió. Nghệ thuật liên tưởng kết hợp với hình ảnh ẩn dụ thể hiện một hiện thực đó là niềm vui là khí thế phơi phới mạnh mẽ lạc quan của dân chài trên biển.
Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu đã tạo nên một âm hưởng bài thơ vô cùng đặc sắc. Tiếng hát say mê niềm vui như đang làm rung động sợi dây tình cảm của ta, và đây cũng chính là cái tài cái khéo của Huy Cận khi làm thơ.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 5
Giáo sư Hà Minh Đức nhấn mạnh: Cù Huy Cận không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhà văn hóa, nhà hoạt động chính trị xã hội với những dấu ấn quan trọng”. Trên diễn đàn văn học Việt nam, Huy Cận cũng được mệnh danh là nhà thơ đa tài. Ông biết làm thơ từ năm 14 tuổi, 16 tuổi đã có thơ đăng trên báo và 20 tuổi đã xuất bản tập thơ đầu tay “Lửa thiêng”.
Điều quan trọng hơn cả, Huy Cận là người có tầm vóc với sức sáng tạo bền bỉ, cuộc đời ông từ khi là chàng thanh niên mới biết làm thơ cho tới khi rời cõi tạm, ông đều không ngừng sác tác thơ. Một trong những tác phẩm hay tiêu biểu phải kể đến bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá. Khổ đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên về cảnh hoàng hôn thật huy hoàng tráng lệ và vẻ đẹp của con người lao động hăng say.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Phân tích khổ thơ đầu bài đoàn thuyền đánh cá – Bức tranh thiên nhiên hiện ra thật huy hoàng tráng lệ. Đó là cảnh hoàng hôn buông xuống, ánh mặt trời không khác gì hòn lửa lớn và chìm dần xuống biển bao la. Có lẽ, lúc này Huy Cận đang đứng ở cửa biển và được chứng kiến cảnh tượng hùng vĩ tuyệt vời này. Trong thơ ca có rất nhiều bài thơ và những câu thơ về hình ảnh mặt trời lặn nhưng để có thể tạo nên hình ảnh huy hoàng như thế này có lẽ hiếm.
Chúng ta có thể bắt gặp một số hình ảnh về mặt trời lặn như:
Con tàu dần khuất hướng tây
Mặt trời lẩn trốn vầng mây bập bềnh
Hoàng hôn ráng đỏ gợi tình.
Cho ai vương vấn bóng hình người ta
Nếu những tác giả khác phải dùng nhiều ngôn từ, nhiều câu thơ mới gợi lên một buổi chiều hoàng hôn thì Huy Cận chỉ sử dụng một câu thơ với hình ảnh mặt trời rực rỡ như ngọn cầu lửa khổng lồ, sau đó chìm dần, chìm dần xuống biển khơi. Cách sử dụng từ rất sống động. Mặt trời được nhân hóa với hành động “xuống”, một sự sáng tạo tuyệt vời trong thơ ca.
Người ta thường dùng từ “lặn” cho mặt trời như “Mặt trời lặn vu vơ/ Buồn rất trong/ Lấm tấm mồ hôi gương mặt hoài niệm.” hoặc một số tác giả thường dùng ánh nắng để nói về hoàng hôn thay vì sử dụng hình ảnh mặt trời như “Lom khom nhặt nắng chiều tà/ Hoe vàng cành lá vượt qua cuối trời”
Cách sử dụng từ của Huy cận rất táo bạo và sống động, mới mẻ đầy tính sáng tạo rất đúng với tinh thần sáng tạo của thơ ca. Vì vậy không hề nói quá khi nói ông là nghệ sĩ sáng tạo cả đời từ lúc trưởng thành cho đến khi rời cõi tạm.
Hình ảnh mặt trời xuống núi và đỏ rực như quả cầu lửa chính là miêu tả hoàng hôn rực rỡ ở vùng biển khơi. Tác giả lại biến hóa sự dịch chuyển thời gian nhanh chóng đến đêm với câu thơ: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa.” Đều là những hành động rất mạnh, dứt khoát.
Màn đêm dường như đã ập xuống và vũ trợ dường như trở thành một ngôi nhà lớn trong với sóng cài then và đêm thì sập cửa. Thiên nhiên bắt đầu nghỉ ngơi, dọn dẹp sau một ngày mệt mỏi. Những con sóng vẫy vùng dữ tợn ngoài khơi xa dường như cũng thả lỏng nhẹ nhàng hơn. Tất cả đang nghỉ ngơi sau một chu trình hoạt động.
Khi thiên nhiên nghỉ ngơi, con người lại mới bắt đầu làm việc:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Từng đoàn thuyền đánh cá ra khơi mang đến sự hoạt động sôi nổi, mạnh mẽ. Tác giả sử dụng từ “lại” cho thấy đây là một công việc thường xuyên liên tục, diễn ra mỗi ngày và ngày nào cũng vậy. Nó chính là sự đối lập với vũ trụ. Khi vũ trụ chìm trong giấc ngủ là lúc đoàn thuyền sẽ căng buồm ra khơi, khẩn trương mau lẹ, tích cực.
Mặc dù đây là công việc ngày nào cũng như ngày nào nhưng họ luôn ra khơi trong một tâm thế vô cùng hăng say, hăm hở đầy sức sống, náo nhiệt và rộn ràng. Sang câu thơ “Câu hát căng buồm với gió khơi” ta có thể hình dung ra niềm vui lao động của con người. Họ chủ động trong công việc, họ yêu lao động và yêu nghề.
Đối với họ, khi màn đêm buông xuống việc ra khơi chính là niềm vui, một nét đẹp trong lao động. Con người hiện lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ biển cả. Tiếng hát của họ đã át đi tiếng gió trời thổi phập phồng cánh buồm, đẩy con thuyền ra khơi xa hơn.
Phân tích khổ thơ đầu bài đoàn thuyền đánh cá – Hành trình ra khơi luôn đầy niềm vui và ngập tràn tiếng hát. Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sinh động với tiếng hát và hình ảnh người lao động hăng say, khẩn trương, vui vẻ.
Chỉ với 4 câu thơ nhưng Huy cận đã vẽ lên một bức tranh hoàng hôn rực rỡ và hình ảnh con người lao động say mê với công việc và làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên. Ngôn ngữ thơ có âm điệu vui tươi, khỏe khoắn, bay bổng mang đến sức hấp dẫn cho bài thơ.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 6
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai – Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”. Bài thơ ra đời trong thời điểm miền Bắc nước ta đang trong giai đoạn đầu dựng chủ nghĩa xã hội. Xuyên suốt toàn bài thơ là âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan thể hiện rõ dấu ấn của sự chuyển mình trong cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận.
Cũng vẫn là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, nếu như trước cách mạng, thiên nhiên vũ trụ đi vào thơ ông thường gợi cảm giác về sự rợn ngợp trước cái mênh mông, vô cùng vô tận khiến con người trở nên nhỏ bé, cô độc thì ở bài này, thiên nhiên vũ trụ trở nên tươi sáng, khoáng đạt gần gũi với con người, mạnh mẽ và đầy tự tin trong tư thế của một vị chủ nhân của biển cả.
Ở khổ thơ đầu tiên, ta đã bắt gặp hình ảnh người dân chài cá ra khơi vào lúc hoàng hôn.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Nhà văn Nguyễn Tuân Đã viết “Mặt trời đỏ như lòng trứng khổng lồ, đặt trên mâm lễ từ từ tiến vào” với “hòn lửa”. Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống biển xanh, cả không gian vũ trụ như nhuốm một màu đỏ rực rỡ và huy hoàng. Điều này khác hẳn với thời xưa cảnh hoàng hôn chiều tà thường gợi cảm giác ảm đạm hiu hắt và đây cũng là điều khác hẳn với thơ Huy Cận thời kì trước cách mạng tháng tám 1945.
Trước đó bao nhiêu sóng nước tràng giang là có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi nhân: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Độc đáo hơn, nhà thơ đã tả “mặt trời xuống biển” (trong khi biển nước ta là biển đông – một cách cảm nhận dường như thật mơ hồ nhưng có thể lý giải được bởi phải chăng Huy Cận đang mượn điểm nhìn của những người đi biển để chứng kiến cảnh mặt trời lặn “xuống biển”?
Khi ánh sáng của mặt trời dần lịm tắt, màn đêm từ từ buông xuống: “Sóng đã cài then đêm sập cửa”. Trong trí tưởng tượng bay bổng của Huy Cận, màn đêm như một cánh cửa khổng lồ mà sóng chính là cái then cài đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Nghệ thuật nhân hóa đã đem lại cho người đọc cảm giác thiên nhiên vũ trụ trong màn đêm như một ngôi nhà lớn, gần gũi, thân thuộc với con người, nó không huyền bí, xa lạ với con người, đoàn thuyền đánh cá ra khơi mà như đang đi trong chính ngôi nhà thân thuộc của mình.
Như vậy, nhờ sự khéo léo tài tình biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong hai câu thơ mở đầu, nhà thơ Huy Cận đã khắc họa được vẻ đẹp kì vĩ của thiên nhiên lúc hoàng hôn và mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên vũ trụ với con người đang khao khát chinh phục làm chủ biển khơi.
Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Chuyến ra khơi này là cả một đoàn thuyền với khí thế căng tràn, khí thế lao động tập thể, chứ không phải là chuyến ra khơi của những con thuyền lẻ tẻ ở ven bờ. Hơn hết, tuy công việc đánh cá ở ngoài khơi nặng nhọc và đầy bất trắc nhưng đoàn quân vẫn xông trận cất cao tiếng hát. Đây là một hình ảnh bay bổng thể hiện sự tưởng tượng liên tưởng độc đáo của tác giả. Bên cạnh đó, tiếng hát đã bộc lộ niềm lạc quan, phấn khởi, nhiệt tình của lao động của những con người làm chủ quê hương giàu đẹp.
Khổ thơ mở đầu có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ đặc sắc. Bằng bút pháp lãng mạn và sức tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã sáng tạo ra những hình ảnh đẹp bất ngờ, dào dạt chất thơ. “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận thực sự là một bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng, sắc màu và sức sống mãnh liệt. Bài thơ là khúc ca ca ngợi biển cả giàu đẹp và ca ngợi những người dân chài trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa do Đảng và Bác Hồ chỉ đường dẫn lối.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 7
Huy Cận được biết đến là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Ông sáng tác cả trước và sau cách mạng. Người ta biết đến ông với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó phải kể đến “Đoàn thuyền đánh cá” – bài thơ mang hơi thở của đất nước sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được mở ra bằng hình ảnh lao động của những người dân chài lưới một cách rất thơ mộng, trữ tình:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Nếu trước Cách mạng tháng Tám hồn thơ của Huy Cận là một “mối sầu thiên cổ” thì đến giai đoạn sau Cách mạng thơ của ông đã chuyển mình sang âm hưởng vui tươi, lạc quan, tràn đầy tình yêu với thiên nhiên đất trời. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ra đời vào năm 1958 trong một chuyến đi thực tế của Huy Cận ở vùng mỏ Hồng Gia, Cẩm Phả, Quảng Ninh.
Cả bài thơ là không khí tươi vui, hăng say lao động của những người dân chài lưới với tư thế làm chủ thiên nhiên đất trời. Đoạn thơ trên chính là những nét vẽ đầu tiên, mở đầu cho cảnh ra khơi của đoàn thuyền.
Hai câu thơ đầu đã nói lên được thời gian ra khơi của đoàn thuyền – đó là thời khắc của ngày tàn. Ở câu thơ thứ nhất mặt trời đã được so sánh với “hòn lửa”gợi ra một khung cảnh lung linh rực rỡ sắc màu. Dù là thời khắc của ngày tàn nhưng hình ảnh ra khơi qua biện pháp so sánh này vẫn hiện lên thật đẹp, thật tráng lệ và căng tràn sức sống. Trước khi bị nhấn chìm vào dòng nước lạnh lẽo, mặt trời – mái nhà của vũ trụ ấy vẫn kịp tỏa ra những hơi ấm, xua đi cái lạnh lẽo của đêm tối.
Nhưng ngay sau đó thôi, biện pháp ẩn dụ đã kéo theo màn đêm đến, bao trùm khắp không gian: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Từng con sóng nhấp nhô xô vào bờ được Huy Cận ví như những chiếc then cài cửa, cẩn thận khóa lại màn đêm. Màn đêm như một tấm màn được thiên nhiên buông xuống. Tất cả đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi, chỉ có đoàn thuyền là căng tràn sức sống, hăng hái lên đường.
Cái tươi vui, hứng khởi của đoạn thơ còn được thể hiện ở chỗ không phải một chiếc thuyền mà là một “đoàn thuyền” cùng nhau ra khơi. Từ “lại” ý nói lên rằng công việc này dường như đã trở thành một thói quen với những người dân nơi đây. Dù ra khơi vào lúc trời chiều nhưng tinh thần, và ý chí không vì thế mà giảm bớt: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Con người lúc này đã hòa cùng với thiên nhiên, thiên nhiên cũng đang góp sức ủng hộ con người: “câu hát” cùng “gió khơi”. Chính những câu hát vui tươi, hóm hỉnh đó cùng với gió khơi là nguồn động lực đưa chiếc thuyền ra khơi, bắt đầu một hành trình mới, một hành trình đầy cam go và thử thách phía trước.
Bằng việc kết hợp khéo léo biện pháp tu từ so sánh với ẩn dụ cùng với những hình ảnh thơ đặc trưng của biển cả, của thiên nhiên đất trời, khổ thơ thứ nhất với sự vui tươi cùng hình ảnh thiên nhiên tráng lệ đã thật sự mở ra một bức tranh, một hành trình ra khơi mới. Niềm vui sự hăng hái khi bắt đầu lao động đã được đáp trả bằng một chuyến ra khơi bội thu được Huy Cận thể hiện ở những khổ thơ sau đó.
Có thể nói, dù chỉ là bốn câu thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để ta thấy sự thay đổi trong hồn thơ của Huy Cận. Cũng chính vui tươi mới mẻ này đã góp thêm sắc màu mới cho phong trào thơ mới – sắc màu của một Huy Cận với hồn thơ đầy lạc quan, yêu đời.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 8
Hình ảnh người lao động mới là đề tài quen thuộc của nền văn học hiện đại. Ta đã từng thấy hình ảnh của một anh thanh niên làm công tác khí tượng kiên trì, lặng lẽ trên đỉnh Yên Sơn trong “Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn Thành Long; hay một khát vọng cống hiến nhỏ bé trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Mỗi nhân vật tuy khác nhau về nghề nghiệp, hoàn cảnh, nhưng họ có chung với nhau tinh thần cống hiến lặng thầm cho Tổ quốc. Đó chính là vẻ đẹp giản dị nhưng rất cao quý của người lao động trong thời đại mới.
Đến với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, ta cùng thấy được bức chân dung phát hoạ những dân động miền biển với sự say mê, hứng khởi trong lao động. Đặc biệt là ở khổ thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả khung cảnh thiên nhiên để dựng lên bức phông nền kỳ vỹ cho đoàn thuyền ra khơi mang một vẻ đẹp hùng tráng.
Trước hết, cảnh biển vào đêm được tác giả miêu tả rất đặc sắc:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống mặt biển. Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ và những lượn sóng là chiếc then cài vững chắc. Hình ảnh so sánh kết hợp nhân hóa, mang đậm chất lãng mạn vừa tạo nên vẻ đẹp huyền ảo cho bức tranh thiên nhiên vừa mở ra thời gian cho bức tranh lao động biển cả, đó chính là lúc màn đêm buông xuống – kết thúc một ngày.
Chính vào thời điểm thiên nhiên bắt đầu trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu quá trình lao động của mình:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Đoàn thuyền chứ không phải chỉ con thuyền ra khơi đã tạo ra sự tấp nập trên biển, gây ấn tượng về một khối lao động đoàn kết vững chãi của con người. Chữ “lại” vừa khẳng định nhịp điệu lao động ổn định của người dân chài ngày qua ngày, vừa thể hiện sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự lao động của con người. Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà vẫn đậm chất hiện thực. Người đánh cá căng buồm và cất câu hát lên, thế nhưng nhà thơ có cảm giác như chính câu hát đó đã làm căng cánh buồm.
Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động trở thành sức mạnh cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi. Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp phần thể hiện một hiện thực. Đó là tâm trạng náo nức, niềm vui phơi phới, tinh thần lạc quan của người dân chài khi ra khơi. Họ ra khơi trong tâm trạng đầy hứng khởi…
Đoạn thơ mở đầu “Đoàn thuyền đánh cá” là bức tranh khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hình ảnh đoàn thuyền ra khơi với khí thế hào hứng say mê, tràn đầy sức sống, với tâm hồn lãng mạn của người làm chủ đất nước thật đáng trân trọng tự hào.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 9
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận được sáng tác vào năm 1958. Trong chuyến đi thực tế ở vùng Hồng Gai, Cẩm Phả, Quảng Ninh của ông. Đây là một sự kết hợp nhuần nhuyễn của hai nguồn cảm hứng: Cảm hứng lãng mạn tràn ngập niềm vui cuộc sống về lao động và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ. Sự gặp gỡ, phối hợp của hai nguồn cảm hứng này đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, lung linh tráng lệ như những bức tranh sơn mài. Và mở đầu bài thơ là hai câu thơ miêu tả cảnh hoàng hôn trên biển thật độc đáo và thú vị:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Với sự liên tưởng độc đáo, nhà thơ miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm thật kỳ vĩ như thần thoại. Vũ trụ như một ngôi nhà rộng lớn mà ở đó màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ. Còn những lượn sóng gối đầu lên nhau trên biển là những chiếc then cài cửa.
Câu thơ khắc họa một bức tranh phong cảnh thần kỳ như thể nhà thơ có một cặp mắt thần và một trái tim nhạy cảm. Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày, giữa lúc đất trời đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu công việc của mình:.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Hình ảnh ẩn dụ liên tưởng “câu hát căng buồm cùng gió khơi” đã làm rõ sự đối lập này,. Đồng thời cũng làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả. Hình ảnh “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” còn là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp. Cánh buồm căng gió ra khơi là ẩn dụ cho tiếng hát của con người có sức mạnh làm căng cánh buồm.
Ngoài ra, câu hát ấy còn là niềm vui, niềm hứng khởi, say sưa của những con người lao động lạc quan, yêu nghề, yêu biển cả. Cảnh ra khơi huy hoàng đầu khí thế, hứa hẹn chuyến đi biển thắng lợi.
Chỉ với bốn câu thơ mà Huy Cận cũng miêu tả cảnh ra khơi thật sinh động và rõ nét. Tuy chỉ là cảnh ngày tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động trên biển. Và không khí chung của bốn câu thơ mở đầu này đã chi phối không khí chung của cả bài thơ.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 10
Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam. Thơ của ông mang hai phong cách riêng biệt. Trước cách mạng tháng Tám, ông có hồn thơ u sầu, ảo não nhưng sau đó lại tươi trẻ, dạt dào hơn. "Đoàn thuyền đánh cá" là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ ông sau cách mạng. Bài thơ đã diễn tả không khí lao động vui vẻ, phấn khích của người ngư dân. Ở khổ thơ đầu tác giả đã miêu tả rất rõ hình ảnh con thuyền ra khơi cùng với câu hát yêu đời của người ngư dân.
Mở đầu đoạn thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá chuẩn bị ra khơi khi hoàng hôn xuống:
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa".
Bằng việc sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa và so sánh đặc sắc, nhà thơ Huy Cận đã giúp người đọc hình dung ra hình ảnh mặt trời đỏ rực như hòn lửa từ từ chìm vào đại dương mênh mông. Không gian mặt biển trong giây phút những tia sáng mặt trời cuối cùng giao hòa giữa ánh sáng và bóng tối được khắc họa đầy đủ và thật ấn tượng. Xét về vị trí địa lí thì khi đứng ở vùng biển Quảng Ninh không thể thấy được hình ảnh mặt trời xuống biển. Vậy đó là một điểm nhìn tưởng tượng, hay cũng có thể nhà thơ đang đứng trực tiếp trên con thuyền và hướng mắt về vùng biển thì mới có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kì vĩ đến vậy. Không chỉ thế, tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ liên tưởng, tưởng tượng. Khi trời tối, vũ trụ mang một vẻ đẹp huyền bí. Nó như một ngôi nhà lớn mà màn đêm là cánh cửa và sóng là then cửa. Lúc này vạn vật đang dần chìm vào sự nghỉ ngơi sau một ngày dài. Ở hai câu thơ đầu ta thấy khung cảnh thiên nhiên sinh động hơn chứ không giống như xúc cảm ở bài thơ Tràng Giang: "Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song". Hình ảnh thơ trước cách mạng thật buồn tẻ bởi nó nhuốm màu tâm trạng của con người. Còn sau cách mạng hồn thơ Huy Cận như nảy nở trở lại trở nên vui tươi hơn.
Ở những câu thơ tiếp theo, đó là khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong buổi chiều tà:
"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi".
Không chỉ có một, hai chiếc thuyền ra khơi mà có cả đoàn thuyền nối đuôi nhau ra ngoài biển lớn. Không khí lao động của những con người đang đi lên xây dựng đất nước thật hào hùng, hồ hởi, trong lòng họ rạo rực một niềm vui. Bằng việc sử dụng từ "lại", tác giả diễn tả hoạt động thường xuyên liên tục của người ngư dân. Việc ra khơi không phải chỉ diễn ra trong ngày một, ngày hai mà đó là cả một hành trình dài, liên tục. Hoạt động đối lập của con người và thiên nhiên cho ta thấy rõ được thời gian lao động của người ngư dân. Khi mà tất cả mọi vật đều chìm vào sự yên tĩnh thì họ mới ra khơi. Thế nhưng, không vì thế mà người dân cảm thấy mệt mỏi hay chán nản. Họ vẫn cất vang "Câu hát căng buồm với gió khơi". Đó là câu hát yêu đời, hân hoan, hi vọng những lần ra khơi thuận buồm xuôi gió, cá xếp đầy khoang.
Bằng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật đặc sắc kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ Huy Cận đã làm nổi bật bức tranh đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Từ đó, ngợi ca tinh thần lao động tích cực, nhiệt huyết của người ngư dân trong công cuộc dựng xây đất nước.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 11
Giáo sư Hà Minh Đức nhấn mạnh: Cù Huy Cận không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhà văn hóa, nhà hoạt động chính trị xã hội với những dấu ấn quan trọng”. Trên diễn đàn văn học Việt nam, Huy Cận cũng được mệnh danh là nhà thơ đa tài. Ông biết làm thơ từ năm 14 tuổi, 16 tuổi đã có thơ đăng trên báo và 20 tuổi đã xuất bản tập thơ đầu tay “Lửa thiêng”. Điều quan trọng hơn cả, Huy Cận là người có tầm vóc với sức sáng tạo bền bỉ, cuộc đời ông từ khi là chàng thanh niên mới biết làm thơ cho tới khi rời cõi tạm, ông đều không ngừng sác tác thơ. Một trong những tác phẩm hay tiêu biểu phải kể đến bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá. Khổ đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên về cảnh hoàng hôn thật huy hoàng tráng lệ và vẻ đẹp của con người lao động hăng say.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Phân tích khổ thơ đầu bài đoàn thuyền đánh cá – Bức tranh thiên nhiên hiện ra thật huy hoàng tráng lệ. Đó là cảnh hoàng hôn buông xuống, ánh mặt trời không khác gì hòn lửa lớn và chìm dần xuống biển bao la. Có lẽ, lúc này Huy Cận đang đứng ở cửa biển và được chứng kiến cảnh tượng hùng vĩ tuyệt vời này. Trong thơ ca có rất nhiều bài thơ và những câu thơ về hình ảnh mặt trời lặn nhưng để có thể tạo nên hình ảnh huy hoàng như thế này có lẽ hiếm.
Chúng ta có thể bắt gặp một số hình ảnh về mặt trời lặn như:
Con tàu dần khuất hướng tây
Mặt trời lẩn trốn vầng mây bập bềnh
Hoàng hôn ráng đỏ gợi tình.
Cho ai vương vấn bóng hình người ta
Nếu những tác giả khác phải dùng nhiều ngôn từ, nhiều câu thơ mới gợi lên một buổi chiều hoàng hôn thì Huy Cận chỉ sử dụng một câu thơ với hình ảnh mặt trời rực rỡ như ngọn cầu lửa khổng lồ, sau đó chìm dần, chìm dần xuống biển khơi. Cách sử dụng từ rất sống động. Mặt trời được nhân hóa với hành động “xuống”, một sự sáng tạo tuyệt vời trong thơ ca. Người ta thường dùng từ “lặn” cho mặt trời như “Mặt trời lặn vu vơ/ Buồn rất trong/ Lấm tấm mồ hôi gương mặt hoài niệm.” hoặc một số tác giả thường dùng ánh nắng để nói về hoàng hôn thay vì sử dụng hình ảnh mặt trời như “Lom khom nhặt nắng chiều tà/ Hoe vàng cành lá vượt qua cuối trời”
Cách sử dụng từ của Huy cận rất táo bạo và sống động, mới mẻ đầy tính sáng tạo rất đúng với tinh thần sáng tạo của thơ ca. Vì vậy không hề nói quá khi nói ông là nghệ sĩ sáng tạo cả đời từ lúc trưởng thành cho đến khi rời cõi tạm.
Hình ảnh mặt trời xuống núi và đỏ rực như quả cầu lửa chính là miêu tả hoàng hôn rực rỡ ở vùng biển khơi. Tác giả lại biến hóa sự dịch chuyển thời gian nhanh chóng đến đêm với câu thơ: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa.” Đều là những hành động rất mạnh, dứt khoát.
Màn đêm dường như đã ập xuống và vũ trợ dường như trở thành một ngôi nhà lớn trong với sóng cài then và đêm thì sập cửa. Thiên nhiên bắt đầu nghỉ ngơi, dọn dẹp sau một ngày mệt mỏi. Những con sóng vẫy vùng dữ tợn ngoài khơi xa dường như cũng thả lỏng nhẹ nhàng hơn. Tất cả đang nghỉ ngơi sau một chu trình hoạt động.
Khi thiên nhiên nghỉ ngơi, con người lại mới bắt đầu làm việc:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Từng đoàn thuyền đánh cá ra khơi mang đến sự hoạt động sôi nổi, mạnh mẽ. Tác giả sử dụng từ “lại” cho thấy đây là một công việc thường xuyên liên tục, diễn ra mỗi ngày và ngày nào cũng vậy. Nó chính là sự đối lập với vũ trụ. Khi vũ trụ chìm trong giấc ngủ là lúc đoàn thuyền sẽ căng buồm ra khơi, khẩn trương mau lẹ, tích cực.
Mặc dù đây là công việc ngày nào cũng như ngày nào nhưng họ luôn ra khơi trong một tâm thế vô cùng hăng say, hăm hở đầy sức sống, náo nhiệt và rộn ràng. Sang câu thơ “Câu hát căng buồm với gió khơi” ta có thể hình dung ra niềm vui lao động của con người. Họ chủ động trong công việc, họ yêu lao động và yêu nghề. Đối với họ, khi màn đêm buông xuống việc ra khơi chính là niềm vui, một nét đẹp trong lao động. Con người hiện lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ biển cả. Tiếng hát của họ đã át đi tiếng gió trời thổi phập phồng cánh buồm, đẩy con thuyền ra khơi xa hơn.
Phân tích khổ thơ đầu bài đoàn thuyền đánh cá – Hành trình ra khơi luôn đầy niềm vui và ngập tràn tiếng hát. Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sinh động với tiếng hát và hình ảnh người lao động hăng say, khẩn trương, vui vẻ.
Chỉ với 4 câu thơ nhưng Huy cận đã vẽ lên một bức tranh hoàng hôn rực rỡ và hình ảnh con người lao động say mê với công việc và làm chủ cuộc đời, làm chủ thiên nhiên. Ngôn ngữ thơ có âm điệu vui tươi, khỏe khoắn, bay bổng mang đến sức hấp dẫn cho bài thơ.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 12
“Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ khỏe khoắn của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám.
Với khổ thơ đầu, tác giả đã mở ra một hình ảnh đẹp về đoàn thuyền ra khơi trong bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ hùng tráng: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Khi sắc tối đang từ từ chiếm trọn không gian bao la, mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ, sáng rực dần lặn xuống mặt biển. Màn đêm buông xuống như tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là chiếc then cài vững chắc. Hình ảnh so sánh kết hợp nhân hóa tạo nên nét huyền diệu, mĩ lệ của thiên nhiên vừa tạo ra sự nhanh chóng, gấp gáp kết thúc một ngày dài. Nhưng đó không phải ngày tàn, u ám như trong bức tranh của tác phẩm Hai đứa trẻ mà là một ngày mới mở ra cho những người con của biển cả: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Đoàn thuyền – tạo ra ấn tượng về sự tấp nập, nhộn nhịp, tinh thần lao động hăng say của những ngư dân. Chữ “lại” vừa khẳng định nhịp điệu lao động ổn định của người dân chài ngày qua ngày, vừa thể hiện sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự lao động của con người.Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn và cũng chất chứa bao hi vọng về những khoang thuyền đầy ắp cá. Tác giả đã tạo nên một hình ảnh khỏe khoắn, tươi vui, căng tràn sức sống và tinh thần say mê lao động.
Đoạn thơ là bức tranh khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hình ảnh đoàn thuyền ra khơi với khí thế hào hứng say mê, tràn đầy sức sống, với tâm hồn lãng mạn của người làm chủ đất nước thật đáng trân trọng tự hào.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 13
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận được sáng tác vào năm 1958. Trong chuyến đi thực tế ở vùng Hồng Gai, Cẩm Phả, Quảng Ninh của ông. Đây là một sự kết hợp nhuần nhuyễn của hai nguồn cảm hứng:. Cảm hứng lãng mạn tràn ngập niềm vui cuộc sống về lao động và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ. Sự gặp gỡ, phối hợp của hai nguồn cảm hứng này đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, lung linh tráng lệ như những bức tranh sơn mài. Và mở đầu bài thơ là hai câu thơ miêu tả cảnh hoàng hôn trên biển thật độc đáo và thú vị:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Với sự liên tưởng độc đáo, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm thật kỳ vĩ như thần thoại. Vũ trụ như một ngôi nhà rộng lớn mà ở đó màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ. Còn những lượn sóng gối đầu lên nhau trên biển là những chiếc then cài cửa.
Câu thơ khắc họa một bức tranh phong cảnh thần kỳ như thể nhà thơ có một cặp mắt thần và một trái tim nhạy cảm. Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày, giữa lúc đất trời đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu công việc của mình:.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Hình ảnh ẩn dụ liên tưởng “câu hát căng buồm cùng gió khơi” đã làm rõ sự đối lập này,. Đồng thời cũng làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả.
Nhịp thơ nhanh, mạnh như một quyết định dứt khoát, đoàn ngư dân ào xuống, đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, liên tục thường nhật mỗi ngày của công việc lao động. Vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu thơ trên:. Đất trời chìm vào đêm nghỉ ngơi còn con người lại bắt đầu công việc lao động, một công việc không ít vất vả và nặng nhọc.
Hình ảnh “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” còn là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp. Cánh buồm căng gió ra khơi là ẩn dụ cho tiếng hát của con người có sức mạnh làm căng cánh buồm.
Ngoài ra, câu hát ấy còn là niềm vui, niềm hứng khởi, say sưa của những con người lao động lạc quan, yêu nghề, yêu biển cả. Cảnh ra khơi huy hoàng đầu khí thế, hứa hẹn chuyến đi biển thắng lợi.
Chỉ với bốn câu thơ mà Huy Cận cũng miêu tả cảnh ra khơi thật sinh động và rõ nét. Tuy chỉ là cảnh ngày tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động trên biển. Và không khí chung của bốn câu thơ mở đầu này đã chi phối không khí chung của cả bài thơ.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 14
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Khổ thơ đầu của bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng,lạc quan.
Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước.
Trước hết cảnh hoàng hôn trên biển và cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi được diễn tả rất sinh động ở 2 khổ thơ đầu. Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả bằng một hình tượng độc đáo.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.
Với sự liên tưởng độc đáo và so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kỳ vĩ, tráng lệ như thần thoại. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt. Nó như hòn lửa, một quả cầu lửa đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả bao la như nồng ấm hẳn lên. Phép tu từ so sánh: mặt trời được ví với hòn lửa đem đến cho bức bức tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp chứ không hiu hắt, ảm đạm như trong thơ cổ.
Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then đêm sập cửa” giúp người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ,biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống là cánh cửa. Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Có thể nói, hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu mến cuộc đời của nhà thơ Huy Cận.
Vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa. Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kỳ diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhạy cảm.
Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm. Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động. Sự đối lập này làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả.
Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân đã xuống đáy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, mỗi ngày của công việc lao động, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả.
“Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc. Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:
Khổ thơ đầu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 15
Huy Cận được biết đến là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Ông sáng tác cả trước và sau cách mạng. Người ta biết đến ông với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó phải kể đến "Đoàn thuyền đánh cá" - bài thơ mang hơi thở của đất nước sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được mở ra bằng hình ảnh lao động của những người dân chài lưới một cách rất thơ mộng, trữ tình:
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi"
Nếu trước Cách mạng tháng Tám hồn thơ của Huy Cận là một "mối sầu thiên cổ" thì đến giai đoạn sau Cách mạng thơ của ông đã chuyển mình sang âm hưởng vui tươi, lạc quan, tràn đầy tình yêu với thiên nhiên đất trời. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được ra đời vào năm 1958 trong một chuyến đi thực tế của Huy Cận ở vùng mỏ Hồng Gia, Cẩm Phả, Quảng Ninh. Cả bài thơ là không khí tươi vui, hăng say lao động của những người dân chài lưới với tư thế làm chủ thiên nhiên đất trời. Đoạn thơ trên chính là những nét vẽ đầu tiên, mở đầu cho cảnh ra khơi của đoàn thuyền.
Hai câu thơ đầu đã nói lên được thời gian ra khơi của đoàn thuyền - đó là thời khắc của ngày tàn. Ở câu thơ thứ nhất mặt trời đã được so sánh với "hòn lửa"gợi ra một khung cảnh lung linh rực rỡ sắc màu. Dù là thời khắc của ngày tàn nhưng hình ảnh ra khơi qua biện pháp so sánh này vẫn hiện lên thật đẹp, thật tráng lệ và căng tràn sức sống. Trước khi bị nhấn chìm vào dòng nước lạnh lẽo, mặt trời - mái nhà của vũ trụ ấy vẫn kịp tỏa ra những hơi ấm, xua đi cái lạnh lẽo của đêm tối. Nhưng ngay sau đó thôi, biện pháp ẩn dụ đã kéo theo màn đêm đến, bao trùm khắp không gian: "Sóng đã cài then, đêm sập cửa". Từng con sóng nhấp nhô xô vào bờ được Huy Cận ví như những chiếc then cài cửa, cẩn thận khóa lại màn đêm. Màn đêm như một tấm màn được thiên nhiên buông xuống. Tất cả đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi, chỉ có đoàn thuyền là căng tràn sức sống, hăng hái lên đường.
Cái tươi vui, hứng khởi của đoạn thơ còn được thể hiện ở chỗ không phải một chiếc thuyền mà là một "đoàn thuyền" cùng nhau ra khơi. Từ "lại" ý nói lên rằng công việc này dường như đã trở thành một thói quen với những người dân nơi đây. Dù ra khơi vào lúc trời chiều nhưng tinh thần, và ý chí không vì thế mà giảm bớt: "Câu hát căng buồm cùng gió khơi". Con người lúc này đã hòa cùng với thiên nhiên, thiên nhiên cũng đang góp sức ủng hộ con người: "câu hát" cùng "gió khơi". Chính những câu hát vui tươi, hóm hỉnh đó cùng với gió khơi là nguồn động lực đưa chiếc thuyền ra khơi, bắt đầu một hành trình mới, một hành trình đầy cam go và thử thách phía trước.
Bằng việc kết hợp khéo léo biện pháp tu từ so sánh với ẩn dụ cùng với những hình ảnh thơ đặc trưng của biển cả, của thiên nhiên đất trời, khổ thơ thứ nhất với sự vui tươi cùng hình ảnh thiên nhiên tráng lệ đã thật sự mở ra một bức tranh, một hành trình ra khơi mới. Niềm vui sự hăng hái khi bắt đầu lao động đã được đáp trả bằng một chuyến ra khơi bội thu được Huy Cận thể hiện ở những khổ thơ sau đó.
Có thể nói, dù chỉ là bốn câu thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để ta thấy sự thay đổi trong hồn thơ của Huy Cận. Cũng chính vui tươi mới mẻ này đã góp thêm sắc màu mới cho phong trào thơ mới - sắc màu của một Huy Cận với hồn thơ đầy lạc quan, yêu đời.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 16
“Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ khỏe khoắn của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Với khổ thơ đầu, tác giả đã mở ra một hình ảnh đẹp về đoàn thuyền ra khơi trong bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ hùng tráng: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Khi sắc tối đang từ từ chiếm trọn không gian bao la, mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ, sáng rực dần lặn xuống mặt biển. Màn đêm buông xuống như tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là chiếc then cài vững chắc. Hình ảnh so sánh kết hợp nhân hóa tạo nên nét huyền diệu, mĩ lệ của thiên nhiên vừa tạo ra sự nhanh chóng, gấp gáp kết thúc một ngày dài. Nhưng đó không phải ngày tàn, u ám như trong bức tranh của tác phẩm Hai đứa trẻ mà là một ngày mới mở ra cho những người con của biển cả: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/ Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Đoàn thuyền – tạo ra ấn tượng về sự tấp nập, nhộn nhịp, tinh thần lao động hăng say của những ngư dân. Chữ “lại” vừa khẳng định nhịp điệu lao động ổn định của người dân chài ngày qua ngày, vừa thể hiện sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự lao động của con người.Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn và cũng chất chứa bao hi vọng về những khoang thuyền đầy ắp cá. Tác giả đã tạo nên một hình ảnh khỏe khoắn, tươi vui, căng tràn sức sống và tinh thần say mê lao động. Đoạn thơ là bức tranh khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hình ảnh đoàn thuyền ra khơi với khí thế hào hứng say mê, tràn đầy sức sống, với tâm hồn lãng mạn của người làm chủ đất nước thật đáng trân trọng tự hào.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 17
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩm Phả - Quảng Ninh. Bài thơ đã dùng được một không khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu diễn tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên biển. Hai câu thơ đầu diễn tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị gợi cảm: ”Mặt trời xuống biển như hòn lửa-sóng đã cài then đêm sập cửa”. Ơ câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh.Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm, ngày tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang vắng nhờ hình ảnh rực sáng này. Trong cảm quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống “Đêm sập cửa” thì sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Những hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú.Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuyền đánh cá thì đây lại là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng, đoàn thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc. Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát khỏe khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động. Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Không khí chung của bốn câu thơ mở đầu này chi phối không khí chung của cả bài thơ.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 18
Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được ông sáng tác sau chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh. Khổ đầu của bài thơ đã cho ta thấy khung cảnh hoàng hôn tráng lệ trên biển cùng hình ảnh của đoàn thuyền đánh cá. Bức tranh mở ra bài thơ là bức tranh thiên nhiên hoàng hôn vô cùng kỳ vĩ của vũ trụ. Đó là khung cảnh khi mặt trời đỏ rực "như hòn lửa" đang từ từ lặn xuống đường chân trời của biển cả bao la. Vũ trụ với Huy Cận như một ngôi nhà khổng lồ đang dần bước vào thời gian nghỉ ngơi. Khi "mặt trời xuống biển" thì cũng là lúc màn "đêm sập cửa", những con sóng "cài then" đóng lại cánh cửa ánh sáng mở ra một không gian của đêm đen bao phủ. Những hình ảnh nhân hoá, so sánh hết sức sống động của nhà thơ đã tái hiện cho chúng ta hình ảnh của một buổi hoàng hôn trên biển tráng lệ vô cùng. Thế nhưng khi thiên nhiên nghỉ ngơi cũng là lúc con người bước vào công việc quen thuộc của mình "Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi". Cụm từ "lại ra khơi" cho ta thấy công việc đó vô cùng quen thuộc, là một quy luật của những người ngư dân nơi đây. Hình ảnh "câu hát căng buồm cùng gió khơi" là một hình ảnh được Huy Cận cụ thể hoá. Hoà chung trong không khí hân hoan ra khơi, những người lao động cất lên tiếng hát vui mừng. Những tiếng hát khỏe khoắn ấy hoà cùng với ngọn gió thổi "căng"chiếc buồm của con thuyền ra khơi. Những người ngư dân ra khơi với niềm tin rằng họ sẽ mang về những mẻ cá đầy, những thành quả to lớn. Khung cảnh ngày tàn mở ra bài thơ nhưng không hề u sầu, buồn bã mà trái lại vô cùng hân hoan, vui vẻ. Khổ thơ thứ 1 cùng bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là khúc tráng ca của con người lao động và thiên nhiên vũ trụ.
Cảm nhận khổ 1 bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 19
"Đoàn thuyền đánh cá" là bài thơ đặc sắc của nhà thơ Huy Cận viết về người lao động vùng biển. Đặc biệt, ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã tái hiện khung cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi tấp nập. Đầu tiên, Huy Cận đã gợi lên khung cảnh thiên nhiên lúc chiều tà với hình ảnh "Mặt trời xuống biển như hòn lửa". Lúc này, mặt trời đỏ rực như đang dần chìm vào đại dương mênh mông. Ánh sáng của một ngày cũng dần biến mất nhường chỗ cho bóng tối. Bằng việc sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa "Sóng đã cài then, đêm sập cửa", nhà thơ đã gợi lên cảnh vạn vật như đang chìm vào giấc ngủ. Khi mà thiên nhiên đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì đó lại là lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Từ "lại" đã diễn tả hoạt động lặp lại thường xuyên. Công việc của người ngư dân không phải diễn ra trong ngày một, ngày hai mà đó là cả một hành trình dài. Nhưng không vì thế mà người đi biển nản lòng, họ vẫn cất vang "Câu hát căng buồm với gió khơi". Câu hát mang bao niềm vui, niềm hi vọng về một lần ra khơi thuận buồm xuôi gió. Bằng việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa đặc sắc, nhà thơ Huy Cận đã khéo léo làm nổi bật cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi với sự hùng vĩ, tráng lệ. Qua đây, người đọc phần nào cảm nhận được tình yêu thiên nhiên và con người của nhà thơ.
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài 500 bài văn hay lớp 9 được chọn lọc, tổng hợp từ những bài văn đạt điểm cao của học sinh lớp 9 trên cả nước nhằm mục đích giúp học sinh viết văn lớp 9 hay hơn.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều