Top 1 Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương (điểm cao)
Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất, ngắn gọn gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 9.
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 1
- Dàn ý Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương
- Sơ đồ tư duy Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 2
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 3
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 4
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 5
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 6
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 7
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 8
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 9
- Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương (mẫu khác)
Top 1 Cảm nhận Chuyện người con gái Nam Xương (điểm cao)
Cảm nhận văn bản Chuyện người con gái Nam Xương - Cô Lê Minh Nguyệt (Giáo viên VietJack)
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 1
Tác giả Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI và là học trò ưu tú của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dễ nhận thấy được các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam và trong đó nổi tiếng nhất chính là tác phẩm “Truyền kỳ Mạn Lục” trong đó tiêu biểu nhất là chuyện thứ 16 “Chuyện người con gái Nam Xương”. Trong tác phẩm này cũng đã thể hiện được niềm thương cảm sâu sắc của Nguyễn Dữ đối với nhân vật Vũ Nương – một người con gái đẹp người, đẹp nết thế nhưng phải chịu những sự bất công trong xã hội cũ. Và đây cũng là nhân vật đem lại cho chúng ta nhiều cảm nghĩ nhất.
Đầu tiên người ta nhận thấy ngay được nhân vật Vũ Nương chính là một người phụ nữ mang rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng xuất thân từ một gia đình nghèo thế nhưng lại có nhan sắc và lại còn có đức hạnh, ai ai cũng mến yêu. Không thể phủ nhận được vẻ đẹp của Vũ Nương cũng mang vẻ đẹp của một người phụ nữ xưa. Chính vì vẻ đẹp cũng như đức hạnh của nàng khiến cho Trương Sinh say mê và xin mẹ 100 lạng vàng đi hỏi cưới Vũ Nương. Xuất phát từ một cuộc hôn nhân không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen tuông. Thế nhưng với Vũ Nương vẫn luôn giữ phép tắc trong đạo vợ chồng, nàng luôn là một người phụ nữ vô cùng thông minh, đôn hậu và biết giữ gìn khuôn phép không bao giờ để gia đình bị thất hòa. Tất cả những điều này cho thấy Vũ Nương là một người khéo léo và nết na.
Khi nàng phải sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng quân đi lính nơi biên ải xa xôi. Trong một buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình yên thế nhưng đối với Vũ Nương lúc nào nàng cũng chỉ mong chồng có thể bình an trở về không mong gì hơn. Nguyễn Dữ cũng thật tài tình khi nàng không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương cũng còn được xây dựng lên chính là một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo. Khi chồng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn một mình. Và để có thể mong bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha Đản mà thôi. Rồi còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang cẩn thận phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Vũ Nương cũng đã làm chọn chữ công với nhà chồng. Thực sự có thể nhận thấy được đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương. Lý do chính bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe đến vậy.
Thực sự có thể nhận thấy được chính tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời với Vũ Nương. Đó chính là câu nói “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Thông qua đây chúng ta nhận thấy được nhân vật Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh thật đáng học hỏi.
Xây dựng lên nhân vật Vũ Nương còn là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó chính là một thú vui nghi gia, nghi thất – vợ chồng con cái sum họp bên nhau. Nhưng dù có cố gắng như thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời của Vũ Nương cũng giống như cuộc đời của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó là một cuộc đời buồn và đầy những giọt nước mắt. Rồi sự bất hạnh của nàng ập đến khi người chồng trở về, cứ mong cảnh đoàn tụ vui vẻ sẽ đến với nàng nhưng không. Trương Sinh vốn ít học lại có thói ghen tuông khi nghe chuyện về cái bóng thôi là đã vội vàng kết tội cho Vũ Nương. Cho dù nàng có hết lời phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả đều vô ích mà thôi.
Chính Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi và bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Khi đã thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giãi tỏ nỗi lòng trong trắng của mình. Khi đó Vũ Nương đã tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu và nàng nhảy xuống sông để rồi tự vẫn.
Thông qua đây thì Nguyễn Dữ cũng đã thể hiện được chân lý “thà chết trong còn hơn sống đục” với tấm lòng yêu thương con người tác giả như không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo. Ngay ở phía sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lúc này cũng lập đàn giải oan cho vợ. Vũ Nương trở về dù chỉ thấp thoáng trong giây lát thôi cũng cũng đã thể hiện được quan niệm của tác giả. Người phụ nữ trong xã hội cũ luôn bị rơi vào tình cảnh bị tước đoạt hạnh phúc, cho dù họ có tốt như nào đi chăng nữa thì vẫn bị các thế lực khác chà đạp vào mức đường cùng không lối ra.
Tác giả đã thông qua nhân vật Vũ Nương để tố cáo và lên án chiến tranh phi nghĩa làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người. Nguyễn Dữ xây dựng lên nhân vật Vũ Nương thật tài tình, đây là một nhân vật thể hiện được rất nhiều quan điểm nghệ thuật nhân sinh và giúp cho tác phẩm trở nên hay hơn, hấp dẫn hơn.
Dàn ý Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương
1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Dữ và truyện "Chuyện người con gái Nam Xương".
- Cảm nhận văn bản Truyện người con gái Nam Xương
2. Thân bài
a) Tóm tắt lại diễn biến câu chuyện
- Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp.
- Điều ấy khiến cho Trương Sinh - một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Biết chồng là một người hay ghen, nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên gia đình luôn hòa thuận.
- Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết lòng giải thích nhưng vẫn vô dụng.
- Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.
- Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan thì thấy Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
b) Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
- Vũ Nương là người phụ nữ truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp:
+ Nàng không chỉ xinh đẹp dịu dàng mà tư dung tốt đẹp.
+ Khi lấy chồng, luôn giữ gìn mực thước nên gia đình luôn giữ được hòa khí.
- Khi chồng đi lính:
+ Trước lúc chồng lên đường: Rót chén rượu đầy, dặn dò chống bằng lời lẽ ân cần, dịu dàng "Chàng đi chuyến này …đủ rồi"
+ Trong lúc chồng đi lính: Lo toan việc nhà, chăm sóc mẹ già, dạy dỗ con thơ đều chu đáo.
- Khi bị chồng ngờ vực:
+ Hết mực giải thích bằng những lời nói nhẹ nhàng: “Thiếp vốn con kẻ khó … nghi oan cho thiếp”.
+ Biết không thể giải thích được nữa, nàng chọn cái chết để chứng minh tấm lòng của mình.
=> Vũ Nương chính là người phụ nữ điển hình của xã hội xưa.
c) Đánh giá về cuộc đời của Vũ Nương
- Không được quyền lựa chọn tình yêu, hôn nhân. Sự bất công đối với người phụ nữ xưa khi họ phải chịu cảnh “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
- Không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn vì chiến tranh. Cuộc sống gia đình chưa được bao lâu thì phải vì chiến tranh mà chia cắt.
=> Hình ảnh Vũ Nương gợi sự cảm thông, thương xót cho người phụ nữ trong xã hội xưa.
3. Kết bài
- Khái quát lại về nhân vật Vũ Nương.
- Cảm nhận của người viết về nhân vật Vũ Nương: xót xa cho thân phận.
Sơ đồ tư duy Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 2
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện - Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kỳ Mạn Lục”, được bắt đầu từ truyện cổ tích “vợ chàng Trương”. Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ qua nhân vật chính Vũ Nương.
Trước tiên, Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng là người phụ nữ bình dân xuất thân từ gia đình nghèo nhưng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh. Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam - của “chiếc bánh trôi” trong thơ của Hồ Xuân Hương “vừa trắng lại vừa tròn”. Vì vậy Trương Sinh con nhà hào phú đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ, cuộc hôn nhân ấy vốn không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen. Nhưng trong đạo vợ chồng, nàng tỏ ra là một phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng đã “luôn giữ gìn khuôn phép... thất hòa”. Điều ấy chứng tỏ nàng rất khéo léo trong việc vun vén hạnh phúc gia đình. Sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng quân đi lính nơi biên ải. Buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình yên “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong... thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật giản dị chỉ vì nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm xa cách Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại không thể nào ngăn được”.
Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa:
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
(Chinh phụ ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của Vũ Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng. Không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương còn là một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo, chàng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn. Để bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha Đản, còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã làm chọn chữ “công” với nhà chồng. Đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh. Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó là thú vui nghi gia, nghi thất - vợ chồng con cái sum họp bên nhau. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như cuộc đời của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của nàng bắt đầu từ khi giặc tan Trương Sinh trở về, chuyện cái bóng của con thơ đã là Trương Sinh ngờ vực, rồi kết tội Vũ Nương. Chàng đinh ninh là vợ hư, nàng hết lời phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả đều vô ích. Vốn có tính hay ghen lại vũ phu ít học.
Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn “mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi”, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giải tỏa nỗi lòng trong trắng của mình. Nàng “tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu... phỉ nhổ”. Nói rồi nàng nhảy xuống sông tự vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ vực thẳm dẫn đến bi kịch gia đình. Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến) qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “thà chết trong còn hơn sống đục” với tấm lòng yêu thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo. Sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ. Nàng trở về trong thế rực rỡ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng trong giây lát rồi biến mất mãi mãi. Vũ Nương mãi mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm vợ, làm mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng chính là bi kịch của người phụ nữ xã hội xưa. Bi kịch ấy không chỉ dừng ở thế kỉ XVI, XVII, XVIII mà đến đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du từng viết trong truyện Kiều:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Với niềm xót thương sâu sắc, Nguyễn Dữ lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên những khát vọng chính đáng của con người - của phụ nữ. Ông tố cáo xã hội phong kiến với những hủ tục phi lý, trọng nam khinh nữ, đạo tam tòng bao bất công và hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu sống với hủ tục là thế lực đồng tiền bạc án nên Trương Sinh con nhà hào phú một lúc bỏ ra trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngoài ra ông còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người.
Như vậy bằng cách xây dựng truyện hết sức độc đáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự, trữ tình và yếu tố thực ảo. Chuyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là những trang buồn đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của nàng cũng là vẻ đẹp số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong thế giới công bằng dân chủ, văn minh người phụ nữ là một nửa của thế giới họ được hưởng những quyền lợi mà nam giới được hưởng. Vậy chúng ta hãy phát huy những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa và thương cảm trước số phận của họ
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 3
Tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" lấy nguồn cảm hứng từ những số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Một xã hội phong kiến với nhiều phong tục tập quán, với nhiều luật lệ thiếu sự công bằng " trọng nam khinh nữ" đã đẩy những người phụ nữ tới chỗ chịu cảnh oan tình, không biết ngỏ cùng ai, cùng quẫn tới mức phải tìm tới cái chết để có thể chứng minh mình trong sạch.
Tập truyện Truyền kỳ mạn lục là một cuốn truyện nổi bật, để lại tên tuổi cho tác giả Nguyễn Dữ bởi những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn có chút hoang tưởng. Nhưng lại khiến người đọc cảm thấy hả hê, hài lòng bởi có những việc mà trong xã hội cũ con người chưa thể nào làm được, không thể nói lên tiếng nói của mình, thì trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã sử dụng yếu tố hoang tưởng ly kỳ để giải quyết mọi tình huống. Câu chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm nổi bật, nói lên số phận của người phụ nữ lúc bấy giờ và ước mơ của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, được yêu thương, có quyền quyết định vận mệnh tương lai của mình. Câu chuyện này được tác Nguyễn Dữ viết dựa trên một cốt truyện có sẵn truyền miệng trong dân gian Việt Nam. Nhưng khi tác giả chọn lọc để đưa vào tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ đã tinh tế đưa thêm nhiều chi tiết hấp dẫn hơn. Nhưng nội dung câu chuyện không thay đổi. Chuyện người con gái Nam Xương kể về người phụ nữ có phẩm hạnh tốt đẹp, có tâm, có tình, có dung mạo, đức hạnh nhưng lại không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Cuộc sống của cô phải trải qua nhiều gian nan, tới cuối cùng thì phải tự mình tìm tới cái chết để giải oan và thoát khỏi kiếp nạn oan khuất của mình.
Vũ Nương vốn là một cô gái có dung mạo xinh đẹp, tính tình nết na, hiền thục. Năm vừa tròn đôi chín Vũ Nương được làm mai mối rồi kết hôn với chàng trai tên là Trương Sinh. Một người cùng làng, cha mất sớm chỉ có một bà mẹ già là nơi nương tựa tình thần. Gia cảnh không giàu có nhưng tình cảm vợ chồng đầm ấm, trên dưới thuận hòa. Nhưng hạnh phúc ngắn ngủi, chẳng bao lâu sau chiến tranh xảy ra, nhà vua cho người dán cáo thị khắp nơi bắt những người trai tráng trong làng phải tòng quân đi lính, phục vụ triều đình. Trương Sinh từ biệt mẹ già và người vợ đang của mình lên đường. Nhưng anh không biết rằng ngày anh lên đường ra chiến trận thì Vũ Nương đã mang thai được ít tuần. Những năm tháng chiến tranh đằng đẵng Vũ Nương ở nhà một mực hiếu thảo với mẹ chồng, chăm sóc con nhỏ, giữ tròn đức hạnh của một người vợ nết nam chung thủy, một mực đợi chồng trở về.
Nhưng chẳng bao lâu, mẹ của Trương Sinh vì quá mong nhớ con trai, cộng với tuổi già sức yếu nên lâm bệnh nặng qua đời. Mặc dù, Vũ Nương đã chạy chữa khắp nơi nhưng bà vẫn không qua khỏi. Mẹ chồng mất, Vũ Nương buồn lắm vì gia cảnh vốn đã neo người giờ lại càng cô quạnh, mỗi tối chỉ mình cô và đứa con trai nhỏ một mình vò võ trong đêm, để vơi đi nỗi nhớ chồng Vũ Nương đã chỉ lên chiếc bóng của mình trên tường và nói với con trai nhỏ rằng "Ba con đó". Thằng bé tưởng thật nên nó vui lắm, ríu rít vui đùa bên chiếc bóng và nhầm tưởng đó chính là cha mình thật. Rồi chiến tranh kết thúc ngày mà Trương Sinh trở về cũng tới, Vũ Nương mừng lắm cô hân hoan trong niềm vui tương phùng. Nhưng Trương Sinh vừa về tới nhà nghe tin mẹ mất anh vô cùng đau xót vội vã cõng con trai nhỏ trên lưng ra thăm mộ mẹ. Nhưng thằng bé không chịu theo đi dọc đường nó cứ khóc suốt rồi nhất định không chịu nhận Trương Sinh làm cha. Nó bảo "Ông không phải là cha tôi. Cha tôi đêm nào cũng tới"
Người xưa có câu "Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ" vì người già và trẻ con không bao giờ biết nói dối. Chính vì vậy, những lời nói của thằng bé làm cho Trương Sinh vô cùng đau đớn, vốn tính hay ghen giờ lại nghe con trai nó vậy. Nên Trương Sinh tin rằng vợ mình có tình ý với người đàn ông khác trong lúc anh đi lính, Vũ Nương không đã không giữ được đức hạnh của một người vợ.
Viếng mộ mẹ xong, Trương Sinh trở về nhà và đuổi đánh Vũ Nương ra khỏi nhà, mặc cho cô giải thích thanh minh thế nào Trương Sinh cũng không nghe. Quá đau đớn trước nỗi oan tình trời không thấu của mình Vũ Nương đã gieo mình xuống dòng sông Hoàng Giang để chứng minh mình trong sạch, chỉ có cái chết mới là giải thoát cho cô lúc này. Sau này, trong một lần không ngủ chong đèn suốt đêm với chiếc bóng của mình trên tường Trương Sinh nghe được con trai nói "Ba tôi đó, Ba tôi về đó" thì anh mới biết rằng mình đã nghi oan cho vợ. Chỉ vì tin lời trẻ nhỏ vô căn cứ mà Trương Sinh đuổi đánh vợ ra khỏi nhà khiến nàng uất ức mà chết oan. Nhưng mọi sự hối hận cũng đã quá muộn màng.
Chuyện người con gái Nam Xương đã nêu lên được hiện thực xã hội của nước ta thời xưa một cách sâu sắc chân thực nhất. Ở đầu câu chuyện ta thấy người xưa dùng tiền và mai mối để cưới Vũ Nương về, chứng tỏ Vũ Nương không hề có quyền quyết định hạnh phúc tương lai của mình.
Họ lấy nhau không hề có tình yêu, mà do cha mẹ hai bên sắp đặt. Người con gái chỉ như một món hàng, trong trường hợp của Vũ Nương có được xin cưới với 100 lạng vàng. Đó chính là giá trị của con người cô tương ứng với 100 lạng vàng mà thôi.
Khi người chồng đi xa Vũ Nương ở nhà làm lụm, chăm chỉ, chăm mẹ chồng chăm con, chờ chồng hiếu đạo thủy chung. Nhưng chỉ một vài lời nói vu vơ của con trẻ mà Trương Sinh có quyền đánh đuổi vợ ra khỏi nhà không cho cô giải thích. Thể hiện sự độc tài, vũ phu, gia trưởng của người con trai thời xưa, không cho người vợ của mình có quyền minh oan lên tiếng, khiến cô phải tìm tới cái chết để rửa oan cho mình. Đồng thời, thông qua câu chuyện này người xưa cũng muốn tố cáo tội ác của chiến tranh, chỉ vì giấc mộng bá chủ thiên hạ mà nhiều nước đã lâm vào tình trạng binh đao. Người dân khốn khổ bởi sinh ly tử biệt, cha xa con, vợ xa chồng dẫn tới những hiểu lầm đáng tiếc trong cuộc sống. Chính vì vậy, chiến tranh cũng là một phần nguyên nhân dẫn tới nỗi oan khuất của Vũ Nương, nếu không có chiến tranh chồng cô không phải đi lính, mẹ chồng cô không vì nhớ con trai mà qua đời thì cô đâu phải nhớ chồng tới mức coi bóng mình là chồng, để đưa con trai nhỏ không nhận cha của nó, mà chỉ nhận chiếc bóng làm cha. Sự hiểu lầm của Trương Sinh dành cho Vũ Nương có một phần trách nhiệm thuộc về chiến tranh về hoàn cảnh giặc dã lúc đó.
Qua câu chuyện người đọc cảm thấy thương cảm cho số phận người phụ nữ khi họ phải phụ thuộc hạnh phúc, mạng sống của mình vào người đàn ông của mình, bởi người phụ nữ xưa phải chịu cảnh tam tòng, tứ đức " Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử", khi sống cùng cha mẹ thì nghe lời cha mẹ, lấy chồng thì theo chồng, chồng chẳng may qua đời thì phải theo con. Người phụ nữ cả cuộc đời chẳng có lúc nào được sống cho mình, được tự mình quyết định hạnh phúc. Đó chính là những bất công, mà xã hội xưa đã khoác lên số phận người phụ nữ.
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 4
Nguyễn Dữ là nhà văn xuất sắc trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông học rộng tài cao, nhưng chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn vì bất lực trước thời đại suy yếu của phong kiến. Có thể nói “truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam, trong đó “người con gái Nam Xương” dựa trên tích truyện dân gian nhưng với tài năng sự sáng tạo tuyệt vời và lòng yêu con người tha thiết, Nguyễn Dữ đã làm bao bạn đọc phải rơi lệ xót thương cho cuộc đời và số phận của Vũ Nương - một người phụ nữ đức hạnh nhưng có số phận bất hạnh.
Mở đầu trang truyện, tác giả Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương là một người con gái: “thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp”. Mặc dù con nhà nghèo lấy chồng giàu lại có tính đa nghi ít học nhưng do hiền lành nết na lại thông minh, khéo cư xử nên nàng đã san bằng được khoảng cách “môn đăng hộ đối” - một quan điểm nặng nề của lễ giáo phong kiến và giữ được không khí trong gia đình yên ấm, hạnh phúc “chưa từng xảy ra thất hòa”. Có thể nói cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của một người vợ hiền, một người dâu thảo, người mẹ hết mực yêu con. Trước hết, Vũ Nương là người vợ hết lòng yêu thương và thủy chung son sắc với chồng. Sống dưới thời loạn lạc vì không có học nên tên Trương Sinh phải ghi vào sổ lính loại đầu. Trong buổi tiễn đưa chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng bằng lời lẽ dịu dàng, tha thiết “chàng đi chuyến này thiếp chả dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Đọc đến đây, người đọc xúc động trước khao khát, ước mơ bình dị của Vũ Nương. Đằng sau niềm khao khát ước mơ ấy là cả một tấm lòng yêu thương chân thành, đằm thắm vượt ra ngoài cám dỗ vật chất tầm thường “vinh hoa phú quý”. Yêu thương chồng, nàng mong mỏi ngày chàng bình yên trở về bởi hơn hết trong lòng nàng cái khát khao lớn nhất là được hưởng thú vui “nghi gia nghi thất” vợ chồng sum họp, con cái đầy đàn, nàng được làm trọn và hưởng hạnh phúc làm mẹ, làm vợ, Khi Trương Sinh ở ngoài mặt trận, tình cảm của nàng luôn hướng về Trương Sinh. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” là hình ảnh thiên nhiên hữu tình gợi sự trôi chảy của thời gian đã khiến cho “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã diễn tả thật tinh tế chân thực nỗi niềm nhớ nhung, mong mỏi kín đáo, âm thầm mà da diết của Vũ Nương. Vào mỗi buổi tối, nàng thường trở bóng mình trên vách để bảo là cha Đản, việc làm ấy của nàng đâu chỉ là đơn thuần chỉ để chơi đùa nói với con mà còn là lời nói với mình lòng mình để tự an ủi mình, nàng tưởng tượng ra trong căn nhà nhỏ bé của hai mẹ con lúc nào cũng có hình bóng của Trương Sinh, ý nghĩ ấy là làm vơi đi nỗi cô đơn trống trải trong lòng nàng. Suốt ba năm Trương Sinh đi vắng, nàng đã giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng ngõ liễu tường hoa chưa hề bén góc vẫn một lòng một dạ với chồng Trương Sinh.
Không chỉ vậy, Vũ Nương còn là một người con dâu hiếu thảo. Trong lúc chồng đi vắng, nàng gánh vác mọi công việc, vượt cạn một mình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, nuôi dạy con thơ mà không một lời kêu than phàn nàn. Khi mẹ chồng ốm, nàng hết lòng thương xót lo ma chay chu đáo như mẹ đẻ của mình. Lời của mẹ chồng trước lúc lâm chung “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tố con cháu đông đàn xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ” đã minh chứng cho tấm lòng yêu thương chân thành của người con có hiếu. Nàng là người mẹ hết lòng yêu thương, chăm sóc dạy dỗ con, vào mỗi buổi tối nàng thường chỉ cái bóng trên vách và bảo là cha Đản không chỉ để nô đùa cùng con mà còn mong con luôn nhớ tới hình bóng của người ba, nàng còn là người phụ nữ trọng nhân phẩm. Khi bị vu oan, Vũ Nương đã hết lời tha thiết, thanh minh thề non nguyện biển nhưng không được, nhân phẩm trong trắng bị xúc phạm nặng nề bởi nỗi nhơ thất tiết, nàng đã phải chọn cái chết để minh chứng cho tấm lòng trong sáng, thủy chung của mình. Mặc dù khát khao được sống được hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng nàng cũng quyết đổi mạng sống của mình để bảo vệ nhân phẩm - cái mà nàng quý hơn tất cả, yếu tố kỳ ảo được dùng đã làm hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương, ta hiểu thêm nàng là người nhân hậu, bao dung, ở dưới thủy cung được sống đầy đủ sung sướng quan hệ giữa người với người tốt đẹp nhưng lúc nào nàng cũng đau đáu nhớ về gia đình, chồng con, Câu nói của nàng với Phan Lang khiến người đọc rưng rưng nước mắt “… ngựa hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam, tôi tất phải tìm về có ngày”. Lẽ ra nàng có quyền căm thù nơi trần thế đã đẩy nàng vào cái chết oan khuất nhưng trái tim nàng không một chút oán hờn, vẫn nhân hậu vị tha, bao dung. Qua đây, người đọc cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ nữ có phẩm chất đức hạnh.
Nhưng hỡi ơi! Thương thay cho số phận oan nghiệt của Vũ Nương, một người phụ nữ cả đời hy sinh để mong muốn được hạnh phúc như Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất, không được hưởng những gì mình đã hi sinh. Nàng phải gặp tình duyên ngang trái khi nàng vẫn còn xuân. Nguyễn Dữ đã cảm thương cho Vũ Nương, người phụ nữ nhan sắc đức hạnh lại phải lấy Trương Sinh - một kẻ vô học, hồ đồ, vũ phu. Thương tâm hơn khi người chồng đó còn có tính đa nghi đối với vợ lúc nào cũng “phòng ngừa quá sức”, lấy chồng chưa được bao lâu, nàng đã phải tiễn biệt chồng lên đường đánh giặc. Trương sinh đi lính để lại gánh nặng cho người vợ trẻ, Vũ Nương thay chồng nuôi mẹ và con. Sau khi mẹ chồng mất, chỉ còn hai mẹ con Vũ Nương trong căn nhà trống vắng cô đơn. Đọc đến đây, người đọc không khỏi chạnh lòng xót thương cho cho cảnh người vợ trẻ chỉ biết san sẻ buồn vui với đứa con thơ dại. Việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về nhưng Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp chỉ vì chuyện “chiếc bóng” qua miệng đứa con thơ mới tập nói mà Trương Sinh đã “đinh ninh” là vợ hư liền mắng nhiếc, đuổi Vũ Nương đi. Trương Sinh bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ van xin đến rướm máu, lời biện bạch của họ hàng, làng xóm. Nàng đã bị chồng đẩy vào bi kịch bị ghép ngay vào tội không chung thủy, một trong những tội bị người đời phỉ nhổ, nguyền rủa nhất của người phụ nữ phong kiến thời xưa. Nhân phẩm mà nàng coi trọng nhất, quý giá nhất và ra sức giữ gìn thì nay lại bị xúc phạm nặng nề, có thể khẳng định nỗi đau mà nàng phải gánh chịu là quá lớn, nàng đã bị đẩy vào bước đường cùng vào vực thẳm của cuộc đời, nàng phải chọn cái chết trong khi nàng vẫn khao khát được hưởng hạnh phúc gia đình.
Tại sao Vũ Nương lại phải chết một cách oan khuất như vậy? phải chăng là lời nói ngây ngô, vô tình của con trẻ “Ô hay thế ra ông cũng là cha tôi ư? ông lại biết nói chứ không như cha tôi, trước khi chỉ nín thin thít… đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi” đã làm thổi bùng lên ngọn lửa sẵn có trong lòng Trương Sinh, không đâu khác, chính là do chồng nàng – Trương Sinh, một kẻ hồ đồ phũ vu lại ghen tuông, độc đoán, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà đã đinh ninh là vợ hư, bỏ mặc ngoài tai những lời thanh minh biện bạch của vợ, lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, để rồi đẩy Vũ Nương vào cái chết oan nghiệt. Đằng sau trang văn, truyện còn nói lên do lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ” và sự bất bình đẳng của kẻ giàu và người nghèo. Đồng thời, còn do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã gây lên cảnh sinh ly, Trương Sinh phải đi lính, Vũ Nương phải chịu nỗi oan, để rồi Vũ Nương phải tìm đến cái chết thê thảm, oan khuất. Tất cả những nguyên nhân trên đã đẩy Vũ Nương đến bước đường cùng phải chọn cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình, cái chết của Vũ Nương chính là tấm bi kịch đau thương, cái chết oan khuất tức tưởi của nàng là một lời tố cáo đanh thép xã hội phong kiến bất công, vô lý, đã cướp đi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người.
Như vậy, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã vượt lên tư cách một bản lề của truyện cổ tích, “Vợ chồng Trương” bởi sự tái tạo đầy tính nghệ thuật của Nguyễn Dữ, tác giả đã xây dựng được tình huống truyện bất ngờ, tạo nên kịch tính cho câu chuyện với lời nói ngây thơ của bé Đản dẫn đến sự hiểu lầm của Trương Sinh, thành công của truyện hơn tất cả là tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường góp phần tăng thêm tính hiện thực và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm, hoàn thiện hơn vẻ đẹp của Vũ Nương - một người phụ nữ điển hình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Đó là một phụ nữ hoàn hảo nhưng lại có số phận éo le, bi đát. Cũng giống như Vũ Nương trong xã hội phong kiến xưa còn có biết bao thân phận của người phụ nữ phải sống trong cảnh đời như vậy như hình ảnh của người phụ nữ trong bài thơ “bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Hay trong “truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Tóm lại, “chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một áng văn hay - tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Truyện vừa thể hiện số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến vừa có ý nghĩa cơ ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha - tiêu biển là hình ảnh Vũ Nương, qua câu chuyện người đọc càng cảm thấy giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Họ đang phấn đấu vươn lên làm chủ cuộc đời, chủ số phận và họ - những người phụ nữ hiện đại phải được sống bình đẳng, được mọi người tôn trọng như nam giới.
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 5
Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ 16. Vốn là học trò giỏi của Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu chuyện thần kỳ. "Truyền kì mạn lục" chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.
"Chuyện người con gái Nam Xương" trích trong "Truyền kì mạn lục" ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.
.Vũ Nương là một người đàn bà nhan sắc và đức hạnh "có tư dung tốt đẹp" tính tình "thuỳ mị nết na". Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp gia thất. Thời buổi chiến tranh loạn lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương ở nhà lo bề gia thất. Phụng dưỡng mẹ già nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu qua đời, một mình nàng lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người đàn bà có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng ngợi ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng "đeo ấn phong hầu", chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về "được hai chữ bình yên".
Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa. Cuộc đời của Vũ Nương là những trang buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện "cãi bóng" từ miệng đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, "đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có ý gỡ ra được". Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói. Trương Sinh đã " mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi". Vợ phân trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính vì chồng và con - những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm. Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng...Vũ Nương chỉ có một con đường để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời "ngọc Mị Nương ", toả hương "cỏ Ngu Mĩ".
Vũ Nương tuy không phải "làm mồi cho tôm cá", được các nàng tiên trong thủy cung của Linh Phi cứu thoát. Thế nhưng, hạnh phúc của nàng ở trần thế bị tan vỡ "trâm gãy bình rơi". Nàng tuy được hầu hạ Linh Phi, nhưng quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn nữa. Đó là nỗi đau đớn nhất của một người phụ nữ. Gần ngàn năm đã trôi qua, miếu vợ chàng Trương vẫn còn đó, đêm ngày "nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương" (Lê Thánh Tông), nhưng lời nguyền về cái chết của Vũ Nương vẫn còn để lại nhiều ám ảnh, nỗi xót thương trong lòng người. Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo. Cái chết đau thương của Vũ Nương còn có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả cô đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà "Chuyện người con gái Nam Xương" có giá trị nhân bản sâu sắc.
Phần hai của truyện đầy ắp những tình tiết hoang đường: Phan Lang nằm mộng rồi có người đem biếu con rùa xanh; Phan Lang chạy giặc, bị chết đuối, được Linh Phi cứu sống đặng trả ơn; Phan Lang gặp người làng là Vũ Nương trong bữa tiệc nơi cung Thuỷ cung; Vũ Nương gửi đôi hoa vàng về cho chồng. Trương Sinh lập đàn tràng trên bến Hoàng Giang, đợi gặp vợ, nhưng chỉ thấy bóng Vũ Nương với năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, vv...
Chi tiết Trương Sinh gọi vợ, rồi chỉ nghe tiếng nói ở giữa sông vọng vào: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa" đó là một chi tiết, một câu nói vô cùng xót xa, đau đớn. Hạnh phúc bị tan vỡ khó mà hàn gắn được vì hai cõi âm - dương là một khoảng trống vắng mênh mông, mù mịt. Trương Sinh ân hận vì mình nông nổi, vũ phu mà vợ chết oan, bé Đản mãi mãi mồ côi mẹ... Qua đó, ta thấy đằng sau cái vỏ hoang đường, câu chuyện về cái chết của Vũ Nương thấm đẫm tình cảm nhân dạo.
Nguyễn Dữ là một trong những cây bút mở đầu nền văn xuôi dân tộc viết bằng chữ Hán. Ông đã đi tiếp con đường của thầy mình: treo ấn từ quan, lui về quê nhà "đóng cửa, viết sách". Ông là nhà văn giàu tình thương yêu con người, trân trọng nền văn hoá dân tộc.
"Truyền kì mạn lục" là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là "thiên cổ kỳ bút". Người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. "Chuyện người con gái Nam Xương " tố cáo hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam trong thế kỷ 16, nêu bật thân phận và nỗi đau bất hạnh của người phụ nữ trong bi kịch gia đình.
Gần 500 năm sau, "Chuyện người con gái Nam Xương" mà nỗi xót thương đối với số phận bi thảm người vợ, người mẹ như được nhân lên nhiều lần khi ta đọc bài thơ "Miếu vợ chàng Trương" của vua Lê Thánh Tông:
"Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như mếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng."
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 6
Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong Truyền kì mạn lục, một tác phẩm văn xuôi bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI. Truyện được Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam, cốt truyện và nhân vật gắn liền với một không gian cụ thể, một chứng tích cụ thể để phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội đương thời, đó là thân phận con người nói chung, người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến.
Truyện kể về cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương, người con gái huyện Nam Xương nết na, thuỳ mị. Chồng nàng là Trương Sinh con nhà giàu có, nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Khi chồng đi lính, nàng sinh con trai và hết lòng dạy con, chăm sóc mẹ chồng. Khi giặc tan, Trương Sinh trở về thì mẹ đã qua đời, con trai đang học nói. Đứa con nhất Định không chịu nhận chàng là bố vì bố nó "đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi". Nghe con nói, chàng ngờ vợ thất tiết, đánh đuổi nàng đi. Uất ức quá, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Được các nàng tiên cứu, nàng sống thuỷ chung cùng vợ vua Nam Hải. Một lần gặp người làng là Phan Lang cũng được tiên cứu, nàng nhờ Phan Lang về nói với chồng lập đàn giải oan cho nàng. Trong lễ giải oan nàng hiện về và ngỏ lời từ biệt chàng vĩnh viễn.
Câu chuyện chỉ là một vụ ghen tuông bình thường trong một gia đình cũng bình thường như trăm nghìn gia đình khác, nhưng có ý nghĩa tố cáo xã hội vô cùng sâu sắc. Một người phụ nữ nết na lấy phải một anh chồng hay ghen lại độc đoán. Và chỉ vì một chuyện bông đùa với con khi xa chồng, vì chồng nàng quá tin lời con trẻ, nghĩ oan cho nàng, tàn nhẫn đối với nàng khiên nàng phải tìm cái chết trên bến Hoàng Giang. Nỗi oan tày đình của nàng đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy oan trái, bất công, quyền sống con người không được đảm bảo, người phụ nữ với số phận bèo dạt, mây trôi, có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu mình vào bất cứ lúc nào vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng được. Rõ ràng xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền độc đoán, đã là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ của người phụ nữ. Vì vậy, khi sống ở thuỷ cung, nàng đã có lúc định trở về quê cũ. Nhưng tại lễ giải oan, mặc dù nặng lòng với quê hương, lỗi lầm xưa của chồng, nàng cũng đã tha thứ, nhưng nàng vẫn dứt áo ra đi, đánh phải sống ở cõi chết: "Đa tạ tình chàng, thiếp chàng thể trở về nhân gian được nữa".
Chi tiết mang tính chất truyền kì này đã nói lên thái độ phủ định của Vũ Nương, của người phụ nữ đương thời đối với "nhân gian", đối với xã hội phong kiến thối nát vì ở đó họ không tìm thấy niềm vui, không tìm thấy hạnh phúc.
Bên cạnh giá trị tố cáo xã hội phong kiến suy tàn, Chuyện người con gái Nam Xương còn đề cao phẩm chất giá trị của người phụ nữ. Khi còn sống, Vũ Nương là người vợ đảm dâu hiếu. Lúc sống bên chồng, nàng "giữ gìn khuôn phép", không lúc nào để vợ chồng thất hoà. Lúc chồng đi lính, một mình nàng quán xuyến mọi việc, nuôi con, phụng dưỡng mẹ chồng đau ốm và khi mẹ chồng mất, nàng lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.
Còn đối với chồng, nàng một dạ thuỷ chung. Sa khi chết, được sống ở thuỷ cung nguy nga, lộng lẫy, khi Phan Lang gợi đến quê hương, nàng xúc động "ứa nước mắt khóc". Nàng giãi bày tâm sự :"Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây mãi để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày". Đọc đến đây, không ai không xúc động được trước tấm lòng nặng nghĩa nặng tình với quê hương bản quán của nàng. Tuy vừa được cứu sống, tuy được sống trong nhung lụa, bên cạnh có những nàng tiên tốt bụng và là ân nhân của mình, nhưng lòng nàng lúc nào cũng nhớ đến quê cha đất cũ và tâm niệm sẽ có ngày tìm về. Vũ Nương dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ lúc sống ở trần thế với cuộc sống đời thường cũng như khi làm tiên ở thuỷ cung lộng lẫy đều là một người phụ nữ đẹp, đẹp cả về hình dáng, cả về phẩm giá, về tâm hồn. Người phụ nữ đó lẽ ra phải sống cuộc đời hạnh phúc. Nhưng tiếc thay xã hội phong kiến đã chà đạp lên cuộc đời nàng.
Như phần trên đã nói, viết Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã lấy cốt truyện trong dân gian. Nhưng rõ ràng với tấm lòng yêu thương con người sâu nặng, bằng bút pháp kể chuyện giá dặn, với tình tiết lúc thì chân thật đời thường, lúc thì kì ảo hoang đường, ông đã xây dựng được hình tượng nhân vật vô cùng sống động, mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó tác phẩm của ông đã giáo dục chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống và hạnh phúc con người.
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 7
Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ 16. Vốn là học trò giỏi của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngoài thơ, ông còn để lại tập văn xuôi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi câu chuyện thần kỳ. “Truyền kì mạn lục" chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.
"Chuyện người con gái Nam Xương" trích trong "Truyền kì mạn lục” ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.
.Vũ Nương là một người đàn bà nhan sắc và đức hạnh “có tư dung tốt đẹp” tính tình “thuỳ mị nết na". Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về, sum họp gia thất. Thời buổi chiến tranh loạn lạc, chồng phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương ở nhà lo bề gia thất. Phụng dưỡng mẹ già nuôi dạy con trẻ, đạo dâu con, nghĩa vợ chồng, tình mẹ con, nàng giữ trọn vẹn, chu tất. Khi mẹ chồng già yếu qua đời, một mình nàng lo việc tang ma, phận dâu con giữ tròn đạo hiếu. Có thể nói Vũ Nương là một người đàn bà có phẩm chất tốt đẹp, đáng được trân trọng ngợi ca. Ước mơ của nàng rất bình dị. Tiễn chồng ra trận, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu", chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về "được hai chữ bình yên”.
Cũng như số đông người phụ nữ ngày xưa. Cuộc đời của Vũ Nương là những trang buồn đầy nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói. Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện “cãi bóng" từ miệng đứa con thơ đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, "đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có ý gỡ ra được”. Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói. Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi". Vợ phân trần, không tin; hàng xóm khuyên can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính vì chồng và con - những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm. Thời chiến tranh loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng...Vũ Nương chỉ có một con đường để bảo toàn danh tiết: nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để làm sáng ngời “ngọc Mị Nương ", toả hương "cỏ Ngu Mĩ”.
Vũ Nương tuy không phải “làm mồi cho tôm cá”, được các nàng tiên trong thủy cung của Linh Phi cứu thoát. Thế nhưng, hạnh phúc của nàng ở trần thế bị tan vỡ “trâm gãy bình rơi". Nàng tuy được hầu hạ Linh Phi, nhưng quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn nữa. Đó là nỗi đau đớn nhất của một người phụ nữ. Gần ngàn năm đã trôi qua, miếu vợ chàng Trương vẫn còn đó, đêm ngày “nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương" (Lê Thánh Tông), nhưng lời nguyền về cái chết của Vũ Nương vẫn còn để lại nhiều ám ảnh, nỗi xót thương trong lòng người. Nguyễn Dữ đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo. Cái chết đau thương của Vũ Nương còn có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả cô đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà “Chuyện người con gái Nam Xương” có giá trị nhân bản sâu sắc.
Phần hai của truyện đầy ắp những tình tiết hoang đường: Phan Lang nằm mộng rồi có người đem biếu con rùa xanh; Phan Lang chạy giặc, bị chết đuối, được Linh Phi cứu sống đặng trả ơn; Phan Lang gặp người làng là Vũ Nương trong bữa tiệc nơi cung Thuỷ cung; Vũ Nương gửi đôi hoa vàng về cho chồng. Trương Sinh lập đàn tràng trên bến Hoàng Giang, đợi gặp vợ, nhưng chỉ thấy bóng Vũ Nương với năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, vv…
Chi tiết Trương Sinh gọi vợ, rồi chỉ nghe tiếng nói ở giữa sông vọng vào: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” đó là một chi tiết, một câu nói vô cùng xót xa, đau đớn. Hạnh phúc bị tan vỡ khó mà hàn gắn được vì hai cõi âm - dương là một khoảng trống vắng mênh mông, mù mịt. Trương Sinh ân hận vì mình nông nổi, vũ phu mà vợ chết oan, bé Đản mãi mãi mồ côi mẹ... Qua đó, ta thấy đằng sau cái vỏ hoang đường, câu chuyện về cái chết của Vũ Nương thấm đẫm tình cảm nhân dạo.
Nguyễn Dữ là một trong những cây bút mở đầu nền văn xuôi dân tộc viết bằng chữ Hán. Ông đã đi tiếp con đường của thầy mình: treo ấn từ quan, lui về quê nhà "đóng cửa, viết sách”. Ông là nhà văn giàu tình thương yêu con người, trân trọng nền văn hoá dân tộc.
“Truyền kì mạn lục” là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là “thiên cổ kỳ bút". Người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. “Chuyện người con gái Nam Xương ” tố cáo hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam trong thế kỷ 16, nêu bật thân phận và nỗi đau bất hạnh của người phụ nữ trong bi kịch gia đình.
Gần 500 năm sau, "Chuyện người con gái Nam Xương” mà nỗi xót thương đối với số phận bi thảm người vợ, người mẹ như được nhân lên nhiều lần khi ta đọc bài thơ “Miếu vợ chàng Trương” của vua Lê Thánh Tông:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như mếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng."
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 8
Nguyễn Dữ, một học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thành tài, đỗ đạt, ông ra làm quan. Một năm sau, vì chán cảnh triều đình thối nát, ông đã lấy cớ phải nuôi mẹ già mà xin từ quan. Trong những ngày sống “cảnh điền viên vui tuế nguyệt”, ông viết “Truyền kỳ mạn lục”, một tác phẩm văn xuôi đầu tiên của văn học cổ Việt Nam gồm những truyện có những chi tiết li kì. Phần lớn ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam phải sống trong khuôn mẫu “tam tòng, tứ đức” của đạo đức phong kiến, mà “Chuyện người con gái Nam Xương” là một.
Truyện kể lại Vũ Thị Thiết vâng lời cha mẹ làm vợ Trương Sinh, một người kém học, đất nước gặp cảnh đao binh nên Trương Sinh phải ra trận. Một tuần sau, Vũ Nương sinh con đầu lòng. Một mình chị chăm lo mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng chết, nuôi dạy con và lo công việc đồng áng. Giặc tan, Trương Sinh về, nghe lời con mà nghi ngờ lòng chung thuỷ của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành trẫm mình xuống sông. Nàng được hoàng hậu ở động Rùa giúp đỡ. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người hàng xóm đã cứu hoàng hậu ở động Rùa. Phan Lang về kể lại cho Trương Sinh nghe. Trương Sinh hối cải lập đàn cầu xin theo lời của nàng. Nàng hiện lên gặp chồng con nhưng lại quay về sống ở động Rùa vì hai người ở hai thế giới khác biệt.
Cũng như truyện cổ, những kho truyện của Trung Hoa có ảnh hưởng nhiều đến nhà Nho đương thời (thế kỉ XVI). “Thiếu phụ Nam Xương” cũng có hai tuyến nhân vật, có những hoàn cảnh điển hình, có người giàu kẻ nghèo ở trong xã hội đang thời loạn lạc, nhiễu nhương. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh nào thì người tốt vẫn không hề thay đổi bản chất của mình, mà Vũ Thị Thiết là nhân vật tiêu biểu. Vũ Nương nhà nghèo nhưng “tư dung tốt đẹp”, “thuỳ mị, nết na”. Thời phong kiến, con gái “tại gia tòng phụ” để có “công, dung, ngôn, hạnh’’, Vũ Nương được như thế chứng tỏ nàng có sắc đẹp (dung) trời cho nhưng “thuỳ mị, nết na” thì ắt là do sự giáo dục của gia đình.
Nàng nghèo nhưng không mất nề nếp gia phong. Trái lại “Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng không có học”. Một loạt các nhân vật tốt xuất thân từ những hoàn cảnh sống khác nhau như mẹ chồng, người láng giềng Phan Lang, hoàng hậu động Rùa Linh Phi ... đủ chứng tỏ giàu nghèo tuy có ảnh hưởng đến hình thức sống nhưng khó thay đổi được bản chất của họ.
“Nam Xương tử nữ truyện” không chỉ giới thiệu những nhân vật tốt, xấu ấy mà còn thông qua họ Nguyễn Dữ muốn đề cao sự chung thuỷ và lòng bao dung luôn được nhân vật này thể hiện trong từng lời nói đến từng sự việc. Vâng lời cha mẹ chịu lấy Trương Sinh làm chồng, nàng đã trước sau như một làm người con hiếu thảo. Không chỉ hiếu thảo với cha mẹ ruột. Vũ Nương còn hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng một mình đã lo toan đỡ đần mẹ chồng lúc ốm đau, rồi mẹ chồng chết lại lo chôn cất. Người phụ nữ có con mọn như nàng mà vẫn chu toàn những công việc nặng nhọc ấy thay chồng mà không tiếng kêu than thì quả thật là hiếm có. Mẹ chết, một mình ở vậy nuôi con chờ ngày chồng trở về thì bảo nàng không chung thuỷ sao cho được?! Chồng với vợ như bóng với hình, nàng đã mượn chiếc bóng của mình để an ủi con, muốn đứa con nhỏ dại luôn nghĩ rằng mình cũng là đứa trẻ có cha. Khi bị Trương Sinh nghi ngờ, nàng đã bao lần hỏi rõ dù bị dằn vặt, chửi mắng, đánh đập. Nàng đã từng tâm sự với chồng: “Thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu ... Đâu có hư thân như lời chàng nói. Khi nhận thấy không thể nào xóa tan được mối nghi ngờ nhục nhã, hạ thấp phẩm giá một cách oan khuất, nàng đã quyết định tự trẫm mình, mượn dòng nước trong để rửa sạch những oan khiên. Xét cho cùng, kiên quyết bảo toàn danh dự của con người cũng là lòng chung thuỷ sắt son! Lại nữa khi gặp được Phan Lang, người hàng xóm tốt bụng ở động Rùa, Vũ Nương vẫn không quên chồng khi nàng tâm sự cùng Phan Lang và nhờ Phan Lang về nói lại với Trương Sinh yêu cầu của nàng, điều đó vừa thể hiện sự chung thuỷ, vừa tỏ ra bao dung đối với Trương Sinh.
Cả đến Phan Lang, hoàng hậu Linh Phi cũng đều là những người có lòng bao dung, chung thuỷ. Chỉ riêng có Trương Sinh là có lòng ích kỷ, hẹp hòi, tối dạ vì thuở nhỏ không lo chuyện sách đèn. Chỉ cần nghĩ đến công lao của vợ lúc chàng đang ở ngoài mặt trận, chỉ cần sống gần gũi với láng giềng, chỉ cần có lòng tin vào lòng chung thuỷ của vợ thì nghi vấn xuất phát từ lời nói của con nít “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng…” đã được giãi bày để rồi vợ chồng lại sống trong cảnh đầm ấm, thương yêu.
Một nội dung khác thật rõ ràng trong chuyện là ân oán phân minh. Vũ Nương là người phụ nữ, có lẽ mang đặc tính ấy trong cuộc sống. Vì lẽ đó, khi nàng không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi chồng biểu lộ ấy thì nàng tự biểu lộ. Cái chết của nàng hàm chứa ý nghĩa ấy, làm cho Trương Sinh phải nhận ra ân tình nàng đã mang đến cho chàng và nỗi oan khiên mà nàng phải chịu. Trường hợp giữa hoàng hậu Linh Phi và Phan Lang cũng vậy. Hoàng hậu đã được Phan Lang cứu nên khi Phan Lang gặp nạn khi lên thuyền ra biển tránh sự truy đuổi của quân giặc thì đã được Linh Phi hết lòng cứu chữa, lại thếp tiệc đãi, tặng thêm ngọc ngà ... trước khi tiễn chân chàng trở về làng quê.
Như thế, ngay truyện ngắn thuộc văn viết, dù là chữ Hán trong buổi sơ khai cũng đang mang hoàn cảnh điển hình, con người điển hình của đời thường vào tác phẩm; cũng có đầy đủ người giàu, kẻ nghèo, hỉ - nộ - ái - ố với kết thúc có hậu ở nội dung là ở hiền gặp lành.
Truyện có rất nhiều chi tiết nhưng được liên kết bởi quan hệ nhân quả nên có kết cấu khá chặt chẽ. Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ đã khéo léo giới thiệu Vũ Thị Thiết và Trương Sinh, hai nhân vật chính có hoàn cảnh, tính cách trái ngược nhau để làm cơ sở cho việc khai thác nhân vật sau này. Tính tình, hoàn cảnh sống trái ngược nhau nhưng lại nên vợ nên chồng chỉ vì vâng lời cha mẹ. Quan hệ nhân quả thể hiện từ đầu. Từ đó, quan hệ nhân quả của hai nhân vật diễn ra một cách tự nhiên, hợp lý. Vì nước có loạn binh đao nên chàng mới ra trận. Vì chàng vào nơi gió cát nên nàng phải nặng gánh giang san nhà chồng. Vì con thơ nói đến cha nên mẹ đã mượn cái bóng của mình thay thế; cho con đỡ hổ thẹn với bạn bè. Vì nghe lời con trẻ nên Trương Sinh mới nghi ngờ vợ ... Chuỗi nguyên nhân và kết quả đầy kịch tính ấy đã dần đến đỉnh điểm là Vũ Nương quyết định trầm mình. Nếu chuyện kết thúc ở đây thì quả là bi đát, không có hậu. Có lẽ vì thế mà những chi tiết thần kỳ được thêm vào. Ấy là Phan Lang nằm mơ thấy con rùa xanh kêu cứu. Rồi Phan Lang nhớ lại và thả rùa để rồi sau đó là được rùa cứu mạng trả ân và gặp Vũ Nương ở động Rùa. Những chi tiết thần kỳ ấy ở vào thời buổi mà vua quan, thần dân đều tin vào sự hiện hữu của Trời, Thần, Quỷ, Ma... giống như trong những truyện cổ thì cũng là điều không mấy ngạc nhiên. Có những chi tiết đó, Vũ Nương mới gặp được chồng để giải mối oan khiên, nhục nhã nhất của đời làm vợ. Và dù ra đời sau “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn ba thế kỷ, “Nam Xương tử nữ truyện” vẫn còn những câu văn biền ngẫu cổ xưa.
Dù có những hạn chế ấy nhưng truyện Người con gái Nam Xương không những có giá trị đạo lý, lịch sử (phản ánh sự rối ren của xã hội phong kiến) mà cũng có giá trị nghệ thuật xây dựng truyện.
Cho tới nay, “Người con gái Nam Xương” vẫn còn lôi cuốn người đọc. Giữa xã hội nam nữ bình quyền thì nó là cột mốc để so sánh vai trò của người phụ nữ trong văn học xưa và nay. Giữa xã hội suy đồi về đạo đức, nhất là với nữ giới thì nội dung truyện là một bài học đạo đức truyền thống tốt.
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 9
“Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm “Truyền kì mạn lục” (ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền), được viết ở thế kỉ XVI. Tác phẩm này có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”. Nhưng điều làm nên sự khác biệt cho tác phẩm chính là tư tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm trong câu chuyện.
Vũ Nương vốn là một người phụ nữ “người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Những tưởng con người ấy sẽ có được cuộc sống hạnh phúc nhưng nàng lại gặp phải nhiều bất hạnh. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những vẻ đẹp dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với những bất hạnh mà cuộc đời họ phải hứng chịu.
Người phụ nữ Việt Nam muôn đời nay được ngợi ca bởi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và tâm hồn đôn hậu bao dung. Người phụ nữ hiện lên trong “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Đó là nàng Vũ Nương đẹp nết đẹp người và đầy tự trọng.
Nàng có một “tư dung tốt đẹp” nức tiếng xa gần. Chẳng vậy mà Trương Sinh - một người “con nhà hào phú” phải xin mẹ trăm lạng vàng rước nàng về làm vợ. Chẳng những vậy, nàng còn là người phụ nữ hiền hậu nết na, người vợ hiền, dâu thảo, người mẹ thương con.
Trong mối quan hệ vợ chồng hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Vũ Nương đã luôn “giữ gìn khuôn phép, không lần nào vợ chồng phải đến nỗi thất hoà”. Hai vợ chồng chia ly, Vũ Nương một lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. [...] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Như vậy là nàng không hề nghĩ đến vinh hoa phú quý, chỉ nghĩ đến chân thành với tình vợ chồng keo sơn. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”.
Trương Sinh trở về, nghi cho Vũ Nương một cái oan thảm khốc và dùng những lời lẽ tàn nhẫn mà nhiếc móc nàng. Nhưng ngay cả khi ấy, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng mất, nàng thương yêu, lo lắng chu toàn: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động để khi mất, những lời cuối cùng thiêng liêng của cuộc đời bà dành để chúc phúc cho con dâu. Xưa nay, trong dân gian vẫn lưu truyền câu nói “mẹ chồng con dâu” để chỉ mối quan hệ vốn không yên ấm giữa hai đối tượng này nhưng qua thái độ của người mẹ chồng đối với Vũ Nương người đọc thấu hiểu tấm lòng chân thành, sâu sắc đối với mẹ chồng của nàng.
Với con, Vũ Nương đã hết sức nuôi dạy, bảo ban, thương yêu và chiều chuộng con (để đến nỗi một trong những hành động vô tư của nàng đã trở thành nguyên nhân buộc nàng tự vẫn...).
Không chỉ vậy, với tư cách là một cá nhân trong xã hội, ở Vũ Nương còn nổi bật lên lòng tự trọng đầy cảm động. Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, dẫu vẫn còn khao khát hạnh phúc trần gian nhưng Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh phẩm tiết trong sạch của mình. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ đáng trân trọng này.
Ngợi ca vẻ đẹp của “người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói chung vào cảm hứng ngợi ca người phụ nữ đầy nhân văn của văn học trung đại. Bên cạnh Vũ Nương của Nguyễn Dữ ta còn có thể kể đến chị em Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du, người chinh phụ trong thơ của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm…
Nhưng trong xã hội phong kiến thời kỳ suy sụp, thối nát, cái đẹp thường đi liền với nỗi bất hạnh và những tai họa khôn lường: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Khi ấy, văn học lại cất lên tiếng nói đồng cảm với những thân phận bị “gió dập sóng vùi” chẳng biết “tấp vào đâu”. Nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ cũng phải hứng chịu nhiều bất hạnh.
Trước hết, nàng có một cuộc hôn nhân không được lựa chọn. Với vẻ đẹp vốn có, đáng ra nàng phải được kén một tấm chồng đức tài tương xứng. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời lại chỉ dành cho nàng một gã Trương Sinh. Đó là một kẻ vô học nhưng giàu có “con nhà hào phú” đã “xin mẹ trăm lạng vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn cho mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng do vàng bạc mở đường, đó như một cuộc trao đổi, mua bán đầy tính thương mại.
Về đến nhà chồng, Vũ Nương phải hết sức giữ gìn trước con người rất mực đa nghi của Trương Sinh: “Đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Nhưng hạnh phúc phải do cả hai bên vợ chồng cùng đắp vun gìn giữ. Sau mấy năm dài đằng đẵng mong ngóng chồng về, cái giá Vũ Nương nhận được thật quá chua xót.
Khi chồng đi lính, đêm đêm để con đỡ tủi và lòng mình đỡ nhớ, Vũ Nương chỉ bóng mình trên vách rồi bảo con đó là cha nó. Nhưng thiện ý của nàng đã bị hiểu lầm. Nghe con nói kể về người cha đêm đêm vẫn đến của nó, Trương Sinh với tính đa nghi sẵn có đã hiểu oan cho tấm lòng thủy chung của Vũ Nương. Chàng ta vội nghe lời con trẻ mà không suy xét đúng sai: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. Rồi hồ đồ, độc đoán không đếm xỉa đến những lời thanh minh của vợ, đối xử tệ bạc, vũ phu với Vũ Nương: “Chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”.
Trước nỗi oan không gì giãi bày được (vì Trương Sinh không nói rõ nguyên cớ việc nổi giận của mình), cuộc đời Vũ Nương bế tắc: Nếu sống thì phải mang cái tiếng phản chồng đầy ô nhục. Bởi vậy, dẫu vẫn còn khao khát vương vấn hạnh phúc trần gian, nàng đành chấp nhận cái chết, trầm mình xuống sông Hoàng Giang.
Thân phận nhỏ nhoi, bèo bọt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến là vậy, họ không được làm chủ cuộc sống của mình, luôn luôn là kẻ bị động, hứng chịu những oan khiên, cay đắng. Số phận bất hạnh của Vũ Nương gợi đến bao phong ba bão táp đã đi qua cuộc đời của những Đạm Tiên, Thúy Kiều, Tiểu Thanh, người cung nữ, người chinh phụ... trong văn học trung đại.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm của Nguyễn Dữ không tiến xa hơn câu chuyện dân gian là mấy. Nguyễn Dữ đã vô cùng trăn trở với số phận của người con gái đa đoan trong tác phẩm của mình. Tin tưởng và yêu mến nhân vật, nhà văn đã để nàng gửi mình chốn cung mây dưới nước của Linh Phi. Chốn ấy dẫu chẳng được sum vầy cùng con trẻ, người thân song vẫn là nơi biết trọng những tâm hồn trong đẹp. Vũ Nương trở về nhân gian trong ánh sáng lung linh kì ảo của ánh nến, mặt nước diệu kỳ.
Ngoài nhân vật Vũ Nương, ta cũng không thể quên một Trương Sinh hồ đồ đã đẩy người đầu gối tay ấp với mình đến chỗ chết. Trương Sinh là con nhà trọc phú, lại ít học cũng như đa nghi. Do ít học nên khi chiến tranh xảy ra tuy nhà giàu có nhưng Trương Sinh vẫn phải đi lính. Do đa nghi, hay ghen đã làm cho Trương Sinh mờ mắt, chỉ nghe lời từ đứa con ngây thơ không chịu nghe lời phân trần của vợ. Trương Sinh là người trực tiếp đẩy Vũ Nương vào bi kịch và phải tìm đến cái chết. Đến khi hiểu ra và hối hận thì đã quá muộn màng.
Bên cạnh nội dung, tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, chi tiết mang tính thắt nút, đẩy câu chuyện lên cao trào, đỉnh điểm: cái bóng trở thành chi tiết thắt nút cũng như cởi nút cho diễn biến tác phẩm. Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: việc dẫn dắt tình huống hợp lý. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn. Bước đầu nhà văn đã miêu tả nội tâm nhân vật khá phong phú.
Qua phân tích trên, có thể thấy “Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm giàu giá trị của nhà văn Nguyễn Dữ.
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 10
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện được trích từ tập “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ do ông sưu tầm và sáng tác lại dựa trên cốt truyện “Vợ chàng Trương”. Ông vốn là người tỉnh Hải Dương, là học trò của Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống ở đầu thế khỉ XVI. Ông học rộng, tài cao nhưng lại xin nghỉ để về nhà để viết sách. “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng là một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Dữ.
Qua truyện ngắn, truyện là những lời ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh nhân vật Vũ Nương. Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã dành hết lời ngợi ca nhân vật Vũ Nương - là một cô gái tài đức vẹn toàn, công dung ngôn hạnh đầy đủ, đã thế “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chỉ với vài từ ngắn gọn thế nhưng hình ảnh Vũ Nương đã hiện lên là một cô gái có nhan sắc xinh đẹp, lại còn có phẩm chất tốt đẹp cao quý, đó là vẻ đẹp vẹn toàn. Chính vì thế nên dẫu nghèo khó nhưng Vũ Nương vẫn được Trương Sinh con trai một nhà hào phú trong làng “xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”, điều này thể hiện Vũ Nương là người con gái xinh đẹp, để cho Trương Sinh phải trân trọng. Không chỉ đẹp người, nàng còn đẹp nết, là người vợ chung thuỷ, hết mực thương yêu chồng. Lúc mới kết duyên với Trương Sinh, Vũ Nương hết mực thương yêu và lo nghĩ cho chồng, biết chồng có tính hay ghen lại nghi kỵ thế nên trong cuộc sống vợ chồng nàng hết sức “giữ gìn khuôn phép, không lúc nào để vợ chồng phải thất hòa”. Rõ ràng phải là người vợ khéo léo, hết mực thương yêu, chăm sóc gia đình thì Vũ Nương mới có thể làm như vậy. Rồi khi Trương Sinh đi lính, hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho "mọi người đều ứa hai hàng lệ". Như những phu nhân khác chỉ mong chồng có công danh còn nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu chồng được hai chữ bình an, cũng bày tỏ nỗi mong nhớ, lo lắng, sự đồng cảm, chia sẻ của mình khi chồng đi vào nơi hiểm trở chẳng may có cớ sự. Lời nàng thiết tha, sâu sắc bộc lộ rõ tình cảm vợ dành cho người chồng đi chinh chiến xa xôi, khiến ai nấy đều cảm động khôn nguôi. Trương Sinh đi lính chưa đầy mười ngày thì Vũ Nương lại sinh con thế nhưng nàng vẫn một dạ một lòng chăm con khôn lớn, đợi cho đến ngày giặc tan. Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: "Thiếp vốn con kẻ khó ... mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp".Nàng nhẹ nhàng, khuyên nhủ, hết sức van lơn, phân trần cùng mọi lí lẽ để thuyết phục chồng. Dù họ hàng, làng xóm đều bênh vực nhưng bản tính Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương đành thống thiết, đành dùng cái chết để minh oan. Số phận oan trái, đắng cay của nàng còn được thể hiện trong chi tiết mang vẻ đẹp lung linh, kì ảo nơi khói sóng Trường Giang. Cái vẻ đẹp lung linh, lộng lẫy đến đâu cũng không thể khỏa lấp được sự thật là nàng ẩn mình ở chốn không có thực, rồi khói hương của đàn tràng giải oan dẫu có nghi ngút khói sương cũng không xoá nhoà được khoảng cách âm dương đôi ngả, vợ chồng chia lìa, mẹ con xa cách.
Truyện có sự đan xen của các yếu tố hoang đường kì ảo và những chi tiết có thật làm câu chuyện thêm hấp dẫn. Cách xây dựng truyện với tình tiết độc đáo, đẩy mâu thuẫn lên cao trào, rồi lại giải quyết cách hợp lí, các yếu tố tự sự, miêu tả biểu cảm kết hợp hài hoà.
Cảm nhận về Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 11
Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống trong thời gian nhà Lê bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh quyền, đoạt vị với nhau. Bởi vậy ông ra làm quan không lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm các truyện dân gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số hai mươi truyện của truyền kì mạn lục, nổi bật nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tác phẩm vừa giàu giá trị hiện thực vừa thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Tác phẩm xoay quanh số phận và cuộc đời nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái xinh đẹp: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, nàng mang vẻ đẹp toàn diện cả về hình thức và tâm hồn. Nàng là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chi tiết Trương Sinh “mến về dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” càng nhấn mạnh, tô đậm hơn nữa vẻ đẹp nhan sắc và phẩm hạnh của nàng.
Vũ Nương là người mang trong mình nhiều phẩm chất cao quý. Trước hết, nàng là một người vợ, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo, tận tụy với mẹ chồng. Khi chồng đi lính, thân là phụ nữ nhưng nàng đã một mình đứng ra gánh vác công việc gia đình. Mẹ chồng già yếu, nhớ con mà đổ bệnh nàng hết sức chăm sóc, “thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn” mong cho mẹ mau mau khỏi bệnh.
Trong xã hội phong kiến xưa, mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu thường chỉ mang tính chất ràng buộc, ông cha ta vẫn thường có câu: “Trời mưa ướt lá đài bi/ Con mẹ, mẹ xót, xót gì con đâu” hay “Thật thà cũng thể lái trâu/ Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”,…
Nhưng những lời bà mẹ trăng trối cuối cùng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành, sâu nặng của Vũ Nương với mẹ chồng. Những lời cảm tạ của bà mẹ đã cho thấy tấm lòng yêu thương hết mực của nàng với bà bởi vậy bà cũng coi Vũ Nương như con gái của mình vậy. Mấy ai trong xã hội đó lại được lòng mẹ chồng yêu mến đến như vậy. Khi bà mất, nàng lo tang ma chu đáo như cho cha mẹ đẻ của mình.
Qua những hành động đó ta thấy Vũ Nương là nàng dâu hết sức nết na, hiếu thảo, tiếng thơm của nàng còn để lại mãi muôn đời.Không chỉ vậy nàng còn là người vợ nết na, thủy chung, giàu lòng vị tha. Khi mới cưới, Vũ Nương hiểu rõ chồng mình có tinh đa nghi, hay ghen và hay phòng ngừa quá mức, bởi vậy nàng luôn giữ gìn khuôn phép, để hai vợ chồng không phải chịu cảnh bất hòa. Chính vậy, trong suốt những năm tháng chung sống bên nhau, trước khi Trương Sinh ra trận gia đình nàng luôn được sống trong cảnh đầm ấm, hạnh phúc.
Ngày Trương Sinh ra trận, tiễn chồng những lời dặn dò không phải công danh phú quý mà là “chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ba năm xa chồng, một mình sinh con, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nàng bỏ cả điểm trang, dành tất cả thời gian chăm sóc gia đình, làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ. Ngay cả khi Trương Sinh trở về nghi ngờ nàng thất tiết nàng cũng chỉ biết khóc và thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình.
Khi bị chồng nghi oan, mắng nhiếc, đánh đuổi đi, không cho cơ hội giãi bày, giải thích nàng chỉ đau khổ, cố gắng thanh minh mà không hề oán hận với người chồng hẹp hòi, ích kỉ. Được Linh Phi cứu, sống cuộc đời an nhàn, bất tử nhưng lòng nàng lúc nào cũng hướng về quê hương, về gia đình bé nhỏ của mình. Việc nàng gặp lại Phan Lang dưới thủy cung và gửi chiếc thoa về cho chồng cho thấy nàng đầy vị tha, sẵn sàng tha thứ cho chồng.
Khoảnh khắc ẩn hiện, mờ ảo trên bến sông Hoàng Giang, Vũ Nương không một lời oán hận, trách móc: “Đa tạ tình chàng. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Qua đây ta có thể thấy, Vũ Nương không chỉ là người phụ nữ đức hạnh, người con dâu tốt nết mà còn là một người phụ nữ bao dung, giàu lòng vị tha với người chồng đã đẩy đến bước đường cùng. Vũ Nương là hiện thân cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam thảo hiền, đức hạnh.
Mặc dù mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp để được hưởng cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng cuộc đời Vũ Nương lại đầy oan nghiệt, trái ngang. Bắt đầu ngay từ cuộc hôn nhân của nàng, không có sự đăng đối giữa hai gia đình, về phẩm chất giữa hai con người: nàng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất: công-dung-ngôn-hạnh, nhưng Trương Sinh lại là kẻ ít học, đa nghi, hay ghen.
Lấy chồng không bao lâu, Trương Sinh phải đi lính, nàng sống trong nỗi cô đơn, vất vả: gánh vác việc gia đình, nuôi dạy con thơ và chăm sóc mẹ già; nỗi nhớ chồng, lo lắng cho chồng nơi biên ải tha thiết đêm ngày. Đến khi chồng về lại phải gánh nỗi oan lạ, oan thất tiết mà không có cơ hội tìm hiểu nguyên do. Cuối cùng nàng đã phải lấy cái chết để chứng minh tấm lòng thủy chung, trong sạch của mình. Đây là phản ứng dữ dội và quyết liệt của Vũ Nương để bảo vệ nhân phẩm cũng như cho thấy nỗi bất hạnh tột cùng của nàng.
Dù sống bất tử dưới thủy cung nhưng nàng không hề hạnh phúc, bởi hạnh phúc thực sự của con người là ở trần thế, được chung sống, được hưởng không khí đầm ấm của gia đình. Nhưng điều ấy đối với nàng mãi mãi không thể làm được nữa. Thân ở thủy cung, lòng lại một mực hướng về dương gian, nơi có chồng, có con khiến cho nỗi bất hạnh của nàng càng được đậm tô hơn nữa. Vũ Nương là tiêu biểu cho phận bạc của biết bao phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, nặng nề lễ giáo phong kiến.
Ngoài nhân vật Vũ Nương, ta cũng không thể quên một Trương Sinh hồ đồ đã đẩy người đầu gối tay ấp với mình đến chỗ chết. Trương Sinh là con nhà trọc phú, ít học, tính tình cục cằn, hay ghen. Cũng bởi do ít học nên khi chiến tranh xảy ra anh ta là người đầu tiên trong danh sách đi lính. Cũng bởi tính đa nghi, hay ghen đã làm cho Trương Sinh mờ mắt, chỉ nghe lời từ đứa con ngây thơ không chịu nghe lời phân trần của vợ.
Chính Trương Sinh là người đã trực tiếp đẩy Vũ Nương phải tìm đến cái chết. Khi hiểu ra mọi chuyện thì đã quá muộn màng. Trương Sinh phải ôm nỗi ân hận, nỗi đau trong suốt phần đời còn lại. Trương Sinh chính là đại diện tiêu biểu cho những người đàn ông vũ phu, những lễ giáo phong kiến hà khắc đã đẩy người phụ nữ rơi vào bi kịch.
Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, chi tiết mang tính thắt nút, đẩy câu chuyện lên cao trào, đỉnh điểm: cái bóng là mấu chốt của câu chuyện, là chi tiết thắt nút cũng như cởi nút cho diễn biến tác phẩm. Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: dẫn dắt tình huống hợp lí. Kết hợp hài hòa giữa hiện thực và kì ảo. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn, nhân vật được miêu tả nội tâm khá phong phú. Những yếu tố đó góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Chuyện người con gái Nam Xương thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm là tiếng nói cảm thương cho số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời cũng lên án tố cáo xã hội nam quyền và chiến tranh phi nghĩa đã tước đoạt hạnh phúc và đẩy con người đến bước đường cùng.
Bài giảng: Chuyện người con gái Nam Xương - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay, ngắn nhất khác:
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài 500 bài văn hay lớp 9 được chọn lọc, tổng hợp từ những bài văn đạt điểm cao của học sinh lớp 9 trên cả nước nhằm mục đích giúp học sinh viết văn lớp 9 hay hơn.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều