Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (hay, ngắn gọn)



Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (hay, ngắn gọn)

Quảng cáo

Bài giảng: Đây thôn Vĩ Dạ - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Quảng cáo

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - mẫu 1

Có một thi sĩ Việt mà đến hai thành phố lấy tên ông đặt cho những con đường, đó là Hàn Mặc Tử. Ông là một hiện tượng kì lạ bậc nhất của phong trào thơ mới, được Chế Lan Viên nhận xét: “Trước không có ai, sau không có ai Hàn Mặc Tử như ngôi sao trổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Nhắc đến Hàn Mặc Tử người ta không quên hình ảnh tươi đẹp của thiên nhiên và con người xứ Huế mộng mơ qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đó là bức tranh tuyệt đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa nét thực và hư mộng cuộc đời, cũng là tiếng lòng yêu tha thiết cuộc sống của thi sĩ.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938 lúc đầu có tên “Ở đây thôn Vĩ Dạ” sau được đổi lại. Tác phẩm được in trong tập “Thơ điên” (sau đổi thành “Đau thương”). “Đây thôn Vĩ Dạ” được gợi nguồn cảm hứng từ mối tình đơn phương của nhà thơ với một người con gái xứ Huế mộng mơ là Kim Cúc. Đó là con gái của viên chức cấp cao, thiếu nữ mang trong mình nét đẹp dịu dàng, duyên dáng giữ nét chân quê. Hàn Mặc Tử yêu người con gái thầm kín, chỉ dám đứng nhìn từ xa. Mối chân tình ấy được nhà thơ ấp ủ gửi vào tập “Gái quê”. Sau đó Hoàng Cúc theo cha về thôn Vĩ Dạ ở Huế nên ông buồn tủi, đau đớn lại mang trong mình căn bệnh phong khiến nỗi đau ấy càng da diết. Bạn của Hàn Mặc Tử là Hoàng Tùng Ngâm (anh họ Hoàng Cúc) biết được nỗi tâm tình đó nên đã viết thư gửi ra Huế cho Cúc khuyên nàng viết thư thăm hỏi, động viên một tâm hồn bất hạnh. “Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái danh thiếp. Trong ảnh có mây, có nước, có cô gái chèo đò với chiếc đò ngang, có mấy khóm tre, có cả ánh trắng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau một thời gian, tôi nhận được bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” và một bài thơ nữa do Ngâm gửi về”. Chính tấm bưu ảnh trực tiếp sự khơi gợi cảm xúc cùng với mối tình thầm kín của Hàn Mặc Tử đã viết nên một thi phẩm giàu cảm xúc, giàu hình ảnh mộng mơ và thẫm đẫm nỗi buồn man mác trong tâm hồn thi nhân.

Quảng cáo

Thôn Vĩ Dạ là một thôn nhỏ nằm bên bờ sông Hương xứ Huế. Nơi đây là một khu nhà vườn tuyệt mĩ có cây cảnh, cây ăn quả rất nổi tiếng trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho các thi nhân, tiêu biểu là câu thơ của thi sĩ Bích Khê: “Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn/ Biếc tre cầu trúc không buồn mà say”. Hay câu thơ tả vẻ đẹp thần tiên Cồn Hến Vĩ Dạ: “Ti trúc mê li xuân dưới nguyệt/ Cỏ hoa vờ vật mộng trong hương…”

Mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là câu thơ mang hình thức câu hỏi tu từ với nhiều sắc thái, ý ngĩa khác nhau: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Liệu có phải đây là lời trách móc nhẹ nhàng cũng là lời mời tha thiết về thăm thôn Vĩ của cô gái? Hay là lời tự trách của Mặc Tử sao không về chơi thôn Vĩ, cụm từ “về chơi” thật chân tình, chân thành và rất gần gũi, thân thương. Câu thơ mở đầu của Hàn Mặc Tử rất đặc biệt ông biết cách đặt thanh bằng vào tiếng thứ ba “không” và nhất là sự táo bạo phá luật, thất lệ ở tiếng thứ tư “về” đặt một thanh bằng vì theo như thể thơ thất ngôn tứ tuyệt nó phải là một thanh trắc vì theo lệ “Nhị tứ lục phân minh”. Nếu câu thơ mở đầu là “Sao anh không ghé chơi thôn Vĩ?” hay câu “Thôn Vĩ sao anh không về chơi?” thì nó lại mang một ý thơ khác không còn là cái tôi đặc sắc riêng của Hàn Mặc Tử. Ông giống như Thôi Hiệu phá cách trong câu thơ “Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ”. Nhờ thể bằng ở tiếng thứ nhất, thứ hai và thứ sáu tao đà cho một loạt thanh bằng tiếp theo trước khi kết thúc bởi thanh trắc vút cao ở chữ “Vĩ” thật tuyệt sắc tuyệt mĩ. Câu thơ gợi lại cho ta nhiều suy ngẫm, trăn trở về một hồn thơ “Tài hoa bạc mệnh”.

Mở ra đằng sau câu hỏi ấy là bức tranh tả cảnh sắc thôn Vĩ trong nắng sớm bình minh: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Ấn tượng độc đáo là nắng hàng cau, trong vườn cau là loài cây cao nhất, loài cây được đón ánh nắng bình minh đầu tiên. Cụm từ “nắng mới” dùng để chỉ ánh ánh nắng tinh khôi buổi sáng, từ mới tô đậm sự trong trẻo, tinh khiết. Vẫn là ánh nắng ngày nào nhưng trong con mắt của thi sĩ nó thật đẹp thật chan hòa, ấm áp biết bao. “Vườn ai” gợi cảm giác mơ mồ, bất định với cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” gây tò mò với vẻ đẹp bí ẩn không thể sở hữu. Tính từ “mướt” chỉ màu xanh non tơ, mỡ màng của cây lá tràn đầy sức sống với sắc tình xuân được so sánh với màu xanh của ngọc_một màu xanh dịu nhẹ có sức hút kì lạ. Dưới cái nhìn của thi nhân khu vườn sáng sớm mang vẻ đẹp lung linh, huyền ảo khi buổi đêm được tắm sương hôm, sáng đến lại được ngập tràn trong nắng mới. Đó là một vẻ đẹp của thanh tú, thuần khiết của một vùng quê yên ả khiến cho nhà thơ ngạc nhiên, trầm trồ trong hạnh phúc.

Trên nền cảnh thiên nhiên con người bỗng được hiện lên: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền ở đây là một gương mặt cụ thể của một người con gái mang vẻ đẹp duyên dáng e lệ đằng sau lá trúc hay đó là sự cách điệu hóa của nhà thơ để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Huế chịu thương chịu khó, ngay thẳng, kín đáo và phúc hậu? Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng có thể thấy được vẻ đẹp của con người hiện lên sau câu thơ. Đó là hình ảnh hư hư thực thực mang lại cảm giác về cái đẹp mộng mơ. Hơn một lần thi sĩ đã gợi nhắc hình ảnh người con gái và trúc trong thơ: “Thầm nghĩ với ai ngồi dưới trúc/ Nghe ra ý nhị và ngây thơ”. Như vậy với bút pháp ước lệ tượng trưng thi nhân đã tạo nên bức tranh tuyệt mĩ kết hợp hài hòa vẻ đẹp thiên nhiên buổi sớm và sự duyên dáng, kiều diễm của con người, cho thấy tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên sâu sắc của con người bị hành hạ đau đớn đến quằn quại vì bệnh tật.

Tưởng chừng như mạch thơ bị đứt đoạn, nhà thơ đã chuyển cảnh đột ngột từ bình minh sang đêm trăng thơ mộng. Đó là một nét độc đáo trong tư duy thơ của Hàn Mặc Tử, bên ngoài có vẻ rời rạc nhưng ẩn sâu bên trong là sự logic của mạch cảm xúc. Nhà thơ đang mang trong mình tâm trạng háo hức, mong chờ được về chơi thôn Vĩ thì lại chuyển sang buồn tủi, cô đơn như tỉnh mộng trở về với thực tại khắc nghiệt bởi mối nhân duyên ấy bị ngăn cách, cản trở do căn bệnh nan ý lúc bấy giờ. Những hình ảnh thiên nhiên cũng nhuốm màu chia li, buồn tủi của nhà thơ:

Quảng cáo

    “Gió theo lối gió mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.

Đáng lẽ mây và gió là là một cặp song hành với nhau, gió thổi mây bay nhưng ở đây Hàn Mặc Tử lại nhìn thấy nó li biệt gió lối gió, mây đường mây tạo thành nghệ thuật tiểu đối cùng với cách ngắt nhịp 4/3 gợi sự ngăn cách đôi ngả. Cái nhìn và sự quan sát của nhà thơ vận động từ cao xuống thấp, từ xa đến gần. Thi nhân lia ống kính tâm hồn từ cảnh vật trên trời xuống dòng nước bên dưới đang chảy chầm chậm, lững lờ. Hình ảnh hoa bắp lay nhẹ, khẽ khàng để hô ứng với nước. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để làm cho dòng nước cũng biết buồn thiu. Ở đây có bút pháp tả cảnh ngụ tình, Hàn Mặc tử tả cái buồn hiu quạnh của cảnh vật để gợi đến tâm trạng buồn tủi, cô đơn của bản thân, chẳng tự nhiên mà dòng nước có thể buồn mà bởi cái nhìn buồn rầu, ảm đạm của nhà thơ mà trở nên như vậy. Đúng như Nguyễn Du đã từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Như vậy hai câu thơ đặc tả hình ảnh thiên nhiên chia đôi, rời rạc để gợi tả hoàn cảnh, tâm trạng thi nhân.

Mạch cảm xúc lại bị chuyển khi từ một dòng nước buồn thiu giờ đây lại trở thành một dòng sông tràn ngập ánh trăng:

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay”

Trăng, gió, mây là nguồn cảm hứng sáng tác của các thi nhân bao đời như bài thơ “Buồn trăng” của Xuân Diệu có viết: “Gió sáng bay về, thi sĩ nhớ/ Thương ai không biết đứng buồn trăng/ Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió/Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng”.Trong thơ Hàn ta thấy ông luôn bầu bạn với ánh trăng, trăng là tri âm tri kỉ là nơi trú ngụ linh hồn cuối cùng của nhà thơ để trốn tránh thực tại bệnh tật. Trang thơ ông có biết bao hình ảnh ánh trăng tuyệt mĩ, bất thường, bất hủ: “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi” hay “Trăng ngậm đầy sông chảy lai láng”, ở trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đó cũng là một sông trăng có “thuyền ai” đậu trên đó, có ánh trăng tan chảy làm cho dòng nước ngập tràn trăng đêm lung linh, mờ ảo. Cái lạ của câu thơ không chỉ vì đây là một câu thơ siêu thực, lạ vì siêu thực một cách rất hiện thực dưới sự đặc tả của Mặc Tử. Câu hỏi tu từ trong hai câu thơ mang tâm trạng băn khoăn của tác giả. Từ “kịp”cho thấy cuộc chạy đua của người bệnh với thời gian cuộc đời, “tối nay” là một đêm sao ngắn ngủi thế. Ta cảm thấy trong hồn thơ Hàn luôn mang tâm trạng mặc cảm khác với quan niệm về cái chết của Xuân Diệu. Ông hoàng thơ tình luôn nhìn thấy cái chết ở phía cuối con đường nên ông càng phải tranh thủ sống có ích, có nghĩa từng ngày tối đa với hạnh phúc, còn thi sĩ Hàn_con người bất hạnh mang trong mình căn bệnh phong đáng sợ luôn nhìn thấy cái chết cận kề, đối với ông chỉ cần được sống thôi là hạnh phúc. Nếu thuyền để chở người, chở đồ thì với nhà thơ là chở trăng_hiện tượng tự nhiên cao vời vợi ở trên trời. Đó là nét mờ ảo xen lẫn hiện thực cho thấy sự khắc khoải tuyệt vọng của nhà thơ gợi thương cảm, xót xa cho số phận thi nhân tài hoa tài tử mà lại gặp phải bi kịch cuộc đời. Tử càng điên cuồng yêu đời bao nhiêu thì càng bị hành hạ đau đớn đến quằn quại bấy nhiêu bởi bệnh tật. Đúng như L.Tolstoi đã từng nói: “Khó khăn hơn cả là yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của mình”.

Quảng cáo

Chất thơ của Hàn Mặc Tử luôn được đan xen hài hòa giữa chất hiện thực và cõi ảo mộng. Hiện thực khắc nghiệt quá nên nhà thơ tìm về với vẻ đẹp của cõi mộng để an ủi lòng mình nhưng mộng dù có dài lâu đến mấy thì cũng phải tỉnh để rồi nhà thơ rơi vào ảo ảnh thực tại:

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?”

Mơ là trạng thái vô thức khi con người ta chìm đắm trong cõi mộng, điệp từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần mang hai trạng thái cảm xúc. Lần đầu là khát vọng mơ gặp khách đường xa, lần sau là thực tại càng muốn mơ thấy người khách thì lại thấy đường càng xa. Tác giả mơ về bóng giai nhân trong ảo ảnh. Không thể thoát ra khỏi cõi mộng tác giả đem về hiện tại với hình ảnh hư thực “Áo em trắng quá nhìn không ra” đó là áo em với một màu trắng tinh khôi, tinh khiết, nhà thơ cực tả sắc trắng một cách kì lạ, bất ngờ nên khiến cho “em” chìm vào cõi ảo. Câu thơ thứ ba xuất hiện làm cho lớp nghĩa câu hai càng rõ nét. Thời tiết ở Huế nắng nhiều, mưa nhiều và sương cũng nhiều. Sương khói làm mờ đi hình bóng của “em”, lại cộng thêm sắc trắng của áo khiến cho bóng giai nhân vừa gần vừa xa, vừa thực vừa hư. Đây là ảo giác xa rời với hiện thực. Dường như điều đó càng làm cho tâm trạng thi nhân thêm khắc khoải được thể hiện qua sự lặp lại của đại từ phiếm chỉ ai: “Ai biết… ai có…” ở câu cuối nhấn mạnh tâm trạng bâng khuâng, xót xa của một tâm hồn khao khát được sống được yêu và yêu say đắm với người con gái xứ Huế mang tên một loài hoa. Câu thơ hàm chứa hai ý nghĩa đối lập nhau: Trước hết làm sao để biết được tình cảm của người xứ Huế nơi xa có đậm đà không hay như là sương khói mù mịt rồi tan đi. Thứ hai làm sao để cô gái ấy biết được tình cảm nhớ thương da diết của nhà thơ dành cho nàng. Câu hỏi thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng, đau đớn của một tâm hồn thơ tài năng mà hoàn cảnh, số phận nhuốm màu bi thương.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” với bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình cùng với ngôn từ trong sáng được chắt lọc, hình ảnh thơ đặc sắc và lối sử dụng điệp từ đã thể hiện được tiếng lòng của nhà thơ trữ tình mới lạ. Ông xứng đáng là một thiên tài trác tuyệt nổi bật trong những nhà thơ mới với hồn thơ đau thương của con người bệnh tật nhưng vẫn ham sống mãnh liệt tạo nên một hồn thơ lạ trong nền văn học Việt Nam đúng như ý thơ của Nguyễn Viết Lãm dành cho thi sĩ Hàn: “Tử thân yêu, hồn thơ anh chỉ một/ Hành tinh chật rồi không chứa nổi hai đâu”

Dàn ý Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả và bài thơ:

  - Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ Mới, với những tác phẩm mang đậm màu sắc lãng mạn, đau thương và thiên nhiên huyền bí.

  - "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ nổi bật của Hàn Mặc Tử, được viết khi tác giả đang mang trong mình căn bệnh phong hành hạ, nhưng vẫn tràn ngập cảm xúc lãng mạn, tình yêu quê hương, đất nước và niềm khao khát về một tình yêu đích thực.

  - Bài thơ không chỉ thể hiện sự nhớ nhung về quê hương mà còn phản ánh tâm trạng của một người bệnh đang tìm kiếm sự an ủi trong tình yêu và thiên nhiên.

II. Thân bài:

1. Khung cảnh thôn Vĩ Dạ – Biểu tượng của thiên nhiên yên bình và mộng mơ:

   - Hình ảnh thôn Vĩ Dạ trong những câu thơ đầu:

     + "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" – Câu hỏi này thể hiện sự mời gọi tha thiết và khát khao về một không gian êm đềm, tĩnh lặng của thôn Vĩ Dạ, đồng thời là sự bày tỏ nỗi nhớ về một không gian quen thuộc gắn liền với những ký ức đẹp.

     + "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên": Hình ảnh nắng mai chiếu rọi lên những hàng cau là một hình ảnh đặc trưng của vùng quê miền Trung, mang đến không gian trong lành, sáng sủa.

     + "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc": Hình ảnh vườn cây xanh mướt, giống như những viên ngọc quý, mang đến một cảm giác tươi mới, thanh khiết của thiên nhiên thôn Vĩ Dạ.

     + "Lá trúc che ngang mặt chữ điền": Hình ảnh lá trúc che khuất mặt chữ điền, vừa gợi sự kín đáo của người con gái trong làng, vừa gợi lên vẻ đẹp e ấp, dịu dàng của quê hương.

2. Tâm trạng của tác giả: Khao khát trở về và tình yêu da diết:

   - Sự khao khát và tình yêu quê hương:

     + Tác giả gửi lời mời gọi trở về thôn Vĩ, nơi yên bình và đầy kỷ niệm đẹp. Đây không chỉ là mời gọi về một không gian vật lý mà là một khát vọng trở lại với những cảm xúc tươi đẹp của tuổi trẻ và tình yêu.

     + Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên mà còn là sự khát khao tìm lại sự yên bình trong tâm hồn giữa lúc cuộc sống đầy đau đớn do bệnh tật.

   - Tình yêu và khát vọng gần gũi nhưng cũng xa vời:

     + Tác giả mơ mộng về một tình yêu đẹp, một không gian lý tưởng nơi thiên nhiên và tình yêu hòa quyện. Nhưng cũng có sự mâu thuẫn giữa cái thực tại và mộng ảo, tình yêu của tác giả vừa gần gũi nhưng lại vừa xa vời, không thể nắm bắt được.

3. Sự chuyển động của thiên nhiên và mối liên hệ với tâm trạng tác giả:

   - Chuyển động tự do của thiên nhiên:

     + "Gió theo lối gió, mây đường mây": Câu thơ này diễn tả sự tự do, phiêu diêu của gió và mây trong thiên nhiên. Tuy nhiên, sự tự do này lại không hoàn toàn hòa hợp với tâm trạng của tác giả, bởi tác giả vẫn cảm thấy bị giam cầm trong tình cảnh bệnh tật và cô đơn.

   - Sự cô đơn và buồn bã của dòng nước:

     + "Dòng nước buồn thiu": Hình ảnh dòng nước buồn thiu gợi lên sự tẻ nhạt, không có sức sống, đồng thời phản ánh tâm trạng chán nản, cô đơn của tác giả.

    +- "Hoa bắp lay": Hoa bắp lay nhẹ, vừa là hình ảnh đẹp của thiên nhiên, nhưng cũng mang một chút u buồn, gợi lên sự trôi qua, mơ hồ của thời gian và tình yêu.

4. Những câu hỏi đầy mơ mộng và khát khao về tình yêu:

   - Khát vọng về tình yêu huyền ảo:

     + "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?": Câu hỏi này thể hiện sự khát khao tìm kiếm một điều gì đó đẹp đẽ và huyền bí. Hình ảnh thuyền đậu bên bến sông trăng là biểu tượng cho một tình yêu lý tưởng, một ước mơ về sự kết hợp giữa tình yêu và thiên nhiên.

     + Câu hỏi "Có chở trăng về kịp tối nay?" không chỉ là một ước mơ, mà còn là nỗi mong muốn tình yêu sẽ đến, sẽ trọn vẹn như ánh trăng sáng trong đêm tối.

5. Nỗi buồn về tình yêu không trọn vẹn và sự cô đơn:

   - Mơ mộng về một tình yêu xa vời:

     + "Mơ khách đường xa, khách đường xa": Hình ảnh người khách đường xa là một hình ảnh ẩn dụ cho tình yêu mà tác giả đang mơ mộng. Tình yêu này dù gần gũi trong tâm tưởng nhưng lại xa vời, không thể đạt được.

   - Áo trắng và sự mơ hồ của tình yêu:

     + "Áo em trắng quá nhìn không ra": Hình ảnh áo trắng trong bài thơ vừa là hình ảnh đẹp của người con gái, nhưng cũng mang tính chất mơ hồ, không rõ ràng, như tình yêu mà tác giả khao khát.

   - Sương khói và sự mờ ảo của tình cảm:

     + "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh": Sương khói là một hình ảnh tượng trưng cho sự mờ ảo, khó nắm bắt của tình yêu. Tình cảm của tác giả luôn bị bao phủ trong sự mơ hồ, không rõ ràng, phản ánh nỗi buồn và sự cô đơn.

6. Sự tự vấn và hoài nghi về tình yêu:

   - "Ai biết tình ai có đậm đà?": Câu hỏi này thể hiện sự tự vấn về tính chân thật và đậm đà của tình yêu. Tác giả hoài nghi về sự bền chặt và sâu sắc của tình cảm mà mình nhận được, làm nổi bật sự cô đơn và khắc khoải trong tâm hồn.

III. Kết bài:

- Tổng kết và đánh giá ý nghĩa bài thơ:

  + "Đây thôn Vĩ Dạ" là một tác phẩm mang đậm màu sắc lãng mạn và tình yêu quê hương của Hàn Mặc Tử. Qua những hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, tác giả đã thể hiện một khát khao về sự trở về với quá khứ, với tình yêu và những ký ức ngọt ngào.

  + Bài thơ không chỉ là lời mời gọi, mà còn là sự thể hiện sâu sắc về tâm trạng cô đơn, khắc khoải, sự hoài nghi trong tình yêu và sự mong đợi không bao giờ ngừng nghỉ. Hình ảnh thiên nhiên, tình yêu và nỗi nhớ trong bài thơ tạo nên một không gian huyền ảo, đầy cảm xúc và sự mơ mộng, làm nổi bật tâm trạng của một con người đang sống giữa hy vọng và thất vọng.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - mẫu 2

Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một trong những tác phẩm nổi bật trong thơ mới, mang đậm chất lãng mạn và thấm đẫm nỗi nhớ nhung, khát khao yêu đương. Bài thơ được sáng tác vào giai đoạn Hàn Mặc Tử đang phải đối mặt với bệnh tật và những nỗi buồn riêng tư. Dù vậy, trong bài thơ này, ông đã khéo léo dùng hình ảnh thiên nhiên để thể hiện nỗi nhớ, sự cô đơn và khát khao gặp gỡ người yêu. Qua đó, bài thơ trở thành một minh chứng cho sự kết hợp giữa cảm xúc mãnh liệt, cái nhìn tinh tế về thiên nhiên và những khát vọng tình yêu da diết.

Bài thơ mở đầu với một câu hỏi đầy khát khao và sự mong mỏi:

 "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"

Câu hỏi này không chỉ là lời mời gọi mà còn là sự thể hiện của tình cảm sâu lắng, nỗi nhớ nhung của tác giả đối với người yêu. Cách xưng hô "anh" thể hiện sự thân mật, gần gũi, làm cho câu hỏi không chỉ mang tính chất mời gọi mà còn chất chứa sự băn khoăn, lo lắng. Thôn Vĩ trong thơ Hàn Mặc Tử không chỉ là một ngôi làng miền Trung bình dị, mà còn là một biểu tượng của sự bình yên, của nơi tình yêu có thể được đón nhận, nuôi dưỡng.

Tiếp theo, Hàn Mặc Tử miêu tả những hình ảnh thiên nhiên đặc trưng của thôn Vĩ Dạ, làm nổi bật vẻ đẹp thanh thoát và trữ tình của nơi đây:

 "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên 

 Vườn ai mướt quá xanh như ngọc 

 Lá trúc che ngang mặt chữ điền."

Những câu thơ này vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, trong lành, thanh khiết của một làng quê yên bình. Hình ảnh "nắng mới lên" như đánh thức không gian sống động, "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" gợi lên vẻ đẹp mát mẻ, tươi mới của cây cối, cho thấy sự trù phú của thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Những chi tiết như "lá trúc che ngang mặt chữ điền" mang đậm chất cổ điển của làng quê Bắc Bộ, với hình ảnh ngôi nhà mái chữ điền - là hình ảnh quen thuộc của những ngôi nhà truyền thống. Cảnh vật nơi đây, qua mắt nhìn của tác giả, trở thành một không gian trữ tình, đầy thi vị, làm nền cho những cảm xúc sâu lắng về tình yêu và nỗi nhớ nhung.

Hàn Mặc Tử tiếp tục sử dụng thiên nhiên để thể hiện tâm trạng khát khao, mong đợi người yêu quay lại:

 "Gió theo lối gió, mây đường mây, 

 Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay 

 Thuyền ai đậu bến sông trăng đó 

 Có chở trăng về kịp tối nay?"

Ở đây, Hàn Mặc Tử đã sử dụng hình ảnh "gió theo lối gió" và "mây đường mây" để gợi lên sự mong manh, vô định trong tình yêu. Những con đường tình yêu không rõ ràng, như những đám mây trôi bồng bềnh, không thể nắm bắt được. Hình ảnh "dòng nước buồn thiu" và "hoa bắp lay" tạo ra một không khí tĩnh lặng, buồn bã, nhưng cũng đầy mộng mơ, như những mơ ước vô hình mà tác giả đang vẫy gọi. Câu thơ "Có chở trăng về kịp tối nay?" thể hiện ước mơ gặp lại người yêu trong một không gian huyền ảo và mơ màng, giống như trăng chiếu sáng vạn vật, làm cho không gian tình yêu trở nên diệu kỳ.

Những câu thơ cuối bài thể hiện sự cô đơn, một chút ngờ vực và lo lắng của Hàn Mặc Tử về tình yêu. Mặc dù tình yêu là một chủ đề tươi đẹp nhưng cũng đầy những khắc khoải, băn khoăn trong lòng tác giả:

 "Mơ khách đường xa, khách đường xa 

 Áo em trắng quá nhìn không ra 

 Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 

 Ai biết tình ai có đậm đà?"

"Khách đường xa" là hình ảnh gợi lên sự xa cách, dù người yêu có ở gần nhưng cũng như một bóng hình mờ nhạt, không thể chạm tới. "Áo em trắng quá nhìn không ra" càng làm tăng sự mơ hồ, vô định của mối quan hệ giữa hai người, như thể mọi thứ đều bị che phủ bởi một lớp sương khói mờ ảo. Câu thơ "Ai biết tình ai có đậm đà?" không chỉ là sự tự vấn về tình cảm của người yêu mà còn thể hiện sự lo lắng, hoài nghi về tình yêu của chính mình. Liệu tình cảm ấy có chân thành và bền vững?

Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" mang đậm phong cách thơ Hàn Mặc Tử, đó là sự kết hợp giữa những cảm xúc mãnh liệt, những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp và những suy tư về tình yêu. Thiên nhiên trong bài thơ không chỉ là bối cảnh mà còn là phương tiện thể hiện tâm trạng của tác giả. Từ "nắng hàng cau", "hoa bắp lay", "sương khói" đến "thuyền ai đậu bến sông trăng đó", tất cả đều chứa đựng những cảm xúc sâu lắng về tình yêu và sự cô đơn. Phong cách thơ của Hàn Mặc Tử rất đặc biệt, vừa lãng mạn, vừa day dứt, tạo nên một không gian đầy mơ mộng nhưng cũng đầy ẩn ý về nỗi khắc khoải của tác giả.

Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một trong những tác phẩm xuất sắc của thơ mới, vừa vẽ lên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của thôn Vĩ Dạ, vừa thể hiện nỗi nhớ nhung, sự cô đơn và khát khao tình yêu của tác giả. Những hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ không chỉ là khung cảnh đẹp mà còn là phương tiện để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của Hàn Mặc Tử. Thơ của ông là sự kết hợp giữa vẻ đẹp lãng mạn và những cảm xúc sâu sắc, tạo nên một không gian đầy mơ mộng nhưng cũng rất thực, đầy đau đớn và khát khao. Bài thơ này không chỉ là một trong những kiệt tác của Hàn Mặc Tử mà còn là một trong những tác phẩm có giá trị lâu dài trong nền văn học Việt Nam.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử - mẫu 3

Bài thơ "Đây Thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử được viết trong hoàn cảnh tác giả phải đối mặt với bệnh tật, xa cách quê hương và người yêu. Tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh khổ đau đó, thi sĩ lại có những cảm xúc mãnh liệt và chân thành nhất. Với một giọng điệu vừa da diết, vừa mơ mộng, Hàn Mặc Tử đã gửi gắm trong bài thơ này những cảm xúc về tình yêu, quê hương, và sự xa cách. Mỗi hình ảnh trong bài thơ đều chứa đựng một nỗi nhớ, một khát khao cháy bỏng về một cuộc sống thanh bình, đẹp đẽ.

Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Đây không chỉ là một câu hỏi đơn thuần mà là một lời mời gọi tha thiết, một khát khao muốn được quay trở lại với thôn Vĩ, với những kỷ niệm êm đềm của một thời đã qua. Câu hỏi này được đặt trong hoàn cảnh tác giả đang phải sống xa quê hương, xa người yêu và đối mặt với sự cô đơn. Nó như một sự nhắc nhở, một sự khắc khoải của một trái tim đầy yêu thương. Chính vì thế, lời mời gọi này mang một nỗi tiếc nuối, một nỗi nhớ đau đớn.

Bài thơ không chỉ nói về tình yêu mà còn là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, gợi nhắc về một quê hương thanh bình, yên ả. Những hình ảnh về thôn Vĩ Dạ xuất hiện trong bài thơ như một bức tranh đầy màu sắc, mang vẻ đẹp tinh khôi và trong sáng:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"

 Câu thơ này miêu tả cảnh sáng sớm ở thôn quê, khi ánh nắng đầu tiên chiếu rọi lên những hàng cau thẳng tắp, mang đến một cảm giác thanh bình và nhẹ nhàng. Hình ảnh này không chỉ thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho một thời gian đẹp đẽ, tươi mới mà tác giả luôn nhớ về.

"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"

 Hình ảnh "vườn ai" với màu xanh ngọc bích không chỉ miêu tả sự tươi tốt, bội thu của đất đai, mà còn là hình ảnh của một thiên nhiên trong sáng, mát lành. Đây là một hình ảnh tượng trưng cho quê hương, nơi mà tác giả đã trải qua bao kỷ niệm đẹp và luôn mang trong mình nỗi nhớ không nguôi.

"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"

 Lá trúc là hình ảnh quen thuộc trong văn hóa Việt Nam, có thể gắn liền với hình ảnh những ngôi nhà mái chữ điền truyền thống ở vùng thôn quê. Câu thơ này thể hiện sự thanh thoát, dịu dàng của cảnh vật quê hương. Chính trong không gian ấy, tác giả cảm nhận được sự bình yên và giản dị, mà đó là điều Hàn Mặc Tử luôn khát khao trở lại.

Ngoài vẻ đẹp tươi sáng, bài thơ còn thể hiện sự cô đơn, nỗi nhớ và sự bấp bênh trong tâm trạng của tác giả. Cảnh vật thiên nhiên trở nên mơ màng và u uẩn, như chính tâm trạng của người thi sĩ:

"Gió theo lối gió, mây đường mây"

 Hình ảnh gió và mây tựa như những yếu tố thiên nhiên không có định hướng, không có điểm đến rõ ràng, khiến cho không gian trở nên mơ hồ. Điều này phản ánh tâm trạng của tác giả, khi cuộc sống của ông như một dòng chảy vô định, không có một bến bờ cố định. Tâm trạng của thi sĩ cũng giống như những làn gió, làn mây, cứ trôi dạt theo chiều đi của chúng.

"Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"

 Dòng nước buồn thiu gợi lên cảm giác u buồn, tĩnh lặng, trong khi hoa bắp lay nhẹ trong gió như biểu hiện của sự buồn bã, cô đơn. Sự chuyển động nhẹ nhàng của hoa bắp cũng giống như tâm trạng của người thi sĩ, vẫn kiên cường, nhưng trong lòng đầy những khắc khoải, nỗi nhớ.

Cuối bài thơ, Hàn Mặc Tử thể hiện sự mơ mộng về tình yêu trong trạng thái xa cách và hoài nghi:

"Mơ khách đường xa, khách đường xa"

 Câu thơ này như một sự nhắc nhở về người yêu mà tác giả đã mong mỏi, người mà giờ đây trở thành một hình bóng xa xôi. Hình ảnh "khách đường xa" có thể là sự tượng trưng cho một tình yêu không thể với tới, một khao khát không bao giờ thực hiện được. Cảm giác đó được tác giả thể hiện qua một câu thơ đầy mơ màng và hoài niệm.

"Áo em trắng quá nhìn không ra"

 "Áo em trắng" là hình ảnh quen thuộc trong thơ, thường được dùng để miêu tả người con gái trong trắng, thuần khiết. Tuy nhiên, việc "nhìn không ra" lại tạo ra một cảm giác mơ hồ, như một sự lạc lõng, xa cách. Hình ảnh này không chỉ nói lên sự nhớ nhung mà còn phản ánh sự mơ hồ trong tình cảm của người thi sĩ, khi không thể nào rõ ràng cảm nhận được tình yêu của người mình yêu thương.

 "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh"

 Hình ảnh "sương khói mờ nhân ảnh" thể hiện một không gian mờ ảo, nhòe nhoẹt, giống như tình cảm của người thi sĩ lúc bấy giờ. Mọi thứ trong mắt Hàn Mặc Tử đều trở nên mơ hồ, không rõ ràng, chỉ còn lại những ám ảnh của quá khứ, những ký ức xa vời không thể chạm đến.

 "Ai biết tình ai có đậm đà?"

Câu hỏi cuối cùng trong bài thơ thể hiện sự lo âu, hoài nghi về tình yêu. Trong cảnh biệt ly, tác giả không thể chắc chắn tình cảm của người yêu còn nguyên vẹn hay đã phai nhạt theo thời gian. Đó là sự nghi hoặc về một tình yêu trong hoàn cảnh xa cách, khi không thể trực tiếp cảm nhận được tình cảm của đối phương.

"Đây Thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ đặc sắc của Hàn Mặc Tử, thể hiện một tình yêu sâu sắc và khát khao quay trở về quê hương, một tâm hồn mơ mộng và đầy ẩn ức. Từ những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, bài thơ chuyển sang một không gian mờ ảo, phản ánh sự cô đơn và khắc khoải của người thi sĩ khi phải sống trong cảnh xa cách. Qua bài thơ này, Hàn Mặc Tử không chỉ bộc lộ nỗi nhớ quê hương, tình yêu và sự xa cách, mà còn khắc họa một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, luôn tìm kiếm sự thanh thản trong một thế giới đầy rẫy sự bất định và đau đớn.

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


day-thon-vi-da.jsp


Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học