Top 2 Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương (hay, ngắn gọn)
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương
- Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương (mẫu 1)
- Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương (mẫu 2)
- Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương (mẫu 3)
- Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương (mẫu 4)
- Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương (mẫu 5)
- Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương (mẫu 6)
Top 2 Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương (hay, ngắn gọn)
Bài giảng: Thương vợ - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)
Dàn ý Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về Trần Tế Xương: nhà thơ trào phúng nhưng cũng đầy cảm xúc nhân văn.
- Giới thiệu bài thơ Thương vợ – tiêu biểu cho mảng thơ trữ tình của ông.
- Dẫn vào hình tượng bà Tú: một người vợ tảo tần, hi sinh vì chồng con, mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
II. Thân bài
1. Bối cảnh sống và lao động của bà Tú
- "Quanh năm buôn bán ở mom sông":
+ Gợi công việc liên tục, không kể nắng mưa.
+ "Mom sông": nơi nguy hiểm, bấp bênh → bà Tú sống trong môi trường khắc nghiệt.
- "Lặn lội thân cò khi quãng vắng":
+ Ẩn dụ "thân cò" gợi sự lam lũ, vất vả, đơn độc – hình tượng quen thuộc trong ca dao, dân ca.
+ "Lặn lội" thể hiện sự hy sinh lặng thầm, gian truân.
- "Eo sèo mặt nước buổi đò đông":
+ Môi trường sống ồn ào, đầy cạnh tranh → bà Tú không chỉ vất vả về thể chất mà còn cả tinh thần.
2. Vai trò và phẩm chất người mẹ, người vợ
- "Nuôi đủ năm con với một chồng":
+ Dùng từ "đủ" vừa dí dỏm, vừa đầy trách nhiệm.
+ Trần Tế Xương nhận mình là “gánh nặng” trong đời vợ → lời tự trào nhưng đầy yêu thương.
- "Một duyên hai nợ âu đành phận / Năm nắng mười mưa dám quản công":
+ Nhẫn nại, chấp nhận số phận.
+ Tinh thần chịu thương chịu khó, không ngại khó ngại khổ → phẩm chất người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
3. Nghệ thuật thể hiện hình tượng bà Tú
- Sử dụng thành ngữ dân gian (“thân cò”, “năm nắng mười mưa”): gần gũi, mộc mạc.
- Lối nói giàu hình ảnh, ẩn dụ, giọng thơ xen lẫn trào phúng và trữ tình → làm nổi bật cả nỗi vất vả và vẻ đẹp tâm hồn.
III. Kết bài
- Khẳng định vẻ đẹp hình tượng bà Tú: giàu đức hy sinh, đảm đang, nhân hậu.
- Ghi nhận tấm lòng trân trọng, biết ơn của Trần Tế Xương dành cho vợ.
- Mở rộng: hình ảnh bà Tú là biểu tượng cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam muôn đời
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương - mẫu 1
Tú Xương là người có tố chất thông minh từ nhỏ, ông từng tám lần đi thi nhưng chỉ đậu đến Tú tài vì phạm húy. Cuộc đời ông đầy những chua chát, đắng cay và tất cả những điều đó đã được thể hiện đầy đủ trong các bài thơ của ông. Thơ của Tú Xương dành một dung lượng khá lớn viết về vợ của mình, một điều hiếm thấy xưa nay. Và trong chùm đề tài ấy bài thơ Thương vợ là bài hay nhất, chỉ với bài thơ này nhưng hình ảnh bà Tú đã hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp cũng như số phận của người phụ nữ.
Mở đầu bài thơ, Tú Xương giới thiệu về công việc của bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Câu thơ đã giúp người đọc đã hình dung được công việc của bà Tú đó là làm nghề buôn bán gạo, công việc đó kéo dài triền miên, mang tính tuần hoàn hết tuần này nối tiếp đến tuần khác, dường như trong cuộc đời bà không có lấy một giây phút được nghỉ ngơi, thư giãn. Hơn nữa nơi bà làm ăn buôn bán lại chứa đựng đầy sự nguy hiểm – mom sông – phần đất nhô ra phía lòng sông, đây là phần đất chênh vênh và có thể bị ngã bất cứ lúc nào. Bà Tú đã phải chịu đựng biết bao vất vả, cực nhọc, cuộc sống mưu sinh đầy gian truân khiến cho bà dù biết những nguy hiểm nhưng vẫn không thể bỏ bởi phải: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Trong xã hội phong kiến, người đàn ông vốn được mặc định coi là trụ cột gia đình, lo toan về kinh tế cho cả nhà, nhưng ở đây trong gia đình Tú Xương trụ cột ấy lại chính là bà Tú. Bà không chỉ nuôi con mà nuôi cả chồng, như vậy là sáu miệng ăn chưa tính đến bà. Chữ “đủ” chứa đựng nhiều ý nghĩa, đủ là nuôi cả gia đình; đủ còn có thể hiểu là đủ ăn đủ mặc, và đủ cả những thú vui thanh cao, tao nhã của ông Tú. Đặc biệt trong cách đếm “năm con với một chồng” là cách đếm lạ, Tú Xương tự tách mình riêng, đặt sau con cho thấy nỗi hổ thẹn trong ông khi không giúp được gì cho bà Tú, và sự trách sự vô tích sự của bản thân. Câu thơ như một lời tự trào chính mình của tác giả. Hai câu thơ đầu tiền, tác giả đã khắc họa thành công sự tảo tần, tháo vát mà cũng đầy vất vả, cơ cực của bà Tú.
Không dừng lại ở đó, hai câu thơ tiếp theo càng tô đậm hơn nữa sự vất vả của bà Tú trong công cuộc mưu sinh: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Hai từ “lặn lội” “eo sèo” được đảo lên đầu câu câu tô đậm nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà Tú. Đồng thời từ lặn lội kết hợp với hình ảnh thân cò đầy ám ảnh đã khắc đậm nỗi truân chuyên của bà Tú. Hình ảnh con cò trong ca dao vốn để chỉ những người nông dân nhọc nhằn, vất vả:
Cái cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vướt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng ….
Và bà Tú cũng chẳng khác những thân cò kia, một mình lặn lội kiếm ăn, chịu đựng để nuôi chồng, nuôi con. Công việc ấy lại vô vàn nguy hiểm “khi quãng vắng” “buổi đò đông” phải chen lấn, xô đẩy, đầy cực nhọc, vất vả. Với hai câu thơ ba và bốn, đã khắc sâu hơn nữa nỗi nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh của bà Tú. Đằng sau đó, ta còn thấy tiếng uất nghẹn của một người chồng nhìn thấy nỗi cơ cực của vợ mà không thể đỡ đần. Và hơn cả là nỗi niềm thương xót, cảm phục và biết ơn vợ sâu sắc của Tú Xương.
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Trong hai câu thơ tác gỉa sử dùng thành ngữ và cách nói tăng cấp: “một duyên hai nợ” “năm nắng mười mưa” đã khắc họa cuộc đời cơ cực, tủi nhục của bà Tú. Bà với ông Tú, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Ông Tú tự thấy mình là một gánh nợ trong suốt cuộc đời người vợ. Nhưng người mẹ, người vợ đó không hề ý thức rằng đó là sự hi sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam khác, bà làm mọi việc một cách tự nhiên, âm thầm, không hề đòi hỏi, oán trách. Bà Tú coi đó như một lẽ thường tình, nào có kể công. Cách nói cam chịu “âu đành phận” “dám quản công” là ông Tú ngao ngán về chính mình, xót xa cho thân phận bà Tú mà thốt lên, mà kể công thay cho bà.
Khắc họa hình ảnh bà Tú, Tú Xương đã vận dụng tài tình nghệ thuật đảo ngữ (lặn lội, eo sèo), sử dụng thành ngữ (một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa). Giọng điệu đan xen hài hòa giữa trữ tình và trào phúng trong đó giọng trữ tình là chủ đạo để làm nổi bật lên vẻ đẹp nhân cách, phẩm chất của bà Tú.
Bài thơ khắc họa một cách chân thực, xúc động hình ảnh bà Tú đảm đang, tháo vát, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Bà Tú là điển hình cho đức hi sinh, sự tảo tần của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời tác phẩm cũng cho ta thấy bức chân dung tinh thần của chính nhà thơ – một con người bất đắc chí nhưng nhân cách cao đẹp.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương - mẫu 2
Phân tích hình ảnh bà tú trong bài thương vợ - mẫu 1
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, nếu như phần lớn các tác phẩm chủ yếu đề cao vai trò của vua chúa, quan lại, những bậc trượng phu, thì Trần Tế Xương – một gương mặt thơ ca độc đáo cuối thế kỷ XIX – lại chọn viết về người vợ của mình với tất cả sự yêu thương và trân trọng sâu sắc. Bài thơ "Thương vợ" là minh chứng sống động cho điều đó. Trong bài thơ, hình ảnh bà Tú – người phụ nữ đảm đang, chịu thương chịu khó – hiện lên một cách chân thực, xúc động, đặc biệt qua những nét khắc họa về cuộc sống lao động vất vả thường nhật. Dưới góc nhìn đầy cảm thông và biết ơn của nhà thơ, hình ảnh người vợ trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp tảo tần, nhẫn nại của người phụ nữ Việt Nam.
Ngay từ câu thơ đầu tiên:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông”,
người đọc đã cảm nhận được toàn bộ nhịp sống, không gian sống và nỗi nhọc nhằn không dứt của bà Tú. Cụm từ “quanh năm” cho thấy tính liên tục, đều đặn, không ngơi nghỉ. Đó là một cuộc sống không có ngày nghỉ, không có thời gian cho bản thân – bà Tú bị cuốn vào guồng quay mưu sinh để duy trì cuộc sống cho gia đình. Càng đặc biệt hơn khi Trần Tế Xương lựa chọn không gian “mom sông” – phần đất nhô ra ngoài bờ sông, vừa hẹp, vừa trơn trượt, vừa nguy hiểm – để nhấn mạnh môi trường lao động của vợ. Không phải nơi chợ xá sầm uất, an toàn; không phải nơi làm ăn nhàn nhã – mà là nơi đầy rủi ro. Điều đó cho thấy bà Tú không chỉ vất vả mà còn chấp nhận hi sinh sự an toàn bản thân để có thể mưu sinh cho chồng con.
Tiếp theo, hai câu thơ giữa:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
là hai hình ảnh đối lập về thời gian – không gian, nhưng đều gợi nên nỗi gian truân tột cùng. “Lặn lội thân cò” là một hình ảnh ẩn dụ mang đậm màu sắc dân gian. Trong ca dao Việt Nam, hình ảnh con cò vốn được dùng để biểu trưng cho người phụ nữ lam lũ:
“Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.”
Trần Tế Xương đã kế thừa hình ảnh quen thuộc ấy, nhưng đặt trong một ngữ cảnh mới: “khi quãng vắng”. Đó không phải là khi phố chợ đông người, mà là lúc đường xa, heo hút, không ai bên cạnh – một mình bà Tú gánh gồng trong sự lặng lẽ. Chính hình ảnh ấy gợi nên sự đơn độc đến quặn lòng. Người phụ nữ ấy không chỉ vật lộn với cuộc sống, mà còn vật lộn với cả sự cô đơn, không ai thấu hiểu. Dường như tất cả những gì bà Tú gánh chịu – đều âm thầm, lặng lẽ, và đầy thương tâm.
Trong khi đó, câu thơ tiếp theo:
“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
lại mở ra một khung cảnh ngược hẳn: đông đúc, ồn ào, xô bồ. “Eo sèo” là từ tượng thanh – gợi âm thanh tranh cãi, xô đẩy, lẫn lộn giữa người mua – kẻ bán. “Buổi đò đông” là thời điểm mà mọi người chen lấn, tấp nập. Trong không gian ấy, bà Tú không còn đơn độc, mà trở thành một cá thể nhỏ nhoi trong đám đông bon chen. Vậy là, dù trong “quãng vắng” hay “đò đông”, bà Tú cũng phải gồng mình. Một đằng là lặng lẽ nhọc nhằn, một đằng là ồn ào xô bồ – tất cả đều là những biểu hiện khác nhau của một cuộc sống mưu sinh cực nhọc, cam go.
Không dừng lại ở đó, điều khiến người đọc cảm phục bà Tú chính là sự kiên cường, bền bỉ vượt qua những vất vả ấy. Những câu thơ không có một lời kể khổ, oán trách nào từ phía bà Tú – mà tất cả đều được thuật lại qua cái nhìn của người chồng – như một lời tri ân. Trần Tế Xương không dùng từ hoa mỹ, không lạm dụng bi kịch – ông chỉ chọn những từ ngữ giản dị, đời thường – nhưng chính sự mộc mạc đó lại chứa đựng sự chân thành và xúc động sâu xa.
Ở bà Tú, người đọc không chỉ thấy sự tần tảo, mà còn cảm nhận được tấm lòng cao cả của một người vợ, người mẹ Việt Nam truyền thống. Người phụ nữ ấy dường như không sống cho bản thân, mà luôn vì người khác: vì chồng, vì con, vì gia đình. Sự chịu thương chịu khó của bà là điều đã và đang tiếp nối trong biết bao thế hệ phụ nữ Việt Nam – những người âm thầm dựng xây cuộc sống từ chính đôi tay cần lao của mình.
Điều đáng trân trọng hơn cả, là trong một xã hội trọng nam khinh nữ như thời phong kiến, khi hình ảnh người phụ nữ thường bị coi nhẹ, thì Trần Tế Xương – một nhà nho – lại chọn cách thể hiện tình cảm với vợ bằng việc ngợi ca công lao lao động của bà. Ông không tô hồng, không lãng mạn hóa, mà dựng lên hình ảnh một người vợ rất thực tế – rất “đời” – nhưng cũng rất đáng kính. Đây là một bước tiến lớn về tư tưởng nhân văn, thể hiện sự thức tỉnh sâu sắc của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của lao động và tình nghĩa vợ chồng.
Bài thơ “Thương vợ”, với hình tượng bà Tú tảo tần trong lao động, là một khúc ca về sự bền bỉ và đức hi sinh. Qua hình ảnh ấy, Trần Tế Xương không chỉ tri ân người vợ yêu thương của mình, mà còn để lại một hình mẫu đẹp cho hậu thế: hình ảnh người phụ nữ sống vì người khác, âm thầm nhưng vĩ đại, lặng lẽ nhưng bền bỉ – như những con sóng âm thầm nuôi dưỡng đại dương cuộc sống.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương - mẫu 3
Trong dòng chảy văn học trung đại Việt Nam, hiếm có một bài thơ nào mang đến hình ảnh người vợ – người phụ nữ trong gia đình – một cách chân thực, đầy cảm xúc và giàu tính nhân văn như bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương. Đây không chỉ là một lời tri ân giản dị mà chân thành của người chồng dành cho người vợ tảo tần, mà còn là biểu tượng cho tình nghĩa vợ chồng và phẩm chất đạo đức cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Trong bài thơ, hình ảnh bà Tú không chỉ là người lao động lam lũ, mà còn hiện lên như một người mẹ đảm đang, một người vợ hiền hậu, sẵn sàng hy sinh tất cả vì chồng con.
Câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng” là một trong những câu thơ đặc sắc, thể hiện sự thấu hiểu và biết ơn của Trần Tế Xương. Từ “đủ” ở đây vừa mang ý nghĩa đếm số – năm con và một chồng – vừa ẩn chứa giọng điệu hài hước chua chát. Từ “nuôi” khẳng định vai trò của bà Tú là người gánh vác chính trong gia đình. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ – khi người đàn ông là trụ cột – thì việc một người phụ nữ đảm đương hoàn toàn trách nhiệm kinh tế không chỉ là thiệt thòi mà còn là hiếm thấy. Nhưng với bà Tú, điều đó không phải gánh nặng mà là trách nhiệm, là tình yêu với chồng con.
Trần Tế Xương – với bản lĩnh của một trí thức có lòng tự trọng – khi viết câu thơ này không phải để than thân trách phận, mà là để ghi nhận công lao của vợ, người đã làm thay ông tất cả phần việc mà lẽ ra một người chồng nên gánh vác. Không có sự cảm phục và tình yêu sâu sắc thì khó có thể viết ra được một câu thơ chân thực và xúc động đến thế.
Tiếp đó, hai câu:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”
là lời triết lý giản dị mà sâu sắc về số phận của người phụ nữ xưa. “Duyên – nợ” là cách nhìn rất phổ biến trong văn hóa truyền thống khi nói đến tình vợ chồng. Nhưng với bà Tú, cái “duyên” thì ít mà cái “nợ” thì nhiều – nghĩa là cuộc hôn nhân này mang nhiều hy sinh hơn là hạnh phúc. Tuy nhiên, bà vẫn “đành phận”, không than thở, không trách móc. Câu thơ vừa thể hiện sự cam chịu, vừa thể hiện một đức hi sinh rất lớn – người phụ nữ ấy chấp nhận mọi thiệt thòi vì tình nghĩa, vì bổn phận, vì yêu thương.
Thành ngữ “năm nắng mười mưa” càng làm bật lên sự vất vả, nhọc nhằn của bà Tú trong công việc và cuộc sống. Nhưng bà không “quản công” – không tiếc công sức, không sợ khổ. Trong sự “không oán trách” ấy là cả một trái tim mạnh mẽ, một người vợ đầy vị tha và hết lòng vì chồng con.
Chân dung bà Tú – qua lăng kính của Trần Tế Xương – là một hình tượng vô cùng cảm động. Bà hiện lên không chỉ như một người vợ làm lụng cực khổ, mà còn như một người mẹ thầm lặng, một người phụ nữ giàu lòng hi sinh. Trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, bà Tú vẫn tỏa sáng với tất cả phẩm chất tốt đẹp: cần cù, nhẫn nại, đức độ, yêu thương.
Cái hay của bài thơ là ở chỗ: sự ngợi ca ấy không sáo rỗng, không lý tưởng hóa, mà xuất phát từ trải nghiệm sống, từ nỗi lòng thực sự của một người chồng hiểu vợ – thương vợ – nợ vợ. Đó chính là điểm nhân văn cao quý nhất trong thơ Trần Tế Xương.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương - mẫu 4
Từ bao đời nay, trong văn học dân gian Việt Nam, hình ảnh “con cò” đã trở thành biểu tượng cho người phụ nữ lam lũ, tảo tần, chịu thương chịu khó. Từ ca dao xưa:
“Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”
cho đến thơ trung đại, hình ảnh đó vẫn được kế thừa, phát triển. Và một trong những điểm sáng nghệ thuật lớn của bài thơ Thương vợ chính là việc Trần Tế Xương đưa hình ảnh “thân cò” ấy vào bài thơ một cách tài tình và đầy trân trọng.
Câu thơ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
không chỉ là một hình ảnh cụ thể, mà là một biểu tượng – đại diện cho cả một thế hệ phụ nữ Việt Nam. “Thân cò” – với hình dáng nhỏ bé, lầm lũi, chịu khó, một mình gánh vác cả gia đình – là ẩn dụ xúc động mà tác giả dành cho vợ mình. Không phải “em”, không phải “người ấy” – mà là một hình ảnh phổ quát, vươn khỏi phạm vi cá nhân để chạm tới tâm hồn bao thế hệ.
Đặc biệt, cụm từ “khi quãng vắng” càng làm nổi bật sự cô đơn, thầm lặng. Không ai bên cạnh, không ai chia sẻ – người phụ nữ ấy vẫn lặng lẽ làm tròn bổn phận. Đó là nỗi cô đơn cao cả, bởi nó gắn với trách nhiệm, với tình yêu thương, chứ không phải là sự bỏ mặc.
Ở bà Tú, ta bắt gặp một hình ảnh thân thương: dáng người tần tảo trong sương sớm, dáng người lặng lẽ trong chợ đông, đôi vai gầy nhưng vững vàng, đôi mắt mỏi nhưng vẫn sáng lấp lánh sự chịu đựng. Hình ảnh đó không xa lạ – bởi nó là hình ảnh của bao người mẹ, người chị, người vợ trong cuộc sống thường nhật – lặng lẽ, hi sinh mà không đòi hỏi bất cứ điều gì.
Trần Tế Xương – bằng một câu thơ – đã làm sống dậy một hình tượng bất hủ trong tâm thức người Việt. Qua đó, ông vừa tri ân vợ, vừa thể hiện sự thấu cảm, ngợi ca phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam muôn đời.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương - mẫu 5
Thơ ca từ lâu đã là nơi để bày tỏ tình yêu, sự ngưỡng mộ và trân trọng. Nhưng hiếm có một bài thơ nào vừa ngợi ca vừa tự trách bản thân chân thật đến tận cùng như bài Thương vợ của Trần Tế Xương. Trong đó, hình ảnh bà Tú không chỉ được khắc họa như một người phụ nữ đảm đang, vất vả, mà còn là tấm gương phản chiếu tâm hồn của người chồng – một người vừa yêu, vừa nợ vợ cả đời. Nhìn qua đôi mắt của Trần Tế Xương, bà Tú hiện lên không chỉ bằng hành động, mà còn bằng tình cảm sâu nặng và lòng biết ơn vô hạn.
Câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng” tưởng chừng là một lời kể khổ hài hước, nhưng càng đọc kỹ, ta càng cảm nhận được sự cay đắng và đau đáu phía sau. Cụm từ “với một chồng” – nghe tưởng nhẹ tênh – nhưng thực chất là một đòn xoáy sâu vào lòng tự trọng của người chồng. Trong xã hội xưa, người đàn ông là trụ cột gia đình. Vậy mà ở đây, người vợ phải “nuôi” cả chồng, như một đứa con – là điều khiến ông vừa xót xa, vừa thẹn với lương tâm.
Không phải ai cũng đủ dũng khí để tự giễu mình như thế. Nhưng Trần Tế Xương đã làm điều đó, để ngợi ca vợ mình bằng cách thật nhất – đặt bản thân vào vị trí thua thiệt để làm nổi bật sự vĩ đại của vợ. Đó là một sự hy sinh cảm xúc, không màu mè, không sến súa, mà đầy trân trọng.
Hai câu kết:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”
là điểm rơi cảm xúc mạnh nhất của bài thơ. Ở đây, người chồng không còn chỉ ngợi ca, mà chuyển sang tự trách móc và ân hận. Ông giận chính bản thân mình – người chồng “hờ hững”, không làm được gì để đỡ đần vợ, thậm chí còn là gánh nặng cho vợ. Nhưng ông không chỉ tự trách cá nhân, mà còn trách cả “thói đời” – xã hội phong kiến đã bạc đãi người phụ nữ, khiến họ phải chịu những gánh nặng không đáng có.
Tình cảm trong bài thơ vì thế không còn là tình yêu thông thường, mà là tình nghĩa – sự tri ân sâu sắc. Nó cho thấy một người chồng có tấm lòng nhân hậu, trung thực và đặc biệt biết trân quý người đã đồng hành cùng mình trong khốn khó. Dưới ngòi bút của ông, bà Tú không chỉ là một người phụ nữ giỏi giang, mà còn là biểu tượng cho đạo lý: thủy chung, hy sinh, hết lòng vì gia đình.
Trần Tế Xương đã làm một điều hiếm thấy trong văn chương trung đại: ca ngợi vợ một cách trực diện, sống động, chân thành – không đợi đến khi mất mới làm thơ truy điệu. Đó là một bước tiến của tư tưởng nhân văn, một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng nhưng thấm thía: hãy biết trân trọng người phụ nữ bên cạnh mình khi còn có thể.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ của Tế Xương - mẫu 6
Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương lại gây xúc động mạnh cho nhiều thế hệ độc giả. Đó không chỉ là bức chân dung của một người phụ nữ cụ thể – vợ ông – mà còn là biểu tượng sống động của người phụ nữ Việt Nam muôn đời: chịu thương, chịu khó, giàu lòng vị tha và luôn hi sinh cho người mình yêu thương.
Xuyên suốt bài thơ, từ những dòng mở đầu cho đến câu kết thúc, hình ảnh bà Tú không chỉ là người lao động miệt mài, mà còn là linh hồn của gia đình – là người gánh vác trách nhiệm, yêu thương và hi sinh mà không một lời than vãn. Chính Trần Tế Xương cũng phải cúi đầu trước sự kiên cường và đức hi sinh ấy, khi ông thốt lên đầy xót xa: “Có chồng hờ hững cũng như không”.
Hình ảnh “lặn lội thân cò” hay “năm nắng mười mưa” không còn là hình ảnh cá nhân, mà trở thành mẫu số chung của biết bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến – những người lặng lẽ gồng gánh, bươn chải để giữ mái ấm, nuôi con, lo chồng. Họ có thể không xuất hiện trên trang sử, nhưng chính họ mới là rường cột tinh thần – nền tảng đạo đức của cả một dân tộc.
Sức mạnh của bài thơ nằm ở sự dung dị – mộc mạc – nhưng xúc động. Trần Tế Xương không dùng lời hoa mỹ để ngợi ca vợ mình. Ông chỉ kể lại những gì vợ đã làm – như một thước phim đời thường – và từ đó, cái đẹp tự nhiên hiện ra. Chính sự thật thà ấy khiến bài thơ sống mãi. Bởi ai trong chúng ta cũng bắt gặp đâu đó hình bóng người mẹ, người bà, người chị… của mình trong bà Tú – những người âm thầm, bền bỉ, thắp sáng yêu thương từ những điều nhỏ bé nhất.
Trải qua hơn một thế kỷ, bài thơ Thương vợ vẫn giữ nguyên giá trị – không chỉ vì nghệ thuật, mà vì tình người. Hình ảnh bà Tú là minh chứng cho một vẻ đẹp không phôi pha theo thời gian: vẻ đẹp của đức hi sinh, của sự cam chịu đầy kiêu hãnh, của trái tim yêu thương vô điều kiện. Đó chính là vẻ đẹp bất tử của người phụ nữ Việt Nam.
Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:
Dàn ý Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương
- Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương (Bài văn mẫu 2)
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Lớp 11 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 11 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 11 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 11 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 11 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 11 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - KNTT
- Giải sgk Tin học 11 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 11 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 11 - KNTT
- Lớp 11 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 11 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 11 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 11 - CTST
- Giải sgk Hóa học 11 - CTST
- Giải sgk Sinh học 11 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 11 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 11 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 11 - CTST
- Lớp 11 - Cánh diều
- Soạn văn 11 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 11 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 11 - Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 11 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 11 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

