Top 2 Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ (hay, ngắn gọn)



Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương (điểm cao)

Quảng cáo

Bài giảng: Thương vợ - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương

I. Mở bài

- Trần Tế Xương – nhà thơ tiêu biểu cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX – nổi tiếng với thơ trào phúng và những tác phẩm trữ tình cảm động.

- Bài thơ Thương vợ là một trong số ít bài thơ trung đại thể hiện tình yêu thương của chồng dành cho vợ khi bà còn sống.

- Giới thiệu vấn đề: hình ảnh bà Tú là lời ngợi ca người phụ nữ nhưng đồng thời cũng là tiếng nói phê phán xã hội phong kiến bất công.

II. Thân bài

1. Hiện thực cuộc sống người phụ nữ qua hình ảnh bà Tú

- Không chỉ gánh vác gia đình mà còn thay chồng làm trụ cột kinh tế.

- Gánh nặng chồng chất: "nuôi đủ năm con với một chồng".

- Câu thơ hài hước nhưng cũng đầy cay đắng, ám chỉ cảnh “chồng ăn không ngồi rồi”.

- Vất vả mưu sinh:

+ "Lặn lội thân cò", "eo sèo mặt nước": phản ánh sự cơ cực, tủi phận.

+ Phụ nữ phải bước ra đời lo toan sinh kế – điều không phổ biến thời xưa → phơi bày sự bất công giới.

2. Tư tưởng nhân văn và tình cảm của Trần Tế Xương

- Dùng lời thơ để “trả công” cho vợ: không chỉ cảm ơn mà còn thấu hiểu, trân trọng sự hi sinh.

- Câu kết độc đáo: "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc / Có chồng hờ hững cũng như không"

- Vừa tự giễu, vừa giận chính mình, giận cả “thói đời” bạc bẽo với người phụ nữ.

→ Lời trách móc đầy thương yêu, là sự lên án sâu sắc xã hội đã khiến những người như bà Tú phải chịu thiệt thòi.

3. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm

- Tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.

- Khơi dậy lòng cảm thông, ý thức tôn trọng người vợ, người mẹ trong mỗi con người.

III. Kết bài

- Hình tượng bà Tú là biểu tượng của bao người phụ nữ Việt Nam xưa: thầm lặng, bền bỉ, không than thở nhưng chất chứa biết bao hy sinh.

- Trần Tế Xương không chỉ viết một bài thơ, mà còn để lại một bài học về tình yêu, đạo nghĩa và giá trị con người.

- Giá trị nhân văn của tác phẩm đến nay vẫn còn nguyên vẹn – nhắc nhở chúng ta biết trân trọng người phụ nữ trong đời sống hôm nay.

Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương - mẫu 1

Phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Từ các tác phẩm văn chương hiện lên với vẻ đẹp chân dung, đức hạnh trên nhiều bình diện. Tuy nhiên hiếm có thi nhân nào viết về người phụ nữ với tư cách là người vợ bằng tình cảm chân thành của một người chồng như trong thơ Trần Tế Xương. “Thương vợ” là một bài thơ tiêu biểu khắc họa sinh động hình ảnh bà Tú cùng với những phẩm chất tốt đẹp giàu đức hi sinh, chịu thương chịu khó và nhẫn nại, kiên cường vì chồng con. Hình ảnh ấy đã trở thành điển hình cho nét đẹp của người phụ nữ Việt.

Hình ảnh bà Tú xuất hiện với công việc vất vả và gian truân, gánh nặng trách nhiệm gia đình đè lôi vai người vợ hiện lên thật sinh động, giàu giá trị nhân văn qua bốn câu thơ đầu:

Quảng cáo

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông

    Nuôi đủ năm con với một chồng

    Lặn lội thân cò khi quãng vắng

    Eo sèo nước mặt buổi đò đông”

Nghề nghiệp của bà Tú là buôn bán. Nhắc đến nghề buôn là người ta thường nghĩ ngay đến sự an nhan và giàu có “Phi thương bất phú” nhưng với bà Tú lại đối lập hoàn toàn với điều đó. Không gian buôn bán ở đây là “mom sông” - nơi “đầu sóng ngọn gió” với bao nguy hiểm, là “cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập bình thường”. Thời gian làm việc là “quanh năm” thời gian đằng đẵng hết ngày này, tháng khác lại năm nọ chẳng bao giờ được nghỉ ngơi dù là ngày nắng hay ngày mưa. Vì miếng cơm manh áo để “Nuôi đủ năm con với một chồng” không cho phép bà được an nhàn một giờ khắc. “Đủ” ở đây là đủ không chỉ về cơm ăn mà còn áo mặc, mọi thứ không thừa nhưng cũng không thể thiếu. Nào có phải là một chồng hai con như xã hội hiện đại mà là “năm con” rất đông, con số nhiều được đặt ngang hàng để đối với “một chồng” số ít tạo nên một đòn gánh cân bằng trên đôi vai của bà Tú. Chi phí cho ông Tú_ nhà Nho “dài lưng tốn vải” ngang bằng với cơm ăn áo mặc của năm đứa con gộp lại. Điều đó cho thấy trách nhiệm lo kinh tế gia đình thật chẳng hề dễ dàng đối với một người phụ nữ sống trong thời buổi khó khăn con người ta bon chen nhau kiếm từng xu từng hào.

Hình ảnh “Thân cò” lặn lội càng gợi thêm sự cơ cực và cô độc của người đàn bà tảo tần. Thân cò trong văn học truyền thống là biểu tượng cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Hình ảnh “Thân cò” với nghệ thuật đảo ngữ “lặn lội thân cò” gợi lên một thân phận, số phận cụ thể, nhỏ bé, mong manh giữa cuộc đời. Tú Xương đã vận dụng thành công ngôn ngữ của dân gian vào trong ý thơ của mình để đặc tả sự gian truân mà bà Tú phải chịu. Khi thì “lặn lội” lúc “quãng vắng”, khi thì “eo sèo” lúc “buổi đò đông”. Tú Xương phả là một người chồng hết mực yêu thương và cảm thông với vợ mới có thể viết được những câu thơ hay và đặc sắc khi nói về cái vất vả mà vợ mình phải gánh chịu.

Quảng cáo

Bấy nhiêu cực khổ ấy nhưng bà Tú chẳng nề hà, kêu than lấy một lời. Bà giàu đức hi sinh và rộng lượng để âm thầm cam chịu, chấp nhận tất cả những gian nan, cực khổ một lòng vì chồng vì con vì mái ấm gia đình.

    “Một duyên hai nợ âu đành phận

    Năm nắng mười mưa dám quản công”

là như vậy, dù cho “ Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” và “Có chồng hờ hững cũng như không” nhưng bà vẫn không một lời oán trách. Bà coi đó là cái duyên phận, tình nghĩa vợ chồng và là trách nhiệm của một người vợ có chồng là thi sĩ. Bốn câu thơ cuối là lời của Tú Xương thác ra giọng của bà Tú để bày tỏ, để nói hộ lòng vợ. Ông cũng tự trách bản thân mình là một người chồng “hờ hững” không giúp gì được cho vợ mà ngược lại còn là gánh nặng trên đôi vai của bậc hiền phụ. Trách mình trách đời cũng là cách gián tiếp để ông Tú ca ngợi, đề cao công lao và phẩm chất của vợ theo cái cách chưa từng có trong thơ văn trung đại:

Quảng cáo

    “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó

    Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”.

Bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương với những bút pháp nghệ thuật đặc sắc kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ đời thường với ngôn ngữ bác học trong tám câu thơ Đường luật giải quy phạm đã khắc họa thành công hình ảnh bà Tú_ người vợ, người phụ nữ đảm đang, tháo vát giàu lòng yêu thương, rộng đức hi sinh vì gia đình. Con người ấy xuất hiện trong những câu thơ trữ tình sâu lắng trở thành một biểu tượng đẹp cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam.

Trong xã hội ngày nay với những xô bồ của cuộc sống không ít những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ bị vùi lấp đi bởi giá trị của đồng tiền, của danh vọng và địa vị. Bài thơ “Thương vợ” được đưa vào chương trình phổ thông là một bài học giàu giá trị nhân văn để các em học tập và là tấm gương để những người phụ nữ hiện đại phần nào soi mình vào đó gìn giữ nét đẹp truyền thống mà vẫn phù hợp với thời đại.

Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương - mẫu 2

Phân tích hình ảnh bà tú trong bài thương vợ - mẫu 1

Thơ ca trung đại Việt Nam là tiếng nói của tầng lớp trí thức trong xã hội, phản ánh tư tưởng đạo lý, lòng yêu nước, và đôi khi là nỗi trăn trở trước những bất công trong cuộc sống. Giữa bối cảnh ấy, bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương nổi bật như một điểm nhấn đầy nhân văn – không chỉ vì đề tài hiếm gặp (viết về người vợ khi còn sống), mà còn bởi sự lật mở một vấn đề lớn của xã hội phong kiến: số phận cay đắng và sự bất công của người phụ nữ. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ không chỉ là hình bóng người vợ lam lũ, mà còn là lời phê phán xã hội đã đẩy người phụ nữ vào tận cùng của hi sinh và thiệt thòi.

Ngay từ câu đầu tiên:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông”,

ta đã bắt gặp hình ảnh một người phụ nữ gắn chặt cuộc đời với gánh hàng, bờ sông, con nước – sống trong cảnh mưu sinh vất vả. Cụm từ “quanh năm” mang theo nghĩa kéo dài triền miên – không ngày nghỉ, không ngơi tay. “Mom sông” là nơi bấp bênh, hiểm nguy – ẩn dụ cho sự bấp bênh của số phận. Dưới xã hội trọng nam khinh nữ lúc bấy giờ, người phụ nữ không chỉ chịu ràng buộc lễ giáo mà còn gánh luôn vai trò kinh tế trong gia đình – khi chồng “học không ra thi”, thi không đỗ đạt.

Hai câu tiếp:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

đưa người đọc đến hai hoàn cảnh đối lập – vắng lặng và đông đúc – nhưng đều chứa đựng sự cực nhọc của người phụ nữ. Hình ảnh “thân cò” là biểu tượng trong ca dao cho người mẹ, người vợ lam lũ. “Lặn lội” – không phải một lần – mà là hành trình ngày này qua ngày khác. Dù là giữa “quãng vắng” hay “đò đông”, bà Tú vẫn luôn hiện diện với tất bật mưu sinh. Cuộc sống của bà là một chuỗi những ngày đấu tranh giữa đời thường và định kiến xã hội.

Câu thơ:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

mang giọng điệu hóm hỉnh, nhưng ẩn chứa cả sự chua chát. Từ “với một chồng” là một cái tặc lưỡi nhẹ nhưng sâu cay – như muốn nói: ngoài việc nuôi con, bà còn phải “nuôi” cả một người chồng vô dụng. Ở đây, Trần Tế Xương không biện hộ cho mình – ông đang tự nhận mình là gánh nặng cho vợ. Và chính từ đó, ông đã mở ra một câu chuyện lớn: vì sao người phụ nữ lại phải chịu nhiều như thế?

Hai câu 5–6 thể hiện rất rõ điều đó:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Cái “duyên” thì ít, cái “nợ” thì nhiều – một đời sống của bà Tú dường như là sự tiếp nối những món nợ vô hình: nợ cha mẹ, nợ chồng, nợ con cái và nợ xã hội. Phép nghịch hợp giữa “duyên – nợ” cho thấy một thực tế phũ phàng: phụ nữ thời phong kiến bị ép sống một cuộc đời không thuộc về mình. Họ không được lựa chọn, không được tự quyết, mà chỉ có thể “đành phận” – chịu đựng như một quy luật tất yếu.

Và rồi trong câu kết:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.”

giọng thơ chuyển sang xót xa, phẫn uất. Tác giả trách mình – nhưng thực chất là đang trách cái “thói đời” – xã hội phong kiến bạc bẽo, đẩy những người phụ nữ hiền lành vào vai trò gánh vác, cam chịu. Ông gọi bản thân là “chồng hờ hững”, nhưng sâu xa hơn, đó là cách ông gọi cả một lớp đàn ông bất lực thời bấy giờ – những người không làm tròn trách nhiệm làm chồng, làm cha.

Hình ảnh bà Tú vì vậy không còn chỉ là một người vợ cụ thể – mà trở thành hình tượng đại diện cho người phụ nữ bị xã hội phong kiến đẩy vào cảnh thiệt thòi. Qua bà Tú, ta thấy được ánh mắt thương cảm của một người chồng – và cả tiếng nói phê phán mạnh mẽ một xã hội đầy bất công.

Điều đáng quý là ở chỗ: Trần Tế Xương – một người đàn ông, một nhà nho sống trong xã hội gia trưởng – lại có đủ tinh tế, dũng cảm và nhân văn để viết ra một bài thơ như vậy. Ông không giấu mình dưới những lời hoa mỹ, không tìm cách biện minh. Ông để sự thật hiển hiện bằng chất giọng vừa đau đớn, vừa yêu thương – để bà Tú được tỏa sáng như một biểu tượng của đức hi sinh và lòng kiên cường.

Bài thơ Thương vợ, vì vậy, không chỉ là một bản tình ca giản dị, mà còn là một tuyên ngôn thầm lặng về nhân quyền, về công bằng giới, và về giá trị đạo đức của tình nghĩa vợ chồng. Trong một xã hội mà tiếng nói phụ nữ còn bị che mờ, Trần Tế Xương đã giúp họ có một vị trí xứng đáng trong thơ – và trong trái tim người đọc.

Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương - mẫu 3

Nếu văn học là tấm gương phản ánh xã hội, thì thơ Trần Tế Xương chính là tấm gương phản chiếu chân thực nhất một giai đoạn đầy rối ren cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Trong số đó, bài thơ Thương vợ mang một âm hưởng rất khác – nhẹ nhàng, cảm động nhưng cũng không kém phần sâu cay. Hình ảnh bà Tú trong bài không chỉ là vợ của một nhà nho thi rớt – mà là tiếng nói cho bao người phụ nữ cùng thời bị lãng quên, bị giam hãm trong những chuẩn mực gò bó của xã hội phong kiến.

Ngay từ mở đầu, Trần Tế Xương đã dựng lên chân dung vợ mình qua hành động cụ thể:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông”

Không phải những lời tình cảm nồng cháy, mà là công việc tảo tần, là mưu sinh, là cuộc sống đời thường. Và cũng chính từ “mom sông” – nơi nguy hiểm, bấp bênh – ông ngầm cho thấy: người phụ nữ như bà Tú bị xã hội đẩy đến rìa cuộc sống, nơi mà sự tồn tại phải đánh đổi bằng mồ hôi và cả sự cam chịu.

Nếu như bà Tú là một cá nhân, thì chính hình ảnh “thân cò” trong câu:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”

là cách Trần Tế Xương nhân hóa bà, nâng bà lên thành một biểu tượng – biểu tượng cho bao người phụ nữ thầm lặng đang bươn chải mưu sinh mà chẳng ai nhìn thấy. “Quãng vắng” không chỉ là không gian, mà còn là biểu trưng cho sự cô đơn – nơi không ai quan tâm, không ai thấu hiểu.

Thậm chí, khi bà Tú “xuất hiện” giữa “buổi đò đông”, với “eo sèo mặt nước”, người ta vẫn chỉ thấy ồn ào, xô bồ, thị phi – nhưng không thấy bà. Vì bà là người phụ nữ vô danh trong xã hội. Trần Tế Xương – bằng sự thấu hiểu sâu sắc – đã đem ánh sáng chiếu vào bóng tối ấy.

Càng đọc đến đoạn giữa:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”

người ta càng cảm nhận rõ: người phụ nữ không được lựa chọn cuộc đời mình. Bà Tú – như bao người vợ cùng thời – không kết hôn vì tình yêu, mà vì phận, vì “duyên nợ”, vì chữ “trách nhiệm” áp đặt. Cái “phận” mà bà “đành” là cả một xã hội đã mặc định phụ nữ phải hy sinh, phải chấp nhận mọi bất công.

Vậy thì, câu thơ cuối:

“Có chồng hờ hững cũng như không”

không chỉ là tiếng tự trách của người chồng, mà là lời biện hộ cho cả tầng lớp phụ nữ không được yêu thương, không được nhìn nhận, không được sẻ chia.

Bài thơ Thương vợ, vì vậy, là một hành động văn chương mang tính giải cứu, là tiếng nói của một người đàn ông hiểu vợ, thương vợ, và hiểu cả những người đàn bà bị lãng quên. Và chính điều ấy khiến bài thơ vượt qua giới hạn thời đại để tồn tại mãi cùng văn học Việt Nam.

Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương - mẫu 4

Văn học trung đại Việt Nam thường ca ngợi đạo lý “tam tòng tứ đức” của người phụ nữ, nhưng rất ít khi thể hiện sự cảm thông sâu sắc với họ khi còn sống. Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương là một trong những ngoại lệ hiếm hoi. Hình ảnh bà Tú – dưới ngòi bút của chồng – hiện lên không phải để tô hồng hay lí tưởng hoá, mà để chia sẻ – thấu hiểu – cảm thông, thể hiện một tư tưởng nhân đạo lớn của người nghệ sĩ chân chính.

Hình tượng bà Tú hiện lên không qua những lời tán dương, mà bằng những hành động cụ thể:

“Buôn bán ở mom sông”, “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”, “nuôi đủ năm con với một chồng”…

Đó đều là những hành động của người vợ – người mẹ – người trụ cột thầm lặng của gia đình. Cái cách mà Trần Tế Xương “ghi chép” lại từng chi tiết cho thấy: ông quan sát, ông hiểu và ông yêu vợ bằng ánh mắt đầy cảm thông của một người đồng hành.

Khi viết:

“Một duyên hai nợ âu đành phận”,

Trần Tế Xương không than trách đời, mà như đang thốt lên thay cho vợ mình. Ông cảm nhận được sự bất công khi một người phụ nữ không có quyền lựa chọn hôn nhân, không có quyền mưu cầu hạnh phúc riêng. Nhưng bà Tú không than vãn – bà “đành phận”, như bao người phụ nữ khác.

Tư tưởng nhân đạo của nhà thơ thể hiện rõ rệt khi ông không tự lý tưởng hoá vai trò người chồng, mà thẳng thắn nhận ra sự “hờ hững” của mình:

“Có chồng hờ hững cũng như không”

Câu thơ như một lời thú tội. Một sự tỉnh thức muộn màng – nhưng cũng là lời sám hối chân thành nhất. Chính điều ấy khiến bài thơ không chỉ có giá trị nghệ thuật, mà còn là một “tấm gương nhân đạo” – giúp người đọc biết yêu thương, biết trân trọng người phụ nữ trong đời mình hơn.

Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương - mẫu 5

Giữa những dòng thơ trào phúng đầy sắc bén của Trần Tế Xương, Thương vợ là một khúc ngân trữ tình vô cùng đặc biệt – dịu dàng, sâu lắng và đầy xót xa. Không giống những áng thơ ca ngợi công hạnh của người vợ khi đã khuất, bài thơ là lời tri ân người bạn đời còn đang hiện diện, còn đang gồng gánh mọi vất vả cho chồng con. Trong mối quan hệ chằng chịt giữa cá nhân và cộng đồng, giữa người chồng, người vợ và xã hội phong kiến đầy bất công, hình ảnh bà Tú hiện lên không chỉ như một người phụ nữ đảm đang, mà còn như một nạn nhân cam chịu và một trụ cột không tên của cả một gia đình – thậm chí là một thời đại.

Ngay từ câu đầu tiên:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông”,

Trần Tế Xương đã đặt vợ mình vào đúng vị trí xã hội bà đang sống: không phải nơi tôn quý, sang trọng, mà là “mom sông” – chốn chênh vênh, bấp bênh, tiềm ẩn nguy hiểm và sự bất định. Đó không chỉ là không gian vật lý mà còn là hình ảnh ẩn dụ cho số phận người phụ nữ – đứng bên rìa xã hội, nơi bị xem là yếu thế, là thứ yếu. “Quanh năm” là thời gian không ngơi nghỉ, không xuân, hạ, thu, đông – không có ngày lễ, không có Tết – chỉ có chuỗi ngày lao động nối tiếp trong vô thức và câm lặng.

Hai câu thực:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

khắc họa cuộc sống lao động của bà Tú từ hai mặt đối lập. Trong quãng vắng – bà đơn độc. Trong đò đông – bà bị cuốn vào dòng đời xô bồ, tranh giành. Dù ở đâu, bà cũng không được thảnh thơi, không được lựa chọn. Câu thơ sử dụng hình ảnh “thân cò” – quen thuộc trong ca dao – để tạo nên sự cộng hưởng giữa văn học dân gian và văn học bác học, giữa cá nhân bà Tú và số đông những người phụ nữ Việt Nam cùng thời.

Từ những hình ảnh ấy, bà Tú hiện lên như một người vợ – người mẹ – người trụ cột của gia đình, gánh trên vai mọi trách nhiệm khi người chồng của bà – một trí thức thời loạn – đang bị mắc kẹt giữa danh và thực. Trần Tế Xương, với sự tự trọng của mình, không che giấu điều đó. Trái lại, ông viết thẳng vào tim mình khi thừa nhận:

“Nuôi đủ năm con với một chồng.”

Từ “đủ” mang tính chất đếm số nhưng cũng hàm ý cả nỗi xót xa, hổ thẹn. Bà Tú không chỉ gánh gồng năm đứa con, mà còn “nuôi” luôn cả ông chồng vô dụng. Chính trong sự thừa nhận đó, người đọc thấy được một Trần Tế Xương đầy bản lĩnh và chân thành, dám chấp nhận sự bất lực của mình và dám tôn vinh vợ bằng sự thật – không giấu giếm, không lấp liếm.

Sâu hơn, hình ảnh bà Tú còn là cái bóng của người phụ nữ thời phong kiến – nơi “tam tòng tứ đức” là khuôn mẫu, nhưng gánh nặng thực tế lại hoàn toàn khác biệt. Người phụ nữ phải “tòng phụ – tòng phu – tòng tử”, nhưng thực tế họ lại là người giữ cho mái ấm không sụp đổ. Xã hội phong kiến – nơi lý thuyết và hiện thực tách rời – đã đẩy người phụ nữ vào vị thế “chịu mà không được kể”, “hy sinh mà không được vinh danh”.

Hai câu luận tiếp theo:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”

đặt bà Tú vào đúng vị trí của người gánh đời bằng niềm tin cam chịu. Một người phụ nữ lấy chồng không vì tình yêu, mà vì “duyên nợ”. Và nợ thì nhiều hơn duyên. Cái cách “đành phận” ấy không phải là yếu đuối, mà là một thứ bản lĩnh mềm – thứ sức mạnh đặc biệt mà chỉ phụ nữ mới có thể làm được.

Cuối cùng, câu thơ kết đầy nghẹn ngào:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.”

đã đưa bài thơ lên cao trào cảm xúc. Trần Tế Xương không chỉ trách mình – mà còn trách “thói đời” bạc bẽo. Ở đó, ông không chỉ đau vì thấy vợ thiệt thòi, mà còn đau vì biết mình bất lực trong một xã hội bất công, nơi người tài không có đất dụng võ, nơi phụ nữ phải gồng gánh thay phần của cả xã hội.

Tổng thể bài thơ là một khúc xưng tụng thầm lặng nhưng sâu sắc dành cho người phụ nữ. Nó không phải là lời hoa mỹ, mà là ánh nhìn thấu hiểu, là tiếng lòng sám hối, là sự thức tỉnh về vai trò và vị thế của phụ nữ trong xã hội. Và chính nhờ đó, bài thơ vượt khỏi phạm vi cá nhân để trở thành một tiếng nói nhân đạo, mang giá trị tư tưởng tiến bộ về bình đẳng giới và vai trò của phụ nữ.

Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương - mẫu 6

Trải qua hơn một thế kỷ, bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương vẫn giữ nguyên sức sống bền bỉ trong lòng độc giả Việt Nam. Không phải là một bản tình ca lãng mạn, càng không phải là khúc ca bi lụy, bài thơ là lời tri ân thầm lặng nhưng tha thiết nhất mà một người chồng gửi đến người vợ của mình khi bà còn sống. Trong những câu chữ tưởng chừng giản dị, hình ảnh bà Tú hiện lên như một biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam tảo tần, tận tụy, chịu thương chịu khó, mà càng đọc, càng nghĩ, tôi – một học sinh đang lớn lên giữa nhịp sống hiện đại – lại càng thấy hình bóng của mẹ mình trong từng câu thơ ấy.

Câu thơ mở đầu:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông”

gợi cho tôi hình ảnh quen thuộc của mẹ tôi mỗi sáng sớm gánh hàng ra chợ, bươn chải để lo cho bữa cơm gia đình. Bà Tú không phải người phụ nữ của triều đình, của quyền quý – bà là hình ảnh của người phụ nữ bình dị, sống âm thầm vì chồng vì con. “Quanh năm” là cả một đời. “Buôn bán” là công việc đơn sơ nhưng nhọc nhằn. “Mom sông” là nơi bấp bênh, nguy hiểm – cũng giống như bao nhiêu hoàn cảnh đời thực của người mẹ tôi thương: tảo tần trong những cơn mưa, ngụp lặn trong giá cả, bon chen, mưu sinh.

Trần Tế Xương đâu có dùng những lời hoa mỹ hay những hình ảnh thơ mộng để miêu tả vợ mình. Ông chỉ nói sự thật – mà cái sự thật ấy lại làm người đọc đau lòng:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Tôi hình dung ra dáng người nhỏ bé của mẹ tôi len lỏi giữa dòng người đông đúc, lúc đi sớm, khi về khuya, thậm chí những ngày lễ Tết vẫn chẳng dám nghỉ ngơi. “Thân cò” – biểu tượng trong ca dao dân gian – giờ đây không còn là biểu tượng xa xôi nữa, mà là hiện thân cho mẹ, cho bà, cho chị – những người phụ nữ sống vì người khác nhiều hơn cho chính mình.

Câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng” nghe vừa buồn cười, vừa xót xa. Từ “với một chồng” như một cái nhíu mày nhẹ của bà Tú – như thể bà đang nói: “nuôi con đã vất vả, lại còn phải lo cho ông nữa đấy!” Nhưng thật ra, ẩn dưới sự hài hước ấy là cả một nỗi lòng của người chồng tự cảm thấy thua thiệt, kém cỏi, bất lực. Ngay cả trong thời đại ngày nay, không ít người phụ nữ vẫn phải vừa làm mẹ, vừa làm cha, vừa lo kinh tế, vừa chăm sóc gia đình. Điều đó khiến tôi càng thêm khâm phục sức mạnh phi thường của những người phụ nữ bé nhỏ mà kiên cường ấy.

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công” – câu thơ như một tiếng thở dài cam chịu. Duyên thì ít, nợ thì nhiều – nợ đời, nợ tình, nợ nghĩa. Trong mắt một học sinh trẻ như tôi, đây không còn là hình ảnh của bà Tú – mà là tâm tư của bao người phụ nữ trong hôn nhân: họ không được lựa chọn nhiều, không được sống cho riêng mình, mà sống cho người khác, vì nghĩa, vì trách nhiệm, vì gia đình. Họ “đành phận” – không phải vì yếu đuối, mà vì họ mạnh mẽ đủ để gồng gánh.

Tôi đặc biệt xúc động khi đọc đến câu thơ kết:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.”

Có gì đó như một tiếng nghẹn vỡ ra. Trần Tế Xương trách bản thân – và cũng trách cuộc đời. Có lẽ ông đã từng ngồi đó, nhìn vợ tất bật lo toan, nhìn tay bà sạm nắng, tóc bà điểm bạc, và cảm thấy có lỗi vì mình chẳng giúp được gì. Đó không chỉ là lời tự thú, mà còn là một lời tỉnh thức dành cho mỗi người đàn ông, mỗi người chồng, mỗi người con – rằng đừng để người phụ nữ bên cạnh mình phải gánh chịu một mình, đừng để tình thương hóa thành nỗi buồn.

Là một học sinh lớn lên trong gia đình có mẹ là lao động chính, tôi thấy được hình ảnh bà Tú trong từng câu chuyện thường ngày. Tôi nhớ có những hôm trời mưa, mẹ vẫn gói ghém đồ ra chợ vì sợ “mất khách quen”. Tôi nhớ những lúc mẹ dậy từ tinh mơ chuẩn bị cơm hộp cho cả nhà trước khi đi làm… Mẹ không bao giờ than thở, giống như bà Tú – làm tất cả mà không đòi hỏi điều gì.

Văn học không chỉ để học – văn học còn là để sống. Bài thơ Thương vợ khiến tôi hiểu rằng: đằng sau sự yên ổn của một gia đình, là biết bao giọt mồ hôi âm thầm. Và rằng: hiểu – thương – và trân trọng người phụ nữ quanh mình chính là một nét đẹp đạo đức, là bài học lớn nhất mà tôi học được từ văn chương.

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


thuong-vo.jsp


Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học