5+ Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (điểm cao)
Tổng hợp các bài văn Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 1)
- Dàn ý Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 2)
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 3)
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 4)
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 5)
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 6)
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 7)
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 8)
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 9)
- Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (các mẫu khác)
5+ Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá (điểm cao)
Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 1
Huy Cận là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Trước Cách mạng thơ Huy Cận thường giàu chất triết lí và ngập tràn nỗi sầu nhân thế. Nhưng từ khi Cách mạng tháng Tám thành công thì thơ ông là bài ca dào dạt niềm vui về cuộc đời, là bài thơ mến yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.
Ra đời năm 1958, trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ra vùng mỏ Quảng Ninh, “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm mang cảm xúc như thế. Bài thơ miêu tả một chuyến đi khơi của đoàn thuyền đánh cá; là một khúc ca lao động tập thể, khúc ca về vẻ đẹp của thiên nhiên; là niềm vui, niềm ngưỡng mộ của tác giả trước con người và cuộc sống mới. Để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc là vẻ đẹp của biển cả, của đoàn thuyền và con người được thể hiện qua khổ thơ thứ 4.
Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”, “vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm.
Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ – những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.
Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật.
Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên. Bởi thế, bài thơ như một khúc tráng ca mà Huy Cận sáng tác để ca ngợi những con người lao động mới hay chính những con người lao động tự cất lên, tự viết lời cho khúc ca lao động của mình.
Khổ 4 trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã tái hiện thành công vẻ đẹp trù phú của biển cả quê hương và cuộc sống lao động đầy hăng say của nhân dân trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá còn là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào, lòng yêu nước của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên đất nước giàu đẹp.
Dàn ý Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá
I. Mở bài phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá:
- Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
- Giới thiệu về nội dung cần phân tích – khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá
II. Thân bài phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá:
a. Phân tích khổ thơ:
- Nhà thơ đã liệt kê những loài cá quý của biển: cá nhụ, cá chim, cá đé cho thấy sự phong phú và quý giá của biển
- Biển không chỉ giàu mà còn đẹp thơ mộng: màu sắc lấp lánh của muôn loài cá (lấp lánh, đen hồng, vàng chóe) tất cả tạo nên tổng thể bức tranh sơn mài tuyệt đẹp của tạo hóa
- Nhân hóa “Cái đuôi e quẫy” kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc: làm cho lời thơ thêm sinh động
- Phép so sánh “đuôi cá” với “ngọn đuốc”: hình ảnh so sánh thú vị giàu liên tưởng
- Nhà thơ gọi cá bằng một cách gọi rất dịu dàng-“em” ẩn chứa sự yêu mến với cá và biển cả quê hương
- “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”: Màn đêm trước biển như một sinh mệnh
- Đêm ở biển được miêu tả sống động, mang hơi thở của cuộc sống
- Thiên nhiên trên biển đêm thực sự rực rỡ sắc màu như một bức tranh sơn mài
- Như vậy tầm vóc của người và đoàn thuyền được nâng lên, hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên, vũ trụ.
b. Đặc sắc nghệ thuật:
- Âm điệu mê say, phóng khoáng ngợi ca cuộc sống
- Xây dựng hình ảnh thơ bằng sự liên tưởng phong phú
- Cảm hứng lãng mạn xen lẫn hiện thực.
III. Kết bài phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá:
- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật trong khổ thơ.
- Nêu cảm nhận của bản thân.
Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 2
Đoàn thuyền đánh cá được coi là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống mới. Tác giả Huy Cận sau chuyền đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ có nhiều đặc sắc về mặt nghệ thuật. Bài thơ có hình ảnh tráng lệ về thiên nhiên và con người lao động thể hiện sự hòa giữa thiên nhiên và con người. Trong đó phải kể đến khổ thơ thứ 4 đặc sắc trong tác phẩm.
Không chỉ tinh tế về cảm xúc thẩm mĩ mà còn phong phú về vốn sống, Huy Cận hiểu khá tường tận về công việc của những người đánh cá. Đoàn thuyền đã tìm thấy đúng bãi cá và lưới đã được buông xuống khổ thơ thứ 4:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Bằng nghệ thuật tưởng tượng lãng mạn, biển trời với bao nhiêu loài cá mang bao nhiêu màu sắc lung linh trở nên thật kì ảo dưới ánh trăng. Bằng biện pháp liệt kê và điệp từ “cá”, tác giả đã kể tên nhiều loài cá quý, thể hiện sự phong phú và đa dạng về chủng loại, bổ sung về chủng loại cá ở đoạn thơ tả đàn cá thu “dệt biển”.
Hình ảnh cá song là một nét vẽ tài hoa, vẩy cá đen, hồng lấp lánh trên biển nước lấp loáng ánh trăng như những ngọn đuốc giữa biển đêm thăm thẳm. Cái “quẫy đuôi” làm cho bức tranh thật sinh động cùng với nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho đoạn thơ đẹp như một bức tranh sơn mài vô cùng rực rỡ. Thiên nhiên được nhân hóa “thở”, cùng với cách gọi cá là “em” thể hiện tình yêu quê hương đất nước và tình yêu biển sâu nặng của tác giả.
Có thể nói, khổ thơ thứ 4 và cả bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc ca vừa hào hứng, vừa phơi phới và khỏe khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ khiến bài thơ bước khởi đầu trong cảm hứng mới về thiên nhiên đất nước và niềm tin ở cuộc sống mới đang sôi động đương thời. Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 3
Huy Cận là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông luôn có một phong cách rất riêng với những nhà thơ khác. Tiêu biểu cho các tác phẩm của ông trong thời kì mới là bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Bài thơ là lời ca ngợi thiên nhiên và con người lao động Việt Nam thời kì đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoàn thuyền đánh cá có những hình ảnh thơ vô cùng đẹp đẽ, đặc biệt là ở khổ thơ thứ 4.
Bài thơ là sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn. Thế nên, khi viết về biển cả, Huy Cận đã ca ngợi sự trù phú và giàu đẹp của thiên nhiên. Đến khổ thơ thứ 4, người đọc chúng ta thấy được Huy Cận dẫn tới một bức tranh khác. Bức tranh ấy vẫn là chủ đề thiên nhiên, thế nhưng thiên nhiên trong đó không chỉ có mỗi ánh trăng vàng, mặt biển xanh mà giờ đây nó còn lấp lánh đầy sắc màu khác nữa. Đó là sắc màu của những loài cá biển:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Quả là một bức tranh rực rỡ sắc màu và thật sống động. Nào là màu lấp lánh, “vàng chóe”, nào đen, nào hồng,… đủ màu đủ sắc, đủ thanh âm, thật đặc sắc biết chừng nào! Khổ thơ mở đầu bằng một loạt tên của những loài cá biển vốn là những loài cá đặc biệt chỉ có của vùng biển Hòn Gai, Quảng Ninh. Nào cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song – toàn là những loài cá đặc sản, thế mới thấy được biển cả Việt Nam giàu có, phong phú đến nhường nào! Không chỉ vậy, biển cả còn hiện lên thật đẹp khi:
“Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
Cá song – một loài cá đặc sản của vùng biển Việt Nam, với đặc trưng là chiếc đuôi đen đỏ, giờ đây trong con mắt đa tình của người thi sĩ, nó bỗng trở thành một bó đuốc giữa lòng biển khơi. Bó đuốc ấy thắp sáng lên cả một vùng biển rộng tăm tối, để vùng biển ấy vụt sáng lên, óng ánh lên thứ ánh đuốc đen hồng. Chưa từng có trong thi ca một hình ảnh so sánh mĩ miều đến vậy!
Phải là người có trí tưởng tượng thật phong phú, đôi mắt quan sát thật tinh tường thì Huy Cận mới có thể nhận ra được cái thứ đặc trưng đặc sắc này của mỗi loài cá biển. Không chỉ thắp lên một ánh đuốc sáng bừng cả đại dương, trong mắt Huy Cận, những chú cá biển ấy như những cô em gái lém lỉnh, tinh nghịch, đang quẫy thật mạnh chiếc đuôi lóng lánh của mình trên mặt nước.
Và thế là, giữa mặt nước mênh mông, ánh trăng “vàng chóe” bắn lên không trung vừa đẹp lóng lánh, lại tươi mát lạ lùng. Ở đây Huy Cận đã dùng một tính từ tả màu sắc rất nổi bật “vàng chóe” – thứ ánh vàng vừa óng ánh lại vừa đặc biệt, nó đã làm câu thơ bật lên nghe rất âm vang. Kết lại khổ thơ, Huy Cận viết:
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Đây là một hình ảnh nhân hóa, nhưng lại độc đáo một cách thật thú vị. Màn đêm đang thở, đang dùng những nhịp thở của mình để thổi vào không gian tĩnh mịch của biển cả bao la. Cái tiếng thở ấy của đêm phải chăng là âm thanh của tiếng nước thủy triều đang nhấp nhô nâng hạ? Từng đợt thủy triều cuốn vào bờ cát rồi lại chạy thật nhanh ra xa và Huy Cận như cảm thấy như màn đêm đang phập phồng hơi thở: sao lùa nước Hạ Long?
Những miền, những chiều không gian khác nhau nhưng lại được Huy Cận nối lại thành một cách liền mạch. Không gian của đêm, của biển, của sao trời và ánh trăng đã nối thành một điểm và ở giữa điểm đó là hình ảnh của những con người lao động đang miệt mài với công việc của mình.
Cả khổ thơ là lời ca ngợi của Huy Cận đối với sự giàu có của biển cả mênh mông. Bằng con mắt của nhà thi sĩ yêu đời, Huy Cận đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên cùng muôn vàn loài cá khác nhau thật đẹp đẽ. Bức tranh ấy vừa đầy màu sắc, nhưng lại không kém phần lung linh, sinh động biết bao.
Có thể nói, trong khổ thơ thứ 4, Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc. Cùng với đó, nghệ thuật mà Huy Cận sử dụng trong đoạn thơ trên như so sánh, liệt kê, nhân hóa cũng góp phần tạo nên đặc sắc cũng như thành công cho đoạn thơ.
Chỉ bằng khổ thơ ngắn ngủi, nhưng nó vẫn làm hiện lên thật rõ bút pháp tài hoa của Huy Cận. Nó đã thể hiện niềm cảm xúc dào dạt của ông trước cuộc sống mới của những người dân sau bao năm tháng chiến tranh. Ông thật xứng đáng là một trong những nhà thơ hiện đại tài năng bậc nhất nền thi ca Việt Nam.
Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 4
Có ai đó từng cho rằng: một trong những nguồn gốc quan trọng cùa thơ ca chính là đời sống lao động của nhân dân. Điều đó hẳn đúng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Bài thơ thực sự cẩt lên từ nhịp sông lao động hăng say, khoáng đạt của những người dân vùng chài. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và mối giao hòa giữa con người và thiên nhiên trên cái nền lộng lẫy, tráng lệ của vũ trụ biển cả. Đoạn thơ thứ 4 trong bài thơ tiêu biểu cho điều đó:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Bài thơ được sáng tác trong chuyến đi công tác của Huy Cận tại vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Ninh năm 1958 và được bắt nguồn từ cảm hứng ngợi ca công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của miền Bắc tự do độc lập. Với ý nghĩa đó, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.
Khổ thơ nằm giữa bài thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh hoàng hôn trên biển và những con thuyền đánh cá ra khơi. Người dân chài đến với biển lớn bằng một tinh thần lao động hăng say và tâm hồn khỏe khoắn “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Và biển cả bao la giàu có phóng khoáng dang tay đón họ. Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chi giàu mà biển còn rất đẹp. Cá song lấp lánh đuốc đen hồng. Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé. Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới ngọn đuốc.
Hình ảnh ấy cũng từng gợi hứng cho nhà thơ Chế Lan Viên viết nên câu thơ kì tài: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Có thể nói, với hình ảnh cá song, hai nhà thơ không chỉ gặp nhau ở sức liên tưởng mà còn “cùng chí hướng” ở cảm hứng sáng tác: nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực, từ đời sống lao động của quần chúng nhân dân.
Đoạn thơ mang nhiều sắc ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh cùa cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu. Trong niềm xúc động, nhà thơ như thấy đâu đây hình ảnh những nàng tiên cá thần kì và do đó, Huy Cận đã viết một câu thơ thật thi vị, hữu tình: “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Hình ảnh ấy càng được tôn lên bội phần bởi một liên tưởng tài tình:
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thủy triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mặt nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng triều đập vào bãi cát được ví như: “lùa nước Hạ Long”. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thỏ của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kỳ ảo.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung.
Đoạn thơ thứ 4 ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cảm hứng vũ trụ hoà cùng dòng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.
Phân tích khổ 4 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 5
Nếu như trước cách mạng tháng Tám thơ Huy Cận chìm đắm vào nỗi sầu vương nhân thế thì sau cách mạng, thơ ông tràn ngập niềm yêu cuộc sống, ngợi ca cuộc đời và con người mới. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được tác giả sáng tác trong một lần đi thực tế tại Quảng Ninh là một tác phẩm như thế. Vẻ đẹp huy hoàng, kỳ vĩ của thiên nhiên cùng những người lao động mạnh mẽ, lạc quan tạo nên một bức tranh cuộc sống hài hoà, đẹp đẽ. Khổ thơ thứ 4 trong bài đã thể hiện rõ nhất bức tranh ấy.
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
Phải chăng thiên nhiên cũng thấu hiểu được sự vất vả của con người mà thương họ, bạn phát cho họ nguồn cá tôm dồi dào đến thế. Thủ pháp liệt kê được tác giả vận dụng để thể hiện sự phong phú, đa dạng của các loài cá trên biển: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,….. Ta như thấy được niềm vui của người lao động khi bắt gặp luồng cá đông đến vậy.
Trong màu sắc dịu dàng của ánh trăng đêm giữa biển khơi, những chú cá hiện lên thật lung linh, đẹp đẽ. Cá song “lấp lánh đuốc đen hồng” nổi bật trong làn nước của biển đêm. Nghệ thuật nhân hoá “em” như một cách gọi đầy trìu mến và thân thương của người lao động dành cho bao chú cá biển khơi.
Động từ “quẫy” kết hợp với cụm danh từ “trăng vàng choé” càng làm cho khung cảnh lao động trong biển đêm thêm sinh động, nên thơ. Ánh trăng đêm rẽ nước cùng thuyền vượt biển, trăng mang ánh sáng huyền diệu xua tan tăm tối của biển đêm, sáng soi cho con người lao động. Trăng cùng cá tôm vẽ nên nét đẹp lung linh, mơ màng của biển cả.
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Nghệ thuật nhân hoá một lần nữa được tác giả vận dụng để miêu tả thiên nhiên “đêm thở”, “sao lùa”. Cho thấy sự liên tưởng phong phú và cảm xúc dạt dào toát ra qua ngòi bút của người thi sĩ.
Khổ thơ thứ 4 trong bài Đoàn thuyền đánh cá mang cả những yêu thương, ước vọng và niềm tin của tác giả dành cho người dân chài nói riêng và dành cho quê hương, đất nước nói chung. Hồn thơ khoẻ khoắn, khoáng đạt của Huy Cận đã mang đến cho người đọc bao cảm xúc tự hào về con người và thiên nhiên Việt Nam.
Phân tích khổ 6 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 6
Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" là một bản hùng ca rực rỡ về lao động và thiên nhiên, được Huy Cận viết năm 1958 sau chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Ở đó, ông không chỉ cảm nhận được sự hồi sinh của thiên nhiên đất nước sau chiến tranh mà còn thấu hiểu được vẻ đẹp của con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khổ thơ thứ tư trong bài là một minh chứng điển hình, nơi vẻ đẹp trù phú của biển cả hòa quyện với nét khỏe khoắn của con người, tạo nên một bức tranh sống động.
Bốn câu thơ là sự kết tinh tài tình giữa chất hiện thực và chất trữ tình. Mở đầu là hình ảnh những loài cá biển hiện lên đầy phong phú và sinh động:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”.
Tác giả không đơn thuần liệt kê tên cá, mà cách dùng thanh điệu mềm mại, nhịp nhàng như một khúc hát ru trên biển đêm. Những loài cá không chỉ là sản vật của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của sự giàu có, là món quà mà biển cả trao tặng cho con người. Đặc biệt, cụm từ “lấp lánh đuốc đen hồng” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Cá song ánh lên dưới ánh trăng, ánh đèn hay chính là ánh sáng của niềm vui lao động? Có lẽ là tất cả. Dưới con mắt nghệ sĩ, những con cá trở nên lung linh huyền ảo, mang nét đẹp vừa thực vừa mộng.
Hình ảnh tiếp theo lại càng gây ấn tượng mạnh:
“Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”.
Huy Cận gọi con cá bằng “em”, một cách gọi thân mật, trìu mến như đang nói về một người bạn đồng hành. Cái đuôi cá quẫy làm ánh trăng vỡ tung trong mặt biển, làm cho không gian trở nên chuyển động. Câu thơ là một tuyệt tác gợi hình và gợi cảm, cho thấy tài năng của nhà thơ trong việc nhân hóa thiên nhiên, biến biển cả thành một sân khấu rực rỡ sắc màu và âm thanh.
Khép lại khổ thơ là một hình ảnh giàu tính biểu tượng:
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.
Biển đêm dường như cũng có nhịp thở như con người. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến sự sống đang dâng trào, lan tỏa từ thiên nhiên đến vũ trụ. Những ngôi sao lùa theo sóng nước Hạ Long, một hình ảnh tráng lệ và kỳ vĩ. Không gian thiên nhiên hiện lên rộng lớn, linh hoạt và đầy sức sống.
Khổ thơ thứ tư là minh chứng cho tài năng của Huy Cận trong việc kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn. Thiên nhiên và con người không còn đối lập mà hòa quyện trong một bản hòa ca tràn đầy cảm hứng. Người đọc không chỉ thấy được vẻ đẹp phong phú của biển mà còn cảm nhận được niềm tự hào và biết ơn đối với lao động của ngư dân.
Phân tích khổ 6 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 7
Trong thi ca Việt Nam hiện đại, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một tác phẩm tiêu biểu cho dòng thơ hướng về người lao động, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên hòa quyện với con người. Khổ thơ thứ tư của bài thơ chính là một khúc nhạc vang lên trong đêm biển, không chỉ miêu tả công việc đánh cá mà còn khơi gợi sự ngưỡng mộ với sự trù phú và kỳ diệu của thiên nhiên đất nước.
Ngay từ hai câu đầu, nhà thơ đã dẫn người đọc bước vào thế giới của đại dương:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”.
Biển hiện lên không hề tĩnh lặng mà tràn đầy âm thanh và sắc màu. Những loài cá thân quen với ngư dân được liệt kê gợi cảm giác dồi dào, tươi tốt. Hình ảnh “đuốc đen hồng” là một cách cảm nhận thị giác đặc sắc, gợi liên tưởng đến ánh lửa trong đêm – nhưng lại không phải từ con người, mà từ ánh cá lấp lánh trong biển sâu, khiến cho cả không gian như được thắp sáng từ bên trong.
“Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” – đây là một trong những câu thơ giàu tính nghệ thuật nhất bài. Hình ảnh trăng không chỉ là nền cho vẻ đẹp của biển mà còn được nhà thơ nhân cách hóa bằng hành động của cá. Con cá như đang chơi đùa với ánh sáng, làm rung động cả mặt trăng. Câu thơ thể hiện cái nhìn đầy yêu thương, gần gũi của thi sĩ với thiên nhiên, đồng thời cũng cho thấy sự sống động, khỏe khoắn trong công việc lao động của người dân chài.
Cuối cùng là hình ảnh:
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.
Một câu thơ giàu chất tượng trưng. Đêm – vốn tĩnh lặng, giờ đây được nhân cách hóa như có nhịp thở. Nhịp thở ấy là của thiên nhiên, là nhịp sống đồng điệu với nhịp sống của con người. Những vì sao không chỉ lấp lánh trên trời mà còn hòa vào nước, “lùa” theo dòng, tạo nên một bức tranh thủy tinh lấp lánh, huyền ảo. Đây chính là cảnh sắc tuyệt đẹp của vùng biển Hạ Long – một niềm tự hào của đất nước Việt Nam.
Khổ thơ thứ tư là kết tinh giữa nghệ thuật miêu tả, cảm nhận tinh tế với tinh thần lãng mạn cách mạng. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp tự nhiên, Huy Cận còn truyền tải niềm vui sống, niềm tin vào con người và đất nước đang vươn lên mạnh mẽ. Thiên nhiên trong thơ ông không chỉ là bối cảnh mà là bạn đồng hành, là nguồn cảm hứng và là đối tượng yêu thương sâu sắc.
Phân tích khổ 6 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 8
Trong không khí lao động tràn ngập ánh sáng và cảm hứng của thời kỳ xây dựng đất nước sau chiến tranh, Huy Cận đã để lại dấu ấn mạnh mẽ qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ không chỉ là một bản hùng ca lao động, mà còn là một bản giao hưởng giữa con người và thiên nhiên, giữa cái thực và cái mộng. Trong đó, khổ thơ thứ tư như một bức tranh sống động, thể hiện rõ nét sự giao hòa giữa con người và biển cả trong không gian lung linh kỳ ảo của biển đêm.
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Từ đầu khổ thơ, Huy Cận đã mở ra một thế giới sinh vật biển phong phú, đa dạng. Các loài cá như cá nhụ, cá chim, cá đé – vốn quen thuộc với người dân miền biển – được đưa vào thơ với âm điệu nhịp nhàng, nhẹ nhàng như một điệu ru. Không chỉ dừng lại ở việc tả thực, nhà thơ còn đưa vào hình ảnh mang đậm chất trữ tình: “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”. Những con cá trở nên lung linh trong ánh sáng ban đêm, ánh lên vẻ đẹp huyền bí như những “đuốc sống” giữa đại dương.
Nếu hai câu đầu thiên về cảm nhận thị giác thì câu thứ ba là sự kết hợp tài tình giữa hình ảnh và cảm xúc. “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” không chỉ là một cú pháp độc đáo mà còn là một hình tượng sáng tạo. Con cá được gọi là “em” đầy yêu thương, gần gũi như một con người, đang chơi đùa cùng ánh trăng. Hành động “quẫy” làm cho ánh trăng “vàng choé” không chỉ tạo hình mà còn tạo động, khiến cho mặt biển trở nên sinh động như một sân khấu. Thiên nhiên trong thơ Huy Cận luôn đầy cảm xúc và chuyển động như một sinh thể sống cùng con người.
Câu cuối khép lại khổ thơ là một sáng tạo nghệ thuật: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Đêm như một sinh vật sống đang thở, từng hơi thở hòa nhịp với biển, với sao trời. Hình ảnh những vì sao lùa nước Hạ Long là một cách ví von đầy chất mộng mơ, cho thấy tầm nhìn bao quát và chiều sâu cảm xúc của nhà thơ. Thiên nhiên không còn là phông nền tĩnh lặng, mà là nhân vật đồng hành, góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của lao động.
Khổ thơ thứ tư thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Huy Cận: lãng mạn, bay bổng mà vẫn gắn bó sâu sắc với hiện thực. Ông không chỉ miêu tả mà còn tôn vinh lao động, biến những công việc đời thường trở thành biểu tượng cao đẹp của tình yêu quê hương đất nước. Qua đó, người đọc cảm nhận được một tinh thần mới, một khí thế mới của con người Việt Nam trong hành trình làm chủ thiên nhiên, làm giàu cho Tổ quốc.
Phân tích khổ 6 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 9
Thơ Huy Cận thời kỳ sau cách mạng mang một diện mạo hoàn toàn mới: phơi phới, yêu đời và gần gũi với nhân dân lao động. Trong “Đoàn thuyền đánh cá”, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh hoành tráng về biển cả và những người lao động giữa thiên nhiên rộng lớn. Đặc biệt, khổ thơ thứ tư là nơi hội tụ vẻ đẹp lung linh của biển cả cùng sự sống động của nghề chài lưới, mang đậm chất lãng mạn và trữ tình.
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé” – câu thơ mở ra như một lời giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy màu sắc về sản vật biển. Cách liệt kê các loài cá vừa có tính cụ thể, chân thực lại vừa tạo được nhịp điệu thơ êm ái. Đây là sự hòa quyện giữa chất thơ và chất đời, giữa tình yêu thiên nhiên và niềm vui lao động.
“Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” – không gian dưới mặt biển như bừng sáng bởi ánh sáng của loài cá. Ánh sáng ấy không phải từ đèn hay từ mặt trời mà chính là ánh sáng của thiên nhiên được lồng ghép trong trí tưởng tượng thi vị. “Đuốc đen hồng” là một sáng tạo độc đáo, gợi sự huyền ảo và sức sống rực rỡ của đại dương. Câu thơ như khiến ta liên tưởng đến cảnh sắc của những dãy san hô rực rỡ ánh sáng trong lòng biển đêm sâu thẳm.
“Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” – câu thơ vừa gợi hình, vừa gợi cảm. Trăng vàng trên mặt biển như tấm gương lớn, và khi cá quẫy nước, ánh trăng cũng vỡ ra, loang rộng thành ánh sáng vàng choé. Cách gọi cá là “em” cho thấy sự gần gũi, thân tình, đầy cảm xúc lãng mạn trong cái nhìn của nhà thơ. Chính từ sự nhân hóa ấy mà thiên nhiên trong thơ Huy Cận trở nên sống động, không còn là cảnh vật vô tri mà là người bạn đồng hành cùng lao động.
Câu cuối “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” là một hình ảnh đậm chất tượng trưng. Đêm không còn tĩnh lặng mà có nhịp sống, có hơi thở. Sao không chỉ treo lơ lửng trên trời mà còn lùa nước, cùng chuyển động trong không gian huyền bí. Bằng những hình ảnh giàu tính tạo hình và cảm xúc, Huy Cận đã cho thấy một Hạ Long không chỉ là địa danh mà là biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, huyền ảo của Việt Nam.
Khổ thơ thể hiện khả năng cảm thụ thiên nhiên vô cùng tinh tế của Huy Cận. Qua đôi mắt của người thi sĩ, thiên nhiên trở nên thi vị, mềm mại, sống động hơn bao giờ hết. Thiên nhiên và con người như hòa vào nhau trong một bản nhạc không lời, một điệu ca ngợi lao động và khát vọng làm chủ thiên nhiên.
Phân tích khổ 6 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 10
Sau Cách mạng Tháng Tám, thơ Huy Cận rũ bỏ lớp áo u hoài cổ điển, thay vào đó là hơi thở của thời đại mới – tươi sáng, sống động và đầy niềm tin. Trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, điều này được thể hiện rất rõ trong khổ thơ thứ tư, nơi ông thể hiện một cách sinh động mối quan hệ hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.
Ngay từ câu đầu tiên, hình ảnh những loài cá như ùa vào không gian thơ: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé” – đây không chỉ là liệt kê, mà còn là cách gợi mở một vùng biển trù phú. Mỗi loài cá không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của thành quả lao động, là “lộc biển” mà người ngư dân gặt hái được sau những đêm dài lênh đênh trên sóng.
Câu thơ tiếp theo:
“Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”
Chính là một điểm nhấn nghệ thuật. Nhà thơ đã thổi hồn vào hình ảnh cá song, làm nó không còn là con vật bình thường mà trở thành một ngọn đuốc rực rỡ, phát sáng giữa đêm tối đại dương. Đuốc “đen hồng” – tưởng chừng đối lập – lại hòa quyện thành một ánh sáng diệu kỳ, vừa mạnh mẽ vừa lung linh. Đây chính là cảm xúc lãng mạn pha trộn cùng chất hiện thực trong thơ ông.
Câu thứ ba “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé” mang đến chuyển động và cảm xúc mạnh mẽ. Không gian không còn tĩnh, ánh trăng không còn bất động mà bị quẫy tung lên, vỡ vụn ra trên mặt nước. Từ “em” là một sự nhân hóa thân mật, gợi tình cảm yêu mến mà tác giả dành cho vạn vật xung quanh, khiến cá cũng trở nên đáng yêu, gần gũi như một người bạn lao động đồng hành.
Câu cuối “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” là một tuyệt phẩm về biểu tượng. “Đêm thở” là một sáng tạo gợi cảm xúc lạ kỳ. Thiên nhiên mang hơi thở của sự sống, sao trời lùa nước không chỉ mang tính tưởng tượng mà còn tạo nên cảm giác thiên nhiên đang hòa nhịp cùng nhịp thở của những con người lao động.
Khổ thơ thể hiện rõ nét cái nhìn nghệ thuật mới mẻ của Huy Cận. Ông không nhìn thiên nhiên như một khối vô tri, mà là một thực thể sống động có tình cảm, biết sẻ chia, biết hòa cùng con người. Đây chính là điểm đặc sắc làm nên sự thành công của “Đoàn thuyền đánh cá” – một tác phẩm kết hợp hài hòa giữa chất hiện thực và chất lãng mạn trong thơ ca cách mạng.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
Vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam qua 2 nhân vật Phương Định và anh thanh niên
Cảm nhận của em về 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k11 (2026):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài 500 bài văn hay lớp 9 được chọn lọc, tổng hợp từ những bài văn đạt điểm cao của học sinh lớp 9 trên cả nước nhằm mục đích giúp học sinh viết văn lớp 9 hay hơn.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

