Top 20 bài phân tích, dàn ý bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (hay, ngắn gọn)



Phần dưới tổng hợp trên 9 bài văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay nhất giúp các sĩ tử học tốt môn Văn lớp 11 và đạt điểm cao trong các bài kiểm tra, bài thi môn Văn.

Bài giảng: Đây thôn Vĩ Dạ - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Mục lục phân tích, dàn ý tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

Dàn ý Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả: Hàn Mặc Tử (1912 – 1940), quê tỉnh Quảng Bình, là nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho phong trào Thơ mới 1932 – 1940.

- Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được rút ra từ tập Thơ điên. Bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ - Hoàng Thị Kim Cúc. Bài thơ là bức tranh đẹp và thơ mộng về thôn Vĩ Dạ. Thông qua bài thơ, tác giả muốn bộc lộ khát khao được sống, được yêu và được giao hòa với thiên nhiên.

II. Thân bài

1. Phân tích khổ 1:

- Câu thơ mở đầu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa là lời mời mọc ân cần, tha thiết, vừa là lời trách cứ nhẹ nhàng ⇒ sự phân thân của tác giả.

- Cảnh vật và con người xứ Huế hiện lên một cách nhẹ nhàng, tinh khiết, đầy sức sống.

Nắng mới lên, hàng cau, vườn xanh như ngọc.

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

- Nghệ thuật cách điệu hóa tạo nên hình ảnh của thôn Vĩ và con người xứ Huế thật dịu dàng, phúc hậu ⇒ cảnh đẹp, người đôn hậu.

2. Phân tích khổ 2:

- Miêu tả cảnh: gió, mây, dòng nước, hoa bắp lay ⇒ cảnh vật chia lìa

- Không gian mờ ảo đầy hình ảnh của trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền chở trăng.

- Tâm trạng khắc khoải, đợi chờ của nhân vật trữ tình.

3. Phân tích khổ 3:

- Sự ảo mộng của cảnh và người

- Câu hỏi tu từ: là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.

- Đại từ phiếm chỉ “ai” ⇒ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.

III. Kết bài

- Nội dung:

+ Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ êm đềm, thơ mộng

+ Bức tranh tâm cảnh của nhân vật trữ tình.

- Nghệ thuật:

+ Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ,…

+ Hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo

+ Kết hợp giữa bút pháp thơ tả thực và lãng mạn, tượng trưng.

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

     Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã dùng biết bao tâm huyết của mình viết lên. Bài thơ thể hiện niềm yêu thương nhung nhớ về quê hương xứ Huế nơi mà tác giả đã từng làm việc ở đây.

     Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) ông được sinh ra tại Bình Định nhưng có 1 thời gian ông được học tập tại Huế và làm việc tại đây. Đối với ông xứ Huế chính là quê hương thứ 2 và cũng là nơi để lại trong ông có nhiều dấu ấn và kỷ niệm nhất. Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp chúng ta có thể hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.

     Mở đầu bài thơ là lời nói ngọt ngào nghe sao mà tha thiết của một cô gái dành cho 1 chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thôn Vĩ là một làng quê xinh đẹp nằm gần bên con sống Huế thơ mộng. Làng Vĩ hay còn được gọi là làng Vĩ Dạ nơi tác giả nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp.

     Đây cũng chính là nơi mà tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đây chính là những lời thì thầm nhắc nhở của cô gái dành cho chàng trai rằng hãy về làng Vĩ Dạ chơi vì có biết bao nhiêu cảnh quan đẹp kỳ bí mà chàng trai đã lâu rồi không ghé thăm. Cảnh vật ở đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng hình ảnh dung dị nhất:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

     Ở đây cảnh vật có hai màu chủ đạo chính là màu xanh và màu nắng vàng. Cảnh vật ở đây có những hàng cau mọc lên cao và mang màu sắc xanh. Hình ảnh những hàng cau mọc theo hàng lối và đến mùa ra hoa cau thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm đó chính là lý do mà cây cau không thể thiếu ở Huế được. Nếu như bạn đã từng đi Huế thì sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp đến mê hồn của những con người nơi đây.

     Ở xứ Huế các bạn sẽ còn trông thấy những vườn cỏ rộng rãi bên trong là những cây cau. Một không gian toàn màu xanh và được điểm sáng bởi những ánh nắng vàng khiến cho không gian trở nên thơ mộng và trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả phải thốt lên: “mướt quá’’ một từ ngữ thể hiện được sự tươi tốt và màu mỡ của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương long lanh vẫn còn đọng lại ở những cây cỏ và khi ấy những ánh nắng đã khẽ chiếu vào tạo nên những viên ngọc được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc’’.

     Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến cho người đọc liên tưởng được hay hình dung được một bức tranh muôn màu sắc mà tác giả đã vẽ lên. Nhưng đến khổ thơ thứ hai giọng thơ trở nên sâu lắng và pha một chút tâm trạng buồn bã:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?’’

     Hai sự vật là gió và mây khi được nhắc đến luôn gợi cho chúng ta suy nghĩ về tình yêu đôi lứa. Mây và gió vẫn luôn không rời thể hiện cho tình cảm khăng khít và gắn bó của lứa đôi. Nhưng ở đây thì tác giả lại thể hiện ngược lại đó chính là sự chia ly và xa cách giữa gió và mây mỗi vật lại đi một hướng. Phải chăng đây chính là lời nhắn nhủ của nhà thơ đối với người con gái Hoàng Kim Cúc ấy. Họ đã bị xa cách nhau trong 1 thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ cha làm việc.

     Câu thơ thứ hai trong khổ chính là khắc họa về cuộc sống, nhịp sống đời thường của những người xứ Huế chậm rãi và yên bình như sự miêu tả dòng nước thì buồn thiu chảy nước chầm chậm, từ từ. Hoa bắp lay động một cách nhẹ nhàng khi có gió thổi.

     Câu thơ tiếp theo là một câu nhớ khiến cho người đọc liên tưởng ra được cảnh vật nhiều nhất có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và tỏa sáng cả một dòng sông khi có ánh trăng hiện lên soi tỏ cho cả một con thuyền. Liệu rằng thuyền có chở trăng về kịp tối nay hay không hay lỡ làng? Đây chính là cách nói ẩn của tác giả về chuyện tình yêu của mình có còn kịp để quay lại và yêu thương nữa hay không hay là hai người sẽ mất nhau mãi mãi?

     Khổ thơ cuối cùng là lời thốt lên từ đáy lòng tác giả và cũng là những suy tư của tác giả về người con gái ấy:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

     Câu đầu tiên trong khổ thơ cuối tạo sự ấn tượng cho người đọc với sự lặp từ hai lần khách đường xa càng gợi lên sự xa cách hơn. Áo của người con gái ấy trắng quá đến nỗi mà tác giả không nhận ra nữa chính là vì người con gái ấy xinh đẹp mặc trên mình chiếc áo tinh khôi khiến tác giả không thể nhận ra được người con gái mình đã yêu năm nào. Sương khói dày đặc khiến làm mờ đi hình ảnh con người và tác giả tự hỏi liệu rằng cô ấy còn yêu còn tình cảm đậm đà với mình nữa hay không? Câu thơ cuối chính là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.

     Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chúng ta sẽ biết được rằng đây chính là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử đã viết lên trước khi qua đời bởi căn bệnh phong. Thông qua bài thơ chúng ta có thể tưởng tượng được cảnh đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi xứ Huế xinh đẹp nơi mà đã từng là cố đô của nước ta năm nào. Bài thơ cũng thể hiện khắc họa được tình yêu chân thành mà nhà thơ đã dành tặng cho một người con gái xứ Huế thật đậm đà mà ngọt ngào xiết bao!

Dàn ý Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài:

- Hàn Mạc Tử là nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, ông có rất nhiều tác phẩm hay, nổi tiếng trong đó bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ như thế. Toàn bộ khung cảnh thiên nhiên, không gian thôn vĩ hiện lên khá phong phú và hấp dẫn.

II. Thân Bài:

- Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ hiện lên khá sâu sắc, chi tiết và mang những cung bậc, cảm xúc nhẹ nhàng sâu lắng của nhân vật trữ tình.

- Bài thơ đã mang đến cho người đọc nhiều xúc cảm sâu sắc, mở đầu bài thơ là những câu hỏi mang những lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái.

- Bức tranh thiên nhiên hiện lên rõ nét qua đoạn thơ đầu, những ánh nắng của vẻ đẹp thiên nhiên, màu sắc tươi tắn cùng với những sắc thái nhẹ nhàng, sâu lắng của cảm xúc, tình cảm.

- Buổi sáng của nắng sớm đã mang những cung bậc nhẹ nhàng, cảm xúc tươi và nắng mai nở rộ trong khung cảnh của thiên nhiên, hành câu, hàng trầu, đây là biểu tượng để nói về khung cảnh của thiên nhiên, đất trời, nhẹ nhàng và sâu lắng.

- Thấy khung cảnh thiên nhiên, nhẹ nhàng, bức tranh thiên nhiên đẹp mơ mộng, với cảnh thiên nhiên của quê hương, của vườn cây, hoa lá.

- So với khung cảnh đó, khung cảnh thiên nhiên ở nơi thôn vĩ tươi tắn, hòa với khung cảnh thiên nhiên, nhẹ nhàng, cùng với hình ảnh con người cùng với khuôn mặt phúc hậu, vuông chữ điền, duyên dáng…

- Ngay trong khổ thơ đầu tác giả đã đem đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, ở đó có con người, cảnh vật thiên nhiên, nhẹ nhàng, sâu lắng qua hình ảnh thầm kín, chi tiết gần gũi, thể hiện qua những khung cảnh của đất nước, của nơi thôn vĩ.

- Cảnh vật và con người nơi đây nhẹ nhàng, khung cảnh thiên nhiên đều gợi hình, gợi nhiều cảm xúc và tạo nên những khắc khoải trong tâm hồn.

- Cảnh vật thiên nhiên nhẹ nhàng, sâu lắng nhẹ nhàng trong tâm hồn con người.

III. Kết Luận:

- Bức tranh thiên nhiên hiện lên nhẹ nhàng, tinh tế mang nhiều cảm xúc sâu lắng, cùng với khung cảnh tươi tắn, mang nhiều sắc thái cảm xúc riêng, mang những giá trị tinh tế, cùng với không gian thiên nhiên nhẹ nhàng, mang nhiều màu sắc.

Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

     "Đây thôn Vĩ Dạ" ra đời ngẫu nhiên trong một lần Hàn Mặc Tử nhận được bức thư của nàng thơ Hoàng Thị Kim Cúc xưa gửi cho thi sĩ trong những ngày cuối cùng của đời người bên giường bệnh. Bức thư kèm theo một bức ảnh chụp cảnh non nước mây trời xứ Huế. Quá khứ về những ngày ở Huế ùa về, Hàn Mặc Tử chợt xúc động và viết lên bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". Có lẽ, đó là lí do bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ trong bài thơ lại đầy sắc, hương và tình đến thế.

     Trong số các nhà văn, nhà thơ Việt Nam, ít ai chịu nỗi đau đời nhiều như Hàn Mặc Tử. Cuộc đời Hàn bị ruồng bỏ nơi bãi bồi, chòi gác. Người chịu căn bệnh phong hành hạ thể xác tới cuối đời. Đưa nỗi đau vào các tác phẩm, Hàn Mặc Tử trở thành đỉnh cao thơ Mới với cái "tôi" hoàn toàn "loạn" và dị biệt. Tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" tiêu biểu cho cái tôi kì dị ấy. Thế nên mới có lời nhận xét thế này "Thơ Hàn Mặc Tử thường có bước cóc nhảy về ý, ý nọ cách ý kia một khoảng rất xa, thoạt nhìn tưởng đầu Ngô mình Sở...". Chỉ riêng cách thể hiện bức tranh thiên nhiên trong bài thơ, ta đã thấy những điểm đó.

     Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được thể hiện tập trung chủ yếu trong hai khổ thơ đầu tiên. Hàn Mặc Tử đã khắc họa hai bức tranh với hai gam màu khác nhau, một tươi sáng đầy sức sống; một thấm đẫm lạc lõng, cô đơn, dự cảm bất an.

     Trước hết, bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ đầy sức sống gợi về từ quá khứ tươi đẹp thời tuổi trẻ đầy niềm yêu sống và hoài bão của Hàn Mặc Tử những ngày ở Huế. Thuở đó, khi anh thi sĩ lắm mộng mơ phải lòng cô gái Huế Hoàng Thị Kim Cúc, tâm hồn người đang yêu khi nào chẳng phơi phới. Vậy nên Vĩ Dạ sống trong lòng nhà thơ mới tràn trề nhựa sống như thế:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"

     Vĩ Dạ nhiều cau. Những hàng cau xanh bát ngát của buổi sớm mai cộng hưởng ánh nắng vàng rực và sắc non tơ mơn mởn của vườn cây trái Vĩ Dạ sao mà khó quên đến thế. Mỗi sớm, mặt trời rọi ánh dương xuống xuyên qua kẽ lá cau dài đổ thành giàn đan xuống mặt đất. Những thân cau cao, thẳng, nhiều đốt. Nắng rọi xuống thân cau in bóng một cây thước khổng lồ đang cần mẫn đo đạc mực nắng. Ánh nắng chiếu xuống nhưng lại có sắc "mới lên". Một câu thơ có tới hai từ nắng. Hàn Mặc Tử đã lấy màu nắng để gột rửa sắc xanh ánh lên màu ngọc bích. Có ai không yêu một Vĩ Dạ đầy sống động như thế. Sống động tới độ có gương mặt chữ điền nào đó cứ say đắm ngắm nghía quên mọi thời gian và không gian?

"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"

     Bức tranh thiên nhiên bỗng "cóc nhảy" đến không gian trời mây sông nước với những tình cảm đứt gãy và chia lìa. Vừa mới vườn non tơ mơn mởn đây thôi mà giờ chỉ có nước "buồn", hoa bắp cô liêu, "thuyền ai" bất định... Vừa mới đây thôi còn đằm đằm ấm ấm ánh mắt ai đó say đắm cảnh sớm mai. Nay bỗng chốc thấy bóng người đang chới với một "bến sông" mỏi mòn chờ "thuyền ai" đem ánh trăng hạnh phúc về. Bức tranh có sông, nước, hoa, thuyền, bến, trăng tràn đầy ấy sao chỉ có tiếng thở than thiu nghỉu, dự cảm không "kịp".

     Ngoài tiếng buồn thở than, ta thấy bức tranh như đang bị cắt rời, lìa bỏ nhau. Gió thổi mây bay. Thế mà gió "lối gió", mây lại "đường mây". Thuyền và bến luôn luôn đi liền với nhau. Thuyền cần bến đậu. Bến có thuyền mới là bến. Vậy mà thi sĩ không rõ thuyền ai, thuyền đâu. Một bức tranh chỉ thấy sự cô liêu và đứt gãy. Thế nhưng, có một điều chúng ta thừa hiểu rằng. Người càng lo sợ, càng bất an thì càng chứng tỏ tình yêu vô bờ bến với thiên nhiên Vĩ Dạ.

     Tóm lại, Hàn Mặc Tử đã sử dụng nhiều nghệ thuật khác nhau để thể hiện bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ như sáng tạo ngôn từ, gieo vần, bắt âm, từ dùng giàu sắc thái, giọng thơ linh hoạt. Qua đó, nhà thơ nói lên tình yêu thiên nhiên, đất nước sâu nặng, thiết tha.

Dàn ý Phân tích cái tôi trữ tình của Hàn Mặc Tử trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

1. Mở bài: 

- Khái quát về cái tôi trong phong trào thơ mới.

2. Thân bài: Cái tôi trong thơ Hàn Mặc Tử

a/ Đó là cái tôi đắm say trước vẻ đẹp cuộc sống.

- Vẻ đẹp bức tranh thôn vĩ(phân tích khu vườn thôn vĩ ở đoạn 1)-> đó là biểu tượng cho cuộc sống trần gian.

- Niềm say mê thích thú của Hàn Mặc Tử trước vẻ đẹp đó( tha thiết, đắm say, một tình yêu sâu nặng)

- Tất cả những gì Hàn Mặc Tử miêu tả, đều là phản chiếu từ quá khứ nhưng lại chân thực đến kinh ngạc.

b/ Là cái tôi cô đơn đến đau đớn tuyệt vọng.

- Tác giả đau đớn trước bi kịch của cuộc đời mình( phải xa lìa cuộc sống bình thường dù đang trong độ tuổi đẹp đẽ nhất).

- Hình ảnh gió - mây làm liên tưởng đến thực tế cuộc sống của chính Hàn Mặc Tử 

- Vì quá cô đơn, Hàn Mặc Tử phải tìm đến trăng như một giải pháp cuối cùng, trăng trở thành tri kỉ. Nhưng trăng có thể không về kịp-> rơi vào trạng thái cô đơn tuyệt đối.

c/ Đó là cái tôi hoài nghi.

- Vì thế giới mà ông đang sống, tất cả mọi thứ( con người, cảnh vật) đều trở nên nhạt nhòa hư vô:

" Ở đây sương khói mờ nhân ảnh"

- Tất cả mọi vật đều khó nắm bắt và xác định.

- Hàn mặc tử hoài nghi về tình người, rằng liệu trong một thế giới như vậy, tình người có đậm đà, sâu nặng hay cũng như cảnh vật, trở nên mờ ảo?. Từ đó ông bộc lộ khao khát được đồng điệu, yêu và được yêu.

=> Cái tôi trong "Đây thôn vĩ dạ" là một cái tôi bí ẩn và đầy phức tạp.

* Khổ 1: niềm khát khao được trở về thôn vĩ , tình yêu thiên nhiên, con người thôn vĩ.

* Khổ 2:

+ cảm giác cô đơn vì chia cách: Mượn hình ảnh thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng: Gió và mấy luôn không tách rời nhưng ở đây gió lại theo lối gió, mây thoe đường mây, không một chút liên hệ. Hình ảnh dòng nước buồn thiu trước cảnh chia li của mây và gió hay tự bản thân mang tâm trjang như vậy => một nỗi buồn bao phủ khắp không gian.

+ Niềm khát khao hạnh phúc cuộc đời qua các hình arh : thuyền, bến sông, ánh trăng. Ông nhận biết được sự chia ly, cách trở, cuôc đời ngắn ngủi nhưng niềm khát khao được trở về vẫn luôn mãnh liệt.

* Khổ 3: Tình yêu tha thiết nhưng đơn phương của Hàn Mạc Tử và lòng yêu đời đến đau đớn tuyệt vọng. Qua đó thể hiện sự thèm muốn được trở về, khát khao trở về với thôn Vĩ, với cuộc đời, với hạnh phúc và tình yêu.

=> Cái tôi mãnh liệt nhưng quằn quại đau đớn của 1 con người đầy bi kịch. Cái tôi của nỗi buồn đau chia ly nhưng cũng là cái tôi của sự khát khao sống, yêu đời, yêu hạnh phúc mãnh liệt. Đây thôn Vĩ Dạ đã thể hiện rất rõ phong cách thơ Hàn Mạc Tử, kiểu tư duy "cóc nhảy" của Thơ Điên với những hình ảnh sáng tạo của trí tưởrg tượng với sự kết hợp của thực và ảo.

Phân tích cái tôi trữ tình của Hàn Mặc Tử trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

     Phong trào Thơ Mới là sự bùng nổ của những cái tôi cá nhân. Mỗi người một phong cách, một dáng vẻ làm phong phú thêm khu vườn thơ ca hiện đại. Trong khu vườn đấy ta không thể không nhắc đến Hàn Mặc Tử một cái tôi đầy cô đơn, u uất, hoài niệm, một cái tôi đau đớn khắc khoải và tha thiết yêu cuộc sống. Cái tôi ấy đã được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

     Trước hết, về cái tôi trong phong trào Thơ Mới. Thơ Mới là một cuộc cách tân lớn của thơ ca Việt Nam, từ cái tôi giấu kín, rụt rè đã xuất hiện những cái tôi bừng phá mạnh mẽ, họ - những lớp nhà thơ trẻ tuổi thể hiện một cách mạnh mẽ cái tôi của chính mình, làm nên những diện mạo riêng biệt. Đúng như hoài thanh đã nhận xét: "Tôi quyết rằng chưa có thời đại nào phong phú như thời đại này trong lịch sử thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu". Họ dám lên tiếng, dám thể hiện cá tính của mình, họ dám nổi loạn và không sợ những sự chì chiết của đám đông. Có ai như Xuân Diệu dám bày tỏ: "Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta" hay "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở/ Đời mất vui khi đã vẹn câu thề" (Hồ Dzếnh). Cái tôi có cơ hội được bộc lộ khiến cho màu sắc văn học trở nên đa dạng, phong phú hơn. Hàn Mạc Tử cũng là một cái tôi đầy cá tính, khác lạ trong phong trào Thơ Mới, vừa tha thiết, vừa u uất, sầu muộn.

     Đây thôn Vĩ Dạ trước hết thể hiện một cái tôi say đắm trước thiên nhiên, vẻ đẹp cuộc sống. Bài thơ mở đầu bằng câu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ, vừa mời gọi mà cũng vô cùng tha thiết, giọng điệu đâu đó còn ẩn chứa sự trách cứ nhẹ nhàng. Bằng con mắt của hiện tại, ngược về quá khứ, nhưng Hàn Mặc Tử đã khắc họa lại bức tranh thôn Vĩ hay thiên nhiên xứ Huế vô cùng đẹp đẽ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

     Bức tranh thôn quê hiện lên rực rỡ, lung linh, tràn đầy nhựa sống. Mọi thứ đều ở trạng thái nguyên sơ, tinh khôi nhất. Nắng là thứ nắng mới, khi nắng vừa xuất hiện, không quá gay gắt, nắng như mật non, tưới xuống hàng cau thẳng tắp, khiến mọi vật trở nên ngọt ngào khi được tắm mình trong thứ nắng mới. Trong không gian tràn đầy ánh sáng, khu vườn như viên ngọc khổng lồ xuất hiện. Những giọt sương long lanh, nhỏ bé, khi được ánh nắng chiếu vào tựa như một viên ngọc xanh, lung linh, huyền ảo. Để làm rõ hơn vẻ đẹp của khu vườn tác giả sử dụng từ "mướt" kết hợp với từ "quá" nhấn mạnh vào cái tươi non, mỡ màng của cảnh vật. Điểm vào bức tranh đó là khuôn mặt chữ điền đậm chất Huế. Gương mặt ấy hài hòa với khung cảnh xung quanh đến kì lạ, làm cho cảnh đã đẹp lại càng trở nên thân mật, gần gũi hơn. Khung cảnh tươi đẹp đó là biểu tượng của cuộc sống trần gian rực rỡ, tràn đầy nhựa sống. Mặc dù chỉ là cái nhìn từ hiện tại ngược về quá khứ nhưng lại chân thực vô cùng, nó cho thấy niềm say mê, thích thú của Hàn Mạc Tử với không gian sống nơi đây. Ông thiết tha, say đắm, một tình yêu sâu nặng với con người, với cuộc đời.

     Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bài thơ còn cho ta thấy một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tuyệt vọng:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.

     Mọi sự vật trong bức tranh đều chia lìa đôi ngả: gió đi theo một hưởng, mây đi theo một hướng. Hai sự vật này trong thiên nhiên vốn luôn gắn bó với nhau, vậy mà dưới con mắt của Mặc Tử mọi sự vật đều bị chia lìa, tan tác. Ông đã dùng đôi mắt tâm trạng để nhìn ngắm cuộc đời. Bởi vậy mà khung cảnh cũng tắm trong nỗi buồn "dòng nước buồn thiu", nhịp điệu tẻ nhạt, nhàm chán "hoa bắp lay". Nỗi cô đơn, tuyệt vọng đẩy lên thêm một mức độ mới. Những hình ảnh đó cũng chính là biểu tượng cho cuộc đời ông. Tuổi đời con trẻ, trong lòng hừng hực khát vọng sống nhưng lại mắc phải căn bệnh tai ác, khiến ông phải chia lìa mọi người, chia xa cuộc sống đầy háo hức, vui tươi. Đây chẳng phải là bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời con người đó sao. Vì cô đơn, vì bất hạnh ông tìm đến trăng như một cách để trải lòng, để vơi bớt nỗi buồn, trăng trở thành tri kỉ. Nhưng lòng ông lại đầy lo lắng liệu trăng có kịp về tối nay. Tối nay là tối nào, không ai có thể xác định, nhưng đó quả là khoảng thời gian ngắn ngủi trong một đời người, qua tối nay cơ hội với cuộc sống ngoài kia sẽ vuột tầm tay ông mãi mãi. Bởi vậy mà ông rơi vào trạng thái cô đơn, tuyệt vọng tuyệt đối.

     Cuối cùng đó là một cái tôi hoài nghi. Từ đầu đến cuối bài thơ, ở mỗi khổ ta đều thấy xuất hiện một câu hỏi tu từ:

"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"

"Có chở trăng về kịp tối nay"

"Ai biết tình ai có đậm đà"

     Nó không chỉ cho thấy sự cô đơn, mà còn là cả sự hoài nghi với cuộc đời. Nỗi hoài nghi ấy xuất phát từ chính thế giới mà ông đang sống, tất cả mọi thứ đều trở nên nhạt nhòa, hư ảo: "Mơ khách đường xa, khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh". Lằn ranh giữa thực và hư, giữa hữu và vô dường như không thể phân biệt rõ được nữa, mọi thứ như nhòe mờ, nhập vào nhau, thật khó để xác định nắm bắt. Cũng bởi vậy mà trong lòng ông dâng lên nỗi hoài nghi về tình người, liệu trong một thế giới mà mọi vật đều hư ảo, có mà như không như vậy liệu tình người có đậm đà, liệu người còn nhớ ta, còn thương ta sau một khoảng thời gian cách biệt. Qua đó, bộc lộ rõ khao khát, tình yêu cuộc sống tha thiết, mãnh liệt của ông.

     Đây thôn Vĩ Dạ thể hiện một cái tôi đầy phức tạp và bí ẩn. Hàn Mặc Tử vừa khao khát, tin yêu cuộc sống, vừa hoài nghi băn khoăn về tình người, tình đời. Nó cho thấy sự cô đơn, u uất đến cùng cực trong lòng một kẻ khao khát yêu, khao khát sống nhưng vấp phải bi kịch cuộc đời.

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

1. Mở bài

- Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ ca lãng mạn 1930-1945.

- "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử nằm trong tập "Thơ điên" (hay "Đau thương") được chính nhà thơ tập hợp lại vào 1938.

- Bài thơ thể hiện nổi cô đơn, tuyệt vọng của một con người trong thế giới đau thương đối với cuộc đời đầy niềm vui, ánh sáng bên ngoài.

2. Thân bài

a. Thiên nhiên con người xứ Huế trong buổi bình minh

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền."

- "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" : câu hỏi tu từ - là lời của Hàn Mặc Tử tự phân thân ra để hỏi mình đồng thời vừa mời mọc, trách móc với cả một niềm tiếc nuối. Từ sự phân thân đó, tiếp theo Hàn Mặc Tử đã làm một cuộc hành trình trở về thăm thôn Vĩ trong tâm tưởng. Từ đó, thôn Vĩ đã hiện ra với vẻ đẹp thanh khiết.

- "Nắng hàng cau" đó là thứ nắng mai in trên hàng cau. Trong vườn, cau là loại cây cao nhất vượt lên trên hết các loại cây khác vì thế cau thường bắt được những tia nắng đầu tiên trong buổi bình minh. Trong đêm lá cau thường được sương đêm tắm gội cho nên nó luôn giữ được vẻ tươi mới. Khi hàng cau bắt được nắng thì sẽ tạo ra nắng hàng cau - thứ nắng vàng hanh, mượt mà, long lanh, tinh khiết.

- Mặt trời càng lên cao thì nắng ngập dần khu vườn, đến lúc tràn đầy thì nắng sẽ biến cả khu vườn trở nên xanh thẩm như một viên ngọc lớn. Đặc biệt cách dùng từ ngữ độc đáo : "mướt quá", "xanh như ngọc" - làm nỗi bật ánh xanh và sắc xanh. Cách diễn đạt đó làm tôn lên vẻ đẹp đơn sơ mà hết sức lộng lẫy của vườn Vĩ Dạ.

- "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" : con người thôn Vĩ xuất hiện với vẻ đẹp phúc hậu, hiền từ. Con người hòa quyện với thiên nhiên mang vẻ đẹp kín đáo mờ ảo.

b. Đêm trăng Vĩ Dạ

"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

- Vẫn là cảnh sắc thiên nhiên nhưng trong khổ thơ này cảnh đã được "lạ hóa" in đậm cái Tôi đau thương của nhà thơ. Cảnh có gió, mây, hoa, dòng nước, hoa bắp, con thuyền, bến sông...Nhưng tất cả không một chút ràng buộc, không một mối dây liên hệ với nhau. Trong tự nhiên gió và mây không tách rời nhau. Gió có thổi thì mây mới bay và mây bao giờ cũng bay theo gió. Nhưng ở đây, mây và gió đã chia lìa, đoạn tuyệt với nhau.

- Trong cái xu thế tất cả dường như đều chia lìa, li tán. Trăng đã xuất hiện cùng với con thuyền, bờ bến và dòng sông.

- Sự liên tưởng đầy biến hóa táo bạo của nhà thơ qua hình ảnh "sông trăng" con thuyền "chở trăng". Có thể hiểu hình ảnh "sông trăng" theo hai cách: trăng tỏa sáng xuống dòng sông, nước sông phản chiếu ánh trăng hay ánh trăng tan biến thành nước nên dòng sông hóa thành "sông trăng".

- Trên dòng sông là con thuyền chở trăng về cập bến thời gian "tối nay". Sự liên tưởng đầy biến hóa đã làm cho hai câu thơ tràn ngập ánh trăng. Điều đó ít nhiều làm mờ nhạt đi tâm trạng khắc khoải, thản thốt của nhà thơ ẩn đằng sau hình ảnh trăng, nước.

c. Tâm trạng băn khoăn, hoài nghi

"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"

- Câu thơ thứ nhất trong khổ thơ được ngắt nhịp 4/3. Trong đó có ba âm tiết được lập lại tạo thành điệp ngữ "khách đường xa". Cách ngắt nhịp đó cùng với phép điệp ngữ tạo nên nhịp điệu gấp gáp, hối hả như một lời khẩn khoản, níu kéo trong tuyệt vọng.

- Hình ảnh người con gái xuất hiện trong mơ tưởng với sắc áo trắng, trắng đến nổi nhà thơ thản thốt "nhìn không ra".

- "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh" : Hàn Mặc Tử dùng hình ảnh "mờ nhân ảnh" để chỉ cái tôi đau thương của mình. Cái tôi nhạt nhòa không ra đường nét, tồn tại mà như không tồn tại nữa. ( "Cái quay búng sẵn trên trời - Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm" - "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều). Một sự nhìn nhận đầy mặc cảm. Cái tôi ấy đối lập với con người mặt chữ điền, mặt áo trắng ở cõi đời ngoài kia.

- Trong câu thơ kết - nhà thơ dùng đại từ phiếm chỉ "ai" - "Ai" ở đây có thể là người thôn Vĩ hay bất kì ai hiểu được, cảm thông được cho nỗi đau riêng tư của Hàn Mặc Tử. Cách diễn đạt phiếm định này hé mở cho ta thấy sợi dây tình cảm, sợi dây níu kéo, nối kết hai thế giới - thế giới thôn Vĩ và thế giới đau thương của nhà thơ để hi vọng.

- Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, "Đây thôn Vĩ Dạ" là bức tranh đẹp, thơ mộng về một miền quê đất nước là tiếng lòng của con người tha thiết yêu đời, yêu người.

3. Kết bài

- Bài thơ có cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, có mối tình đẹp nhưng ẩn khuất đằng sau là tình cảm hết sức đáng trân trọng và cảm thông của Hàn Mặc Tử.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

     Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã để lại cho người đọc sâu sắc về một hồn thơ thật độc đáo.

     Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên nơi thôn Vĩ tuyệt đẹp:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

     Bài thơ được bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi gợi cho người đọc hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Đó cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này tuy khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.

     Những câu thơ tiếp theo đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh đầu tiên hiện ra: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ánh nắng của buổi bình minh đã bao trùm khắp làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” - “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Tiếp đến câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi tu từ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Cách so sánh “xanh như ngọc” khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”

(Thơ duyên)

     Cuối cùng, nhà thơ khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong không gian thiên nhiên đó, con người chỉ thoáng xuất hiện. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Dù là cách hiểu nào thì Hàn Mặc Tử cũng đều muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.

     Đối lập với bức tranh thiên nhiên đầy tươi sáng nơi thôn Vĩ, là bức tranh sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

     Hai câu thơ mở đầu của khổ thơ thứ hai, tuy là tả cảnh nhưng khi đọc lên lại thấy nhuốm màu tâm trạng. Hình ảnh thiên nhiên gợi ra sự chia ly “gió theo lối gió, mây đường mây”. Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn là những sự vật luôn quấn quýt, gắn bó với nhau thì ở đây Hàn Mặc Tử lại để “mây và gió” chia cách đôi ngả. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước - một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” - biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” - bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

     Và bức tranh sông nước trong đêm trăng thì sao có thể thiếu mất đi ánh trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

     “Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử thì ánh trăng xuất hiện rất nhiều. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như:

“Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”

(Bẽn lẽn)

     Hay ánh trăng có lúc trở nên thật điên cuồng:

“Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

(Say trăng)

     Còn ở “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” - gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.

     Khổ thơ cuối là dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

     Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

     Qua phân tích trên, người đọc có thể cảm nhận được một hồn thơ mãnh liệt, luôn khát khao giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khơi gợi được những cảm xúc trong sáng mà đầy sâu sắc.

Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử

   1. Tác giả

   Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, quê ở làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Hàn Mặc Tử xuất thân trong một gia đình viên chức nghèo, cha mất sớm, từ nhỏ sống với mợ ở Quy Nhơn và có một thời gian học trung học ở Huế. Hết thời gian ở Huế, Hàn Mặc Tử làm công chức ở Sở Đạc điều Bình Định rồi vào Sài Gòn làm báo. Năm 1936, Hàn Mặc Tử phải trở về Quy Nhơn để chữa bệnh, bốn năm sau ông mất do căn bệnh phong.

   Hàn Mặc Tử làm thơ từ rất sớm (14, 15 tuổi) với nhiều bút danh khác nhau như Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh... Ban đầu Hàn Mặc Tử sáng tác theo thơ cổ điển Đường luật, sau đó chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn. Cuộc đời Hàn Mặc Tử thật ngắn ngủi và chịu nhiều đau thương, nhưng với khả năng sáng tạo và nghị lực phi thường, ông đã để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Qua diện mạo hết sức phức tạp và đầy bí ẩn của thơ Hàn Mặc Tử, người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế.

   Các tác phẩm chính của Hàn Mặc Tử: Gái quê (1936), Thơ Điên (1938), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kì ngộ (kịch thơ —1939), Quần tiên hội (kịch thơ — 1940), Chơi giữa mùa trăng (thơ văn xuôi —1940). Ngoài tác phẩm Gái quê được in khi tác giả còn sống, còn tất cả các tác phẩm còn lại đều dược in thành tập khi Hàn Mặc Tử đã mất.

   2. Tác phẩm

   Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lúc đầu có tên Ở đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên (về sau đổi thành Đau thương). Cảm hứng của bài thơ có thể được lấy từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái quê ở Vĩ Dạ, một xóm nhỏ bên dòng sông Hương.

Dàn ý Ấn tượng của anh chị về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

1. Mở bài

   Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử tập thơ được xuất bản sau khi ông qua đời (1940). Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong cùi và qua đời ba năm sau đó. Với tuổi đời ngắn ngủi và chỉ với hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác.

   Xuất xứ bài thơ có liên quan đến câu chuyện tình giữa thi sĩ nghèo với cô con gái ông chủ sở Đạc Điền – Quy Nhơn. Tuy là một mối tình đơn phương nhưng nó đã để lại trong lòng thi sĩ họ Hàn một ấn tượng sâu sắc. Và trong bài thơ này, ý nghĩa của ấn tượng ấy không chỉ dừng lại ở chỗ đối với một con người cụ thể, một làng quê cụ thể, mà còn có giá trị phổ quát, giá trị nhân văn hết sức sâu đậm.

2. Thân bài

   a. Khổ 1: Sao anh không về...

   - Câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Đó là lời tác giả nói vởi Kim Cúc, hay lời Kim Cúc được tưởng tượng ra để trách móc nhà thơ? Cũng có thể hiểu đó là lời một nhân vật trữ tình phiếm chỉ:

   - Hình ảnh "nắng mới, hàng cau" cùng với lá vườn mướt "xanh như ngọc" tạo ra một bức tranh chói lòa ánh sáng và rực rỡ sắc màu. Người ta không hết bàng hoàng là vì sao, qua hàng trăm năm, bức tranh làng cảnh Việt Nam vẫn thiếu vắng một hình ảnh rất dân dã, quen thuộc mà lại tươi đẹp đến rực rỡ như hình ảnh "nắng mới - hàng cau" trong bài thơ này?

   Câu thơ: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" đã gây nhiều cách hiểu: có người cho đó là gương mặt của người đàn ông vuông vức "chữ điền", tượng trung cho người quan chức thời phong kiến; có người lại cho đó là gương mặt đẹp của người xứ Huế nói chung...., nhưng muốn hiểu thế nào thì câu thơ bí ẩn này vẫn mang phong vị và vẻ đẹp cổ kính, có lá trúc, có gương mặt chữ điền, có thể tượng trưng cho quê hương và con người xứ Huế.

   Trong khổ thơ thứ hai: Gió theo lối gió... kịp tối nay? Cảnh tượng thực bên bờ sông Hương:

   Nhưng đó cũng là ẩn dụ kín đáo. Cái đặc biệt ở đây là ẩn dụ không toàn phần - tức là "ẩn dụ một nửa", "bán ẩn dụ".

   Hai câu tiếp theo là cầu hỏi mơ hồ, đầy ẩn ý:

    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay?

   "Thuyền ai" là câu hỏi dành cho ai? Tại sao lại phải "về kịp?" Sao lại nay?" Tất cả những từ, những chữ ấy đều chứa đựng những điều huyền bí, khiến cho bài thơ như có ma lực, hấp dẫn người ta không dứt.

   c. Khổ 3: Mơ khách đường xa... Ai biết tình ai có đậm dà?

   Những hình ảnh mơ hồ, huyền ảo không ai giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng những hình ảnh mơ hồ ấy rất ám ảnh người đọc, khiến ta cảm thấy đó là những câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.

   Câu hỏi tu từ không thể trả lời, nhưng ta vẫn thấy câu hỏi ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi tu từ. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Đó chính là tình yêu, là tầm hồn Hàn Mặc Tử. Cũng chính là lời yêu nhắn gửi lại cuộc đời này với tất cả những nỗi niềm day dứt khó quên.

3. Kết bài

   Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một hài thơ tình, cũng là một bài thơ về đất nước, con người, nhưng quan trọng hơn là một bức di thư, gửi gắm niềm yêu thống thiết, bắt đầu từ một mối tình dang dở, nhưng kết thúc ở tình đời bao la. Tinh yêu của Hàn Mặc Tử đối với một người con gái xứ Huế, đôi với một làng quê xứ Huế, và rộng lớn hơn là đôi với tất cả cuộc đời này thật sự đã đạt tới một tình yêu bất tử.

Ấn tượng của anh chị về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

     Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ Điên của Hàn Mạc Tử - tập thơ được xuất bản sau khi ông qua đời (1940). Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong cùi và qua đời ba năm sau dó. Với một đời ngắn ngủi và chỉ với hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó. Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác.

     Xuất xứ bài thơ có liên quan đến câu chuyện tình giữa thi sĩ và cô con gái ông chủ sở Đạc Điền - Quy Nhơn. Tuy chỉ là mối tình đơn phương nhưng nó đã để lại trong lòng thi sĩ họ Hàn một ấn tượng sâu sắc. Và trong bài thơ này, ý nghĩa của ấn tượng này không chỉ dừng lại ở chỗ đối với một con người cụ thể, một làng quê cụ thể, mà còn có giá trị phổ quát, giá trị nhân văn hết sức sâu đậm.

     Khổ 1: Sao anh không về...

     Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Đó là lời tác giả nói với Kim Cúc, hay lời Kim Cúc được tường tượng ra để trách móc nhà thơ? Cũng có thể hiểu đó là lời một nhân vật trữ tình phiếm chỉ:

     Hình ảnh “nắng mới, hàng cau" cùng với lá vườn mướt “xanh như ngọc” tạo ra một bức tranh chói lòa ánh sáng và rực rỡ sắc màu. Người ta không hết bàng hoàng là vì sao, qua hàng trăm năm, bức tranh làng cảnh Việt Nam vẫn thiếu vắng một hình ảnh rất dân dã, quen thuộc mà lại tươi đẹp đến rực rỡ như hình ảnh “nắng mới - hàng cau” trong bài thơ này?

     Câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã gây nhiều cách hiểu: có người cho đó là gương mặt của người đàn ông vuông vức “chữ điền”, tượng trưng cho người quan chức thời phong kiến; có người lại cho đó là gương mặt đẹp của người xứ Huế nói chung...., nhưng muốn hiểu thế nào thì câu thơ bí ẩn này vẫn mang phong vị và vẻ đẹp cổ kính, có lá trúc, có gương mặt chữ điền, có thể tượng trưng cho quê hương và con người xứ Huế.

     Trong khổ thơ thứ hai: Gió theo lối gió... kịp tối nay?

Cánh tượng thực bên bờ sông Hương:

Gió theo lối gió mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

     Nhưng đó cũng là ẩn dụ kín đáo. Cái đặc biệt ở đây là ẩn dụ không toàn phần - tức là “ẩn dụ một nửa”, “bán ẩn dụ”.

     Hai câu tiếp theo là câu hỏi mơ hồ, đầy ẩn ý:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

     “Thuyền ai” là câu hỏi dành cho ai? Tại sao lại phai “về kịp” Sao lại “tối nay?” Tất cả những từ, những chữ ấy đều chứa đựng những điều huyền bí, khiến cho bài thơ như có ma lực, hấp dẫn người ta không dứt.

     Khổ 3: Mơ khách đường xa... Ai biết tình ai có đậm đà?

     Những hình ảnh mơ hồ, huyền ảo không ai giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng những hình ảnh mơ hồ ấy rất ám ảnh người đọc, khiến ta cảm thấy đó là những câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.

     Câu hỏi tu từ không thể trả lời, nhưng ta vẫn thấy câu hỏi ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi tu từ. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Đó chính là tình yêu, là tâm hồn Hàn Mạc Tử. Cũng chính là lời yêu nhắn gửi lại cuộc đời này với tất cả những nỗi niềm day dứt khó quên.

     Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ tình, cũng là một bài thơ về đất nước, con người, nhưng quan trọng hơn là một bức di thư, gửi gắm niềm yêu thống thiết, bắt đầu từ một mối tình dang dở, nhưng kết thúc ở tình đời bao la. Tình yêu của Hạn Mặc Tử đối với một người con gái xứ Huế, đối với một làng quê xứ Huế, và rộng lớn hơn là đối với tất cả cuộc đời này thật sự đã đạt tới một tình yêu bất tử.

Dàn ý Phân tích thiên nhiên và con người xứ Huế qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

1. Mở bài:

- Đây Thôn Vĩ Dạ là tác phẩm xuất sắc của Hàn Mạc Tử, tác phẩm nói lên bức tranh thiên nhiên nơi thôn vĩ và tâm hồn của con người hòa với không gian thiên nhiên.

2. Thân bài:

- Bài thơ mang nhiều cảm xúc sâu sắc, đó là hòa nhập với bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng của khung cảnh nơi thôn vĩ, bài thơ mang nhiều xúc cảm sâu sắc với người đọc.

+ Bài thơ đã mang đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, ở đó có con người.

+ Bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng, hòa vào với không gian, thiên nhiên của cảnh vật của bức tranh thiên nhiên nơi xứ Huế, có hình ảnh hàng cau, vườn cúc, có có bức tranh thiên nhiên tươi tắn, mang đến không gian diệu mát và tươi tắn cho không gian, đất trời.

+ Cùng với đó là tâm trạng buồn cô đơn của nhà thơ, khi phải chia xa nơi đây, sự chia cắt làm cho mọi cảnh vật trở nên tiêu điều, cảnh vật của phố Huế nhè nhẹ, gợi tả cảnh sắc có vẻ buồn cô đơn.

+ Tâm trạng của nhà thơ khi trở về xứ Huế, tác giả đã hòa mình vào không gian thiên nhiên, làm cho cảnh vật nhuốm màu buồn thương, cảnh vật làm lay động trái tim của con người, khung cảnh đó biết buồn thương, bi ai và mang những không gian nhẹ nhàng, buồn thiu, làm cảnh sắc như có sự lay chuyển.

+ Khổ thơ đã mang đậm những cảm xúc của nhà thơ khi nhớ về khung cảnh cũ của thiên nhiên, đó là những cảnh tượng nhẹ nhàng, sâu lắng, mang những xúc cảm sâu sắc, trong tâm hồn của con người.

+ Tác giả đang mơ ảo trước không gian đó, xa xăm có hình ảnh mờ ảo của những khung cảnh, thiên nhiên, nhẹ nhàng và sâu lắng trong tâm hồn của con người.

+ Tình cảm của con người cũng tàn phai, trở nên vô vọng trước không gian và thời gian trước cảnh vật của cuộc sống, nó nhẹ nhàng, mang đến màu sắc, sự tươi tắn trước những khung cảnh của không gian thiên nhiên.

+ Bài thơ đã mang những xúc cảm đặc biệt của con người trước không gian thiên nhiên nơi đây, nó nhẹ nhàng, tinh tế và mang nhiều xúc cảm sâu sắc trước cuộc sống, thiên nhiên và con người.

+ Bài thơ đã mang đến cho người đọc những tình cảm chân thành, và bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng, mang đến nhiều xúc cảm sâu sắc cho người đọc.

3. Kết Luận:

- Bài thơ đã mang đến cho con người đọc không gian thiên nhiên rộng lớn, mênh mông, ở đó con người được hòa mình vào khung cảnh của thiên nhiên, đất trời.

Phân tích thiên nhiên và con người xứ Huế qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

   Cuộc sống của con người luôn gắn liền với thiên nhiên. Đó chính là những mặt của cuộc sống. Những tâm hồn nghệ sĩ nhiều khi thốt ra thành những bài thơ, câu hát qua những cảnh sắc tươi đẹp của thiên nhiên. Đối với nhiều người thiên nhiên đó chính là người bạn tri kỷ của họ. Để họ quên đi những nỗi cô đơn, muộn phiền trong cuộc sống.

   Cảnh sắc thiên nhiên sẽ làm cho họ trở nên vui vẻ, phấn chấn hơn. Ví như nhà thơ Hàn Mặc Tử là điển hình cho một con người luôn bị thiên nhiên lay động, làm nên những bài thơ đẹp về thiên nhiên về cuộc sống.

   Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông đó chính là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ta có thể thấy nổi bật lên hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế mà cụ thể là thiên nhiên con người thôn Vĩ.

   Mở đầu bài thơ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.

   Một câu thơ vang lên như một sự chờ đợi và nhắn nhủ nhớ mong. Có một chút gì đó buồn tủi và cô đơn, một cái gì đó cảm giác trống vắng. Nhà thơ mong muốn có một ai đó đến đây để có thể ngắm nhìn thôn Vĩ, chiêm ngưỡng thôn Vĩ và trò chuyện cùng mình. Một câu thơ nhẹ nhàng nhưng ẩn chứa tâm tư của một người đang chờ đợi.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

   Hình ảnh thôn Vĩ bắt đầu hiện lên. Một vẻ đẹp trong buổi sớm mai rất bình dị với hàng cau, với vườn cây xanh vẫn còn đọng những hạt sương trên lá như ngọc long lanh trong nắng sớm. Một vẻ đẹp tinh khôi, tất cả như đang bừng sáng trong ánh nắng. Thôn Vĩ Dạ như đang khoác trên mình một chiếc áo mới, của một ngày mới rất lung linh và diệu kỳ.

   “Nắng hàng cau” là cái nắng dịu nhẹ của bình minh, màu xanh “mướt” như “ngọc” là một màu xanh trong trẻo lung linh khắp cả khu vườn. Tình yêu thiên nhiên, yêu cái thôn “Vĩ”, yêu quê hương của Hàn Mặc Tử đã được bộc lộ một cách sâu sắc.

   Chỉ có thể với một người yêu vẻ đẹp quê hương mình đến thế, với tâm hồn thi sĩ vốn có mới có thể thốt nên những câu thơ hay, đẹp và trong sáng đến như vậy. Một vẻ đẹp rất bình dị của một làng quê xứ Huế.

   Trong cái khung cảnh bừng tỉnh của một ngày mới đó. Cái tâm hồn của con người cũng bừng tỉnh. Những ấn tượng của cảnh sắc đập vào giác quan. Khiến nhà thơ bật lên một cái gì đó thổn thức, nhớ nhung và mơ hồ. Một hình ảnh của con người xuất hiện trong cái khung cảnh đó.

“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”

   Hình ảnh một bóng người thấp thoáng qua hàng trúc với chiếc lá chen ngang. Một con người đẹp, với khuôn mặt chữ điền trong cái phong cảnh tao nhã đó đã xuất hiện. Như có một điều gì đó hòa quyện vào cảnh vật. Không bộc lộ rõ ra, mà chì là một sự lấp ló của khuôn mặt đẹp bị che một phần bởi hình ảnh lá trúc quen thuộc.

   Có lẽ đây chính là vẻ đẹp tao nhã mà chỉ có đến với thôn Vĩ Dạ mới cảm nhận được. Một chút gì đó là man mác trong cái khung cảnh bừng sáng của một buổi sáng sớm. Dường như thể hiện hai cảm xúc, trạng thái khác nhau trong cùng một khung cảnh, thấm đẫm lòng người.

   Khuôn mặt đẹp, thanh tú kia liệu có phải là một con người thật hay chỉ là một hình ảnh tưởng tượng của nhà thơ về một người bạn tâm giao, một người bạn tri kỷ. Chỉ sau khi đọc những câu thơ tiếp theo chúng ta mới hiểu được, đó là sự nhớ nhung của tác giả về một con người.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

   Hai câu đầu của khổ thơ thứ hai là một bức tranh phong cảnh hữu tình, đượm buồn làm thổn thức tâm hồn người. Một sự tả thực nhưng gọi lên cái hồn xứ Huế buồn man mác với gió mây nhè nhẹ bay, với dòng sông nước chảy chậm lững lờ, hàng cây cỏ khẽ đung đưa.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

   Âm điệu của câu thơ vang lên buồn bã. Sự sống của cảnh vật có chút gì đó đang lay lắt, mệt mỏi. Khiến người ta nhìn vào cũng cảm thấy mệt mỏi. Nhưng cái sự lay lắt đó không phải là do thời tiết, thiên nhiên. Mà nó do ánh mắt của một con người đang trong nỗi buồn nhung nhớ nhìn vào. Gió thổi, mây bay như một sự vô tâm chẳng hề liên quan. Và một sự xa cách, một sự chia lìa về tình cảm, tình người đã được thể hiện ở hai câu thơ sau.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

   Âm điệu buồn bã lại được nhân lên qua một câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ.Tả cảnh thực hay là cảnh đã được tâm trạng hoá, bộc lộ nỗi niềm thi nhân. Cái ngược chiều của gió, mấy khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ này.

   Một hình ảnh sông trăng đã được cách điệu lên, ánh trăng đẹp nhưng như là một sự mơ hồ, ảo ảnh về một người mà tác giả đang chờ đợi. Trong cái khung cảnh buồn thiu, lay lắt kia, dưới ánh trăng soi rọi là một hình ảnh một con thuyền cô độc vẫn đang nằm im, vẫn chưa rời bến. Và như một sự thúc giục, thuyền ơi sao lại nằm im như thế, sao vẫn chưa đi đón người đó cùng với ánh trăng trong cái đêm tối này. Sự cách điệu, nhân hóa, đã khiến cho sự buồn bã và nhung nhớ được tăng lên.

   Một sự trông ngóng, một niềm hy vọng đến da diết, nhưng rồi lại có sự hoài nghi với một câu hỏi chưa lời giải đáp. Những câu thơ thể hiện một nỗi niềm thi nhân, trong cái cảnh sắc của mây trời sông nước đang cảm thấy thiếu đi một cái tình đời, tình người cùng chia sẻ tâm sự.

   Khổ thơ cuối của bài thơ cất lên, người đọc đã hiểu hơn về người mà tác giả đang nhung nhớ và chờ đợi trong vô vọng.

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

   “Khách đường xa” ở đây chính là hình ảnh một người con gái đã khiến cho Hàn Mặc Tử say đắm trong cả một giấc mộng dài với hình ảnh “Áo em trắng”. Người con gái đó đã từng đến trong cuộc đời của ông chăng, và người con gái đó đã ra đi trong sự tiếc nuối của nhà thơ.

   Người con gái đó đã khiến cho cái tâm hồn thi sĩ của Hàn Mặc Tử phải thốt lên những câu thơ buồn man mác về một tình yêu, hạnh phúc chưa thể với tới được. Hình ảnh “Áo em trắng quá nhìn không ra” và “sương khói mờ nhân ảnh”. Là hình ảnh một cô gái đẹp trong tà áo trắng bị che mờ bởi lớp sương khói và nhà thơ hi vọng đó chính là người con gái mình yêu, mình đang nhung nhớ.

   “Mơ khách đường xa” là một giấc mơ, một giấc mộng đẹp về một con người, về một người tâm giao mà tưởng chừng sẽ là tri kỷ suốt cuộc đời này của tác giả.

   Cái màu sắc trắng xen lẫn hình ảnh khói sương có phải là một sự tưởng tượng về một hình ảnh không có thực trong cái đôi mắt đã đậm cảm giác buồn của nhà thơ, một vẻ đẹp tinh khôi mờ mờ ảo ảo mà không thể với tới được. Một mối tình mong manh tựa sương khói, một bóng hình ẩn hiện trong sương khói.

   Và như một sự thức tỉnh của nhà thơ khi đã nhận ra đó chỉ là một sự mơ hồ của mình. “Ai biết tình ai có đậm đà?” như là một sự trách móc, như là một câu hỏi, như là một sự tự an ủi một tâm hồn đã ôm một cái mộng cảnh, một cái mộng tình đơn phương và vẫn mong rằng người đó có thể nào thấu hiểu trái tim mình.

   Nhưng cũng có người lại cho rằng, tác giả đang mộng tưởng về một người tác giả đem lòng yêu, nhưng đã xa rời ông từ giã cõi đời này và chỉ để lại một mình ông trong nỗi cô đơn. Nhưng cũng có người lại suy luận, tác giả đã đem lòng yêu một người con gái nhưng người đó đã xa rời ông trong sự lặng lẽ và quên mất ông, người đã dành cho cô gái một tình yêu đẹp.

   Một câu thơ khiến cho chúng ta có nhiều cách hiểu khác nhau, những suy nghĩ khác nhau. Nhưng hội tụ lại đó là sự thể hiện một tấm chân tình của Hàn Mặc Tử về một người con gái xứ Huế.

   Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chúng ta phần nào thấy được một bức tranh xứ Huế đẹp mộng mơ, tao nhã. Và trong cái khung cảnh đó, trái tim của người nghệ sĩ, nhà thơ như Hàn Mặc Tử hay bất kỳ ai yêu thiên nhiên cũng có thể bộc lộ được cái tâm trạng cảm xúc của mình.

   Một xứ Huế đẹp mộng mơ qua hình ảnh thôn “Vĩ Dạ” nhưng lại đượm buồn, nhung nhớ. Bài thơ mượn hình ảnh thiên nhiên, để gột tả nên tâm trạng một con người đang cô đơn và chờ đợi. Thôn Vĩ chính là một hình ảnh đẹp về một vùng đất của xứ Huế sẽ làm say đắm lòng người, và sẽ làm mê mẩn những tâm hồn thi sĩ.

   Bài thơ thể hiện một tình yêu thiên nhiên và tâm trạng của Hàn Mặc Tử thực sự rất sâu sắc bởi chính ông.

Tổng hợp các bài văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ hay khác:

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:

Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 11

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.




Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên