20+ Dàn ý bài thơ Đi đường (hay, ngắn gọn)



Dàn ý bài thơ Đi đường và các bài văn mẫu lớp 8 hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.

20+ Dàn ý bài thơ Đi đường (hay, ngắn gọn)

Quảng cáo

Bài giảng: Đi đường - Cô Phạm Lan Anh (Giáo viên VietJack)

Dàn ý bài thơ Đi đường

Dàn ý bài thơ Đi đường - mẫu 1

A. Mở bài:

- Bài thơ “Đi đường” là một trong những bài thơ thể hiện phẩm chất, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Hành trình đi đường núi gian lao

- Cách nói trực tiếp: đi đường – gian lao: tự bản thân phải được thực hành, được trải nghiệm thì mới hiểu được tính chất sự việc.

- Điệp từ “núi cao” thể hiện sự khúc khuỷu, trùng trùng điệp điệp những ngọn núi nối tiếp nhau.

⇒ Suy ngẫm về sự khổ ải, khúc khuỷu, đầy trắc trở của cuộc đời; ý chí, nghị lực sẵn sàng vượt qua tất cả.

Luận điểm 2: Niềm vui sướng khi được đứng trên đỉnh cao của chiến thắng

- Niềm vui sướng khi chinh phục được độ cao của núi: “lên đến tận cùng”

Quảng cáo

- Tâm thế, vị thế của con người khi chinh phục được thiên nhiên, vượt qua được giới hạn của bản thân: “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”

⇒ Niềm vui sướng khi được tự do đứng ngắm nhìn cảnh vật bên dưới. Sự chiêm nghiệm về cuộc đời: vượt qua gian lao sẽ đến được đỉnh cao của chiến thắng.

⇒ Hình ảnh người chiến sĩ cộng sản trên đỉnh cao của chiến thắng, qua đó thể hiện nghị lực, phong thái lạc quan, yêu đời của Bác dù đó là con đường đầy ải, chân tay bị trói buộc bởi xiềng, xích.

Luận điểm 3: Nghệ thuật

- Thể thơ tứ tuyệt giản dị, hàm súc

- Liên tưởng sâu sắc, thể hiện tư tưởng của tác giả.

C. Kết bài:

- Khẳng định lại nội dung tác phẩm: Bài thơ “Đi đường” đã thể hiện nghị lực, ý chí và tinh thần lạc quan vượt lên mọi hoàn cảnh của Hồ Chí Minh.

Quảng cáo

- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Qua những bài thơ như vậy, chúng ta có thể hiểu thêm được về những phẩm chất cao đẹp của Người, từ đó nhắc nhở mỗi thanh niên Việt Nam hcoj tập và noi theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Dàn ý bài thơ Đi đường - mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu bài thơ: Bài thơ " Đi đường" của Hồ Chí Minh tiêu biểu cho tâm hồn lớn của Người.

2. Thân bài

+ Cuộc hành trình trên đường không phải là dễ dàng, đơn giản mà chứa đựng những gian lao, khó nhọc

+ Những dãy núi cứ liên tiếp chạy dài như thách thức từng bước chân, thách thức ý chí, nghị lực người tù cách mạng

Quảng cáo

+ Vượt qua được dãy núi cao nhất cũng là lúc tới đỉnh

+ Lúc này đây, núi non hùng vĩ, đất trời bao la, non sông rộng lớn như thu vào tầm mắt.

Quảng cáo

+ Những tầng nghĩa khác của bài thơ:

Khúc ngân về lẽ sống cuộc đời

Khó khăn trên con đường cách mạng hướng đến độc lập tự do cho đất nước.

3. Kết bài

Đọc bài thơ ta thấy thêm kính yêu và trân trọng Bác hơn. Những vần thơ viết ra thấm đẫm những cảm xúc, chứa chan ý chí và niềm lạc quan.

Dàn ý bài thơ Đi đường - mẫu 2

1. Mở bài

- Khái quát vài nét tiêu biểu về cuộc đời và tài năng của chủ tịch Hồ Chí Minh

- Khái quát về bài thơ Đi đường: khắc họa chân thực những gian khổ mà người tù gặp phải, đồng thời thể hiện thể hiện chân dung tinh thần người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh, nói lên ý nghĩa triết lí cao cả.

2. Thân bài

a. Câu 1

- “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan”: Có đi đường mới biết đường khó đi: Đây không phải sự miêu tả con đường đơn thuần mà nhằm gợi lên những suy ngẫm sâu sắc

- Điệp từ “tẩu lộ” nhấn mạnh việc đi đường rất gian khổ, chỉ có người từng trải mới cảm nhận được hết sự vất vả đó

⇒ Đó chính là ẩn dụ chỉ con đường Cách mạng, con đường đầy gian nan thử thách

b. Câu 2

- Câu thơ khắc họa rõ nét những khó khăn gian khổ, những chông gai mà người tù phải trải qua “trùng san chi ngoại hựu trùng san”

- Câu thơ mang nghĩa có rất nhiều núi cao, hết núi cao này lại đến núi cao khác, khó khăn không giảm, không ngớt

- “hựu trùng san”: khẳng định khó khăn không những không giảm đi mà còn có sự tăng cấp

⇒ Điệp từ “trùng san” cộng thêm từ “hựu” càng làm tăng thêm sự gian truân, khó nhọc, hiện lên trước mắt người đọc những ngọn núi cao trọc trời

c. Câu 3

- “Trùng san đăng đáo cao phong hậu”: Diễn tả hoàn cảnh vượt mọi hoàn cảnh khó khăn gian khổ để “lên đến tận cùng”: Mọi gian khổ rồi sẽ kết thúc, mọi khó khăn sẽ lùi về sau

- Thấy rõ tứ thơ cổ điển “đăng cao” cùng phong hái ung dung chiếm lĩnh cảnh vật, hòa mình vào vũ trụ bao la, rộng lớn

- Con người như sánh ngang với thiên nhiên vũ trụ, ung dung giữa trời đất, ta không thấy ở đó bóng dáng của một người tù đang bị giam cầm trong thực tại mà chỉ thấy một tâm hồn tự do chiếm lĩnh

⇒ Có trải qua gian khổ thì mới tới đích, càng gian khổ thì càng gần tới đích hơn

d. Câu 4

- “Vạn lí dư đồ cố miện gian”: Lúc này người đi đường như một du khách ung dung say sưa ngắm nhìn lại khung cảnh thiên nhiên bao la, ngắm lại những gì mình đã trải qua => Con người làm chủ thiên nhiên, đất trời

⇒ Từ việc đi đường, bài thơ mang đến một chân lí đường đời đó là vượt qua được gian lao sẽ đi được tới thành công

3. Kết bài

- Khái quát những nét chủ yếu về giá trị nội dung và nghệ thuật làm nên thành công của văn bản

- Tài năng và khí chất của chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng là tấm gương cho thế hệ trẻ học tập và noi theo

Dàn ý bài thơ Đi đường - mẫu 3

1. Mở bài

Vài nét về tác giả Hồ Chí Minh với tư cách là một người nghệ sĩ

Ngắm trăng là bài thơ thể hiện rõ tình yêu thiên nhiên say mê và phong thái ung dung của Bác ngay cả trong cảnh tù đày.

Trích dẫn nhận định.

2. Thân bài

a. Giải thích nhận định

Phong thái ung dung, khí phách hào hùng, ý chí sắt đá: tư thế hiên ngang, ung dung, hào hùng của người chiến sĩ Cách mạng.

b. Chứng minh nhận định

* Hoàn cảnh ngắm trăng của thi sĩ (2 câu thơ đầu)

Đây là hai câu thơ thất ngôn trong bài thơ tứ tuyệt

Cách ngắt nhịp: 4/3

Luật: bằng (chữ thứ 2 của câu thứ nhất)

“Trong tù không rượu cũng không hoa”: Bác ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt: trong tù và thiếu thốn nhiều thứ.

⇒ Việc kể ra hoàn cảnh ngay trong câu thơ đầu không hải nhằm mục đích kêu than hay kể khổ mà để lí giải cho tâm trạng băn khoăn của người thi sĩ.

Trước sự khó khăn thiếu thốn ấy Bác vẫn hướng tới trăng bởi Người yêu trăng và có sự lạc quan hướng đến điểm sáng trong tâm hồn để vượt qua cảnh ngộ ngặt nghèo.

“Khó hững hờ” – trước cảnh đẹp đẽ trong lành không thể nào hững hờ, không thể bỏ lỡ

⇒ Người luôn vượt qua khó khăn hướng tới ánh sáng, vẫn luôn xốn xang trước cái đẹp dù cho trong hoàn cảnh nào.

* Sự giao hòa giữa người nghệ sĩ và trăng (2 câu thơ cuối)

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt”: Người và trăng đối nhau qua khung cửa nhà tù ⇒ bộc lộ chất thép trong tâm hồn, vẫn bất chấp song sắt trước mặt để ngắm trăng

Nhân hóa “nguyệt tòng song khích khán thi gia”- thể hiện trăng cũng giống như con người, cũng vượt qua song sắt nhà tù để tìm ngắm nhà thơ. Đây chính là sự hóa thân kì diệu, là giây phút thăng hoa tỏa sáng của tâm hồn nhà thơ, cho thấy sự giao thoa giữa người và trăng.

⇒ Nghệ thuật hết sức cân chỉnh ⇒ Sức mạnh tinh thần kì diệu, phong thái ung dung của người chiến sĩ Cách mạng.

⇒ Đặc điểm thơ Đường là chọn miêu tả những khoảnh khắc dồn nén của đời sống, đó thường sẽ là những khoảnh khắc đặc biệt trong cả tâm trạng và bên ngoài hiện thực. Thông qua một khoảnh khắc ngắm trăng của thi sĩ, thể hiện cốt cách thanh cao vượt khỏi tù đầy hướng về tương lai tốt đẹp.

3. Kết bài

Giá trị nghệ thuật làm nên thành công của văn bản.

Bài thơ cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn cốt cách thanh cao của người chiến sĩ cách mạng.

Khẳng định nhận định trên hoàn toàn đúng đắn.

Dàn ý bài thơ Đi đường - mẫu 4

1. Mở bài

Giới thiệu về Bác Hồ

Giới thiệu về bài thơ: Nằm trong tập "Nhật kí trong tù"

Ý nghĩa của bài thơ: Ca ngợi tinh thần, ý chí vượt gian khổ của Bác.

2. Thân bài

Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ:

Được sáng tác khi Người bị giam ở nhà từ Tưởng Giới Thạch

Sau những lần chuyển lao vất vả

Ý nghĩa bài thơ gửi gắm:

Ghi lại chân thực những khó khăn Hồ Chí Minh trải qua

Khẳng định triết lý: Vượt qua hết thử thách sẽ tới thành công.

Phân tích nội dung bài thơ:

Câu một: Lời nhận xét, chiêm nghiệm từ thực tế:

Câu thơ là lời nhận xét từ kinh nghiệm di chuyển của người tù với xiềng xích

Bác Hồ thấu hiểu những khó khăn, gian khổ ấy

"Tẩu lộ": Lặp lại, cho thấy những chặng đường dài cứ nối tiếp nhau, không thấy đích đến.

→ Khó khăn chồng chất, đường dài kéo lê chân người tù, miêu tả chân thực hiện thực→ Rút ra kinh nghiệm sống: Phải bắt tay vào công việc mới thấy được khó khăn.

→ Những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải trong những buổi đầu.

Câu hai: Những khó khăn, gian lao chồng chất trước mắt Bác Hồ:

Núi non liên tiếp xuất hiện trước tầm mắt

Điệp từ "trùng san": xuất hiện ở đầu và cuối câu → Núi non trập trùng trước mắt, kéo dài bất tận không ngớt.

Người tù phải trải qua hết khó khăn này tới khó khăn khác, phải vượt chặng đường dài → Khó khăn vất vả.

Miêu tả chặng đường Cách mạng với nhiều khó khăn trước mắt, cần người chiến sĩ Cách mạng có ý chí kiên cường.

Hai câu thơ cuối: Khẳng định kết quả sau khi vượt qua mọi khó khăn:

Câu ba: Hình ảnh núi non tiếp nối, nhịp điệu câu thơ dồn dập, hối hả tiến về phía trước, bước chân tới "tận cùng" đỉnh núi.

Câu bốn: Niềm hạnh phúc vỡ òa khi được đứng trước thiên nhiên rộng lớn.

Nhịp thơ ở đây nhanh, mạnh mẽ, hối hả, cảm xúc vui sướng dạt dào.

Hình ảnh Hồ Chí Minh vui sướng như được tự do khi đứng trước thiên nhiên.

→ Muốn khẳng định: Con đường Cách mạng phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng khi vượt qua hết, nhất định sẽ có được thắng lợi vẻ vang.

Kết luận chung:

Bài thơ là bức tranh hiện thực của Hồ Chí Minh khi chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch.

Bức tranh về ý chí kiên cường cũng như tâm hồn thơ đầy xúc cảm của một người chiến sĩ Cách mạng.

Gửi gắm chân lý về cuộc đời cũng như con đường Cách mạng: gian khổ, khó khăn, gập ghềnh, cần ý chí kiên cường, nhưng thành công sẽ vô cùng xứng đáng.

3. Kết bài

Khẳng định lại vấn đề.

Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ Cách mạng, thi nhân xuất sắc của dân tộc.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 1

Bài thơ "Đi đường" được rút ra trong tập "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ năm 1942 và phải chịu cảnh đày ải hết nhà lao này tới nhà lao khác, vất vả, gian lao vô cùng. Bài thơ không chỉ dừng lại ở bức tranh tả cảnh núi non trên đường chuyển lao mà ẩn chứa trong đó còn chất chứa tư tưởng triết lí đường đời sâu sắc mà Bác đã đúc kết, chiêm nghiệm được từ trong hoàn cảnh đặc biệt này: vượt qua gian lao chồng chất sẽ đi tới thắng lợi vẻ vang.

Trước hết bài thơ là một câu chuyện nhỏ về việc đi đường của Bác trong những năm tháng bị chính quyền tàu Tưởng bắt giữ:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan

Trùng san chi ngoại hựu trùng san

Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lí dư đồ cố miện gian.

Dịch thơ:

Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Ở câu khai đề, nhà thơ đã đưa ngay đến một bài học có tính chất nhận định chắc chắn: có đi đường thì mới biết đường đi khó. Đây không phải là một nhận định mang tính chủ quan mà hoàn toàn xuất phát từ hoàn cảnh thực mà chính Bác đang và đã trải qua.

Bởi trong hoàn cảnh đó, ngày nào cũng thế Bác thường xuyên bị áp giải đi hết nơi này đến nhà lao nơi ở khác ở Quảng Tây, nhiều khi tưởng chừng không thể chịu đựng nổi vì phải chịu cảnh đày ải rất khổ cực: "tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích... đi mãi đi mãi mà không biết đi đâu về đâu.

Dầm mưa dãi nắng, trèo núi qua truông... qua gần ba mươi nhà tù" (Trần Dân Tiên). Vì thế, câu thơ được viết lên từ một hiện thực trần trụi của một con người từng trải nên vô cùng thuyết phục. Tới câu thừa đề, nhà thơ chỉ rõ ra sự vất vả, gian lao của đường đi khó:

Trùng san chi ngoại hựu trùng san

(Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác)

Với kết cấu trùng điệp lặp lại hai chữ "trùng san" (hết lớp núi này tới núi lớp khác) kết hợp với từ "hựu" (lại) cho thấy cảnh núi non hiểm trở, trùng điệp cứ nối tiếp nhau chạy ra xa tít tắp mà không có điểm dừng. Vượt qua được dãy núi cao chót vót, trập trùng tưởng chừng đã thoát khổ nào ngờ những thử thách mới lại tiếp tục mở ra và đang chờ ở phía trước.

Vì thế, chữ "mới biết" ở câu thơ đầu bắt nhịp với câu thơ thứ hai tạo nên chiều sâu cảm xúc suy ngẫm của nhà thơ: Sự thấm thía về những chặng đường đã đi qua và những chặng đường gian nan đang tiếp tục đi tới. Đó là cả một hành trình không chỉ đòi hỏi con người có được một sức khỏe dẻo dai mà cao hơn còn cần có một ý chí, một nghị lực bền bỉ, một tinh thần vượt khó phi thường. Và cuối cùng Bác đã nỗ lực vượt lên chính mình để đi tới đỉnh cao chiến thắng:

Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lí dư đồ cố miện gian.

Vượt qua được biết bao nhiêu là thử thách, vất vả với những chặng đường đi gập ghềnh, uốn khúc quanh co, nỗi nhọc nhằn đã lùi lại phía sau và người đi đường đã leo được lên đỉnh cao chót vót. Biện pháp lặp từ ngữ, nối tiếp vắt dòng ở câu hai và ba qua từ "trùng san" không chỉ cho thấy cảnh núi cao, nối tiếp mà còn như tạo nên những bước chân chắc chắn đặt lên từng bậc thang mà leo tới đỉnh cao muôn trượng. Và khi đó, người đi đường hiện lên thật kì vĩ, hiên ngang, như dang hai tay ra mà làm chủ cả không gian của vũ trụ:

Vạn lí dư đồ cố miện gian.

(Thì muôn dặm nước non thu cả vào trong tầm mắt)

Câu thơ cuối đã phác họa thành công tư thế của con người chiến thắng. Tất cả vạn vật đã bỗng chốc thu nhỏ lại vào trong đôi mắt của người anh hùng. Nỗi nhọc nhằn vất vả vừa qua đã tan biến vào hư vô, thay thế vào đó là niềm vui sướng, hạnh phúc và cả sự đắm chìm hồn người vào trong cảnh vật thiên nhiên. Đó là đỉnh cao của sự chiến thắng, của sự vượt lên chiến thắng chính mình trước những vất vả, gian khó.

"Đi đường" là bài thơ có kết cấu chuẩn mực theo trình tự của thể thơ tứ tuyệt (đề - thực – luận – kết) cô đọng, hàm súc; giọng điệu biến chuyển linh hoạt: hai câu đầu rắn rỏi, chậm rãi, đầy suy ngẫm; hai câu sau phóng khoáng, nhẹ nhàng, thư thái... tất cả cả góp phần diễn tả thành công cảm xúc, suy ngẫm của nhân vật trữ tình trong thơ.

Bài thơ "Đi đường" không đơn giản dừng lại ở việc nói tới chuyện đường đi khó mà hình ảnh núi cao trập trùng còn biểu tượng cho sự khó khăn vất vả trong hành trình cuộc sống và hành trình cách mạng. Người chiến sĩ cách mạng phải trải qua rất nhiều chông gai thử thách nhưng khi đã nếm đủ những trái đắng đó thì sẽ gặt hái được thành công, sẽ đem lại thắng lợi rực rỡ.

Và đường đời cũng thế. Khi con người đã vượt qua thách thức thì sẽ đem lại kết quả xứng đáng, tạo nên những giá trị cao đẹp, bất tử, thiêng liêng. Bài thơ "Đi đường" ngắn gọn mà ý thơ mênh mang, gợi cho người đọc nhiều bài học ý nghĩa triết lí sâu sắc.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 2

“Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị

Màu quê hương bền bỉ đậm đà

Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta…"

(Tố Hữu)

Biết mỗi hành động, đọc mỗi bài thơ của Bác, chúng ta như được thêm vốn sống, tăng thêm nghị lực, lòng kiên nhẫn để vượt qua mọi thử thách gian lao và tin tưởng vững chắc vào kết quả công việc của mình.

Vào mùa thu 1942, từ Pác Bó, Bác Hồ qua Trung Quốc để tìm viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam, và bị chính quyền tỉnh Quảng Tây bấy giờ bắt giam. Suốt một năm sống trong ngục tù, Bác đã viết Nhật kí trong tù, 133 bài thơ được Bác viết bằng Hán văn về nhiều đề tài khác nhau với mục đích là để tự động viên mình, trong đó có bài Đi đường (Tẩu lộ).

Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn tứ tuyệt, nhà thơ Nam Trân dịch ra Việt ngữ bằng thể thơ lục bát. Cũng cần biết thêm là Bác thường mượn những hình ảnh dễ thấy trong cuộc sống làm đề tài để biểu đạt tư tưởng và tình cảm của mình. Ngay ở tựa bài Đi đường cũng đã chứng minh cho nhận xét ấy.

Từ hình ảnh cụ thể và khái quát ấy, nhà thơ Hồ Chí Minh đã viết thành câu khai:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,

Bản dịch của Nam Trân viết:

Đi đường mới biết gian lao,

Câu thơ nguyên tác có điệp ngữ “tẩu lộ” (đi đường) để nhấn mạnh, còn câu thơ tiếng Việt thì không. Thế nhưng từ “nan" (khó) trong nguyên tác được dịch bằng từ “gian lao" thì khá tuyệt bởi nó diễn đạt nỗi khó khăn, gian khổ đậm nét hơn. Từ hình ảnh cụ thể ấy, người đọc hiểu rộng ra: mọi công việc, khi bắt tay vào hành động mới thấy những khó khăn đang chờ đợi.

Những khó khăn ở câu khai được nhà thơ diễn đạt rõ hơn ở câu thừa. Nguyên tác viết:

Trùng san chi ngoại hựu trùng san;

Bản dịch viết:

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Nguyên tắc sử dụng điệp ngữ “trùng san – nhiều lớp núi chồng lên nhau” nhấn mạnh về núi non để làm rõ nghĩa cho “tẩu lộ nan – đi đường khó” ở câu khai. Bản dịch tiếng Việt cũng sử dụng điệp ngữ “núi cao”, quan hệ từ “rồi lại”, và cả tính từ láy âm “trập trùng” để cụ thể hóa “gian lao” ở câu khai. Như thế thì câu thơ dịch khá hoàn chỉnh, kể cả chất thơ. Từ sự việc có thật là lúc ở tù nhà thơ bị giải đi từ nhà lao này sang nhà lao khác ở tỉnh Quảng Tây, một tỉnh có địa hình nhiều rừng núi nhà thơ muốn nhấn mạnh đến những khó khăn không bao giờ dứt trong đời sống của mỗi người. Đường đời bình thường đi đã mệt, đường giành lại độc lập tự do đã bị thực dân tước mất thì khó khăn và nguy hiểm khôn lường. Lịch sử Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập – tự do cho dân tộc từ thời dựng nước cho tới lúc nhà thơ bị bắt và làm bài thơ này đã chứng minh cụ thể cho sự khó khăn khôn lường ấy.

Biết như thế để tự động viên mình trên đường đi. Lúc nào cũng lạc quan, lúc nào cũng cố gắng tiến bước để đạt được mục tiêu cuối cùng như hình ảnh trong hai câu chuyển và hợp trong nguyên tác:

Trùng san đăng đáo cao phong hậu,

Vạn lí dư đồ cố miện gian.

Và bản dịch:

Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Cả nguyên tác lẫn bản dịch đều dùng phép đảo ngữ để nhấn mạnh “trùng san – núi cao". Khó khăn nào cũng cố gắng vượt qua, núi cao nào cũng leo tới đỉnh rồi lại tiếp bước. Càng vượt được nhiều núi cao, trong thực tế, càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trèo đèo, lội suối, vượt qua những vực sâu… nguy hiểm. Hiểu rộng ra trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể cả việc học hành, càng vượt qua nhiều khó khăn càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong giải quyết công việc. Lúc ấy ta sẽ vững tin khi đối diện với một khó khăn mới khác trên bước đường đời.

Trong cuộc đời hoạt động, Bác đã đến nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người. Mỗi nơi, mỗi người đều giúp Bác thêm kiến thức, kinh nghiệm. Khi đã vượt qua tất cả những ngọn núi thấp để đến đỉnh ngọn cao nhất: vượt qua khó khăn lớn lao nhất thì đạt đến thành công. Hình ảnh kỳ vĩ: con người với thân hình nhỏ bé đứng trên đỉnh cao của ngọn núi vĩ đại: một bức tranh thật hào hùng; thành công ấy thật vinh quang. Vượt qua khó khăn lớn nhất sẽ thấy rõ đường đời cái gì là trắc trở, cái gì là hạnh phúc, bình yên.

Muốn thế, cần phải có tâm và trí

Ngày trước, Nguyễn Bá Học cũng đã từng mượn hình ảnh đi đường để nhấn mạnh vai trò nghị lực của con người rằng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông…”. Rồi cụ Phan Bội Châu cũng đã từng nhắc nhở: "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,/ Anh hùng hào kiệt có hơn ai" thì nay lại có thêm Hồ Chí Minh. Mang nội dung giáo dục tư tưởng chính trị nhưng không khô khan bởi biết mượn hình ảnh sự việc để bộc lộ tâm tư của mình. Đúng là thơ của một danh nhân văn hóa của cả thế giới.

Thế hệ của Bác, đàn em của Bác đã học tập tinh thần ấy trong hai cuộc chiến chống thực dân và đế quốc. Còn các thế hệ sau thì nhờ học bài thơ mà họ thấy đường đời khó để bình tĩnh chuẩn bị hành trang mà vượt qua: tri thức là phương tiện để "lên đến tận cùng”, vượt nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 3

Bài thơ "Đi đường" là đứa con tinh thần quý báu của Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Có thể nói thi phẩm ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: khi Bác bôn ba và bị bắt giam bên Trung Quốc, bằng chính những trải nghiệm của mình, Bác viết tập thơ "Ngục trung nhật kí" và "Đi đường" là một trong số đó. Bài thơ sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được dịch ra thể lục bát:

"Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"

Từ câu thơ đầu tiên, ta đã thấy rõ cách biểu đạt cùng lối văn giản dị của Bác Hồ:"Đi đường mới biết gian lao". "Đi đường" nghe có vẻ bình thường nhưng quả thực khi trong hoàn cảnh tay chân bị gông cùm xiềng xích ta mới thực sự hiểu "đi đường" là bị giải đi đường, là đi đày.

Bác mặc dù không sử dụng nhiều hình ảnh đặc tả liên quan nhưng chúng ta ít nhiều hiểu được bối cảnh lịch sử, tuy thơ không tái hiện cảnh Bác bị giải đi từ nhà lao này đến nhà lao khác, sống giữa cảnh đói rét và đọa đày. Cụm từ "mới biết" nghe như đang kể lại một cách khiêm tốn nhưng chất chứa ở bên trong biết bao khó khăn sóng gió mà Bác đã phải trải qua.

Như thế, câu đầu trong bài "Đi đường" không chỉ là sự đúc kết kinh nghiệm trong một cuộc đi đường, mà còn chứa đựng một thái độ đánh giá, nhận thức được suy nghĩ suốt chặng đường bị tù đày và cả trên con đường giải phóng, tìm tự do cho dân tộc. Đến với câu thứ hai cảnh thiên nhiên xuất hiện:"Núi cao rồi lại núi cao trập trùng".

Từng lớp núi cao xen nhau, trải dài nối tiếp mà Bác phải đi qua trên đường giải lao. Núi diễn ra những khó khăn và gian lao khắc khổ mà Bác phải đối mặt. Phía trước là núi phía sau lưng cũng là núi, trập trùng những khó khăn, dường như chúng dài vô tận, cũng lẽ thế mà nỗi khổ cũng kéo dài triền miên không biết bao giờ mới chấm dứt.

Câu thơ thứ hai như diễn giải ý của câu thơ thứ nhất. Đường đi đâu phải dễ mà toàn là núi cao trắc trở cản bước người tù đeo trên vai là những xiềng xích. Đến hai câu cuối, cảnh thiên nhiên lại được Bác miêu tả rõ rệt hơn:

"Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"

Những dãy núi cao không chỉ trải dài mà còn "lên đến tận cùng" cũng chính là lúc người tù gặp tột cùng những khó khăn. Con người giữa thiên nhiên vũ trụ trở nên nhỏ bé. Tuy vậy nhưng con người có ý chí có quyết tâm rốt cuộc cũng leo đến tận đỉnh núi sau muôn vàn những dốc cao dốc thấp.

Người đi đường tưởng chừng tản bộ ngắm núi nhưng thật sự phải đối mặt muôn vàn khó khăn, tuy vậy, người tù vẫn làm chủ được thiên nhiên. Lúc ấy người ta thu vào tầm mắt tất cả cảnh vật xung quanh, trong câu thơ có niềm vui khôn xiết của một con người đã vượt qua tất thảy khó khăn, khổ ải để có thể tận hưởng được cảnh nước non mây trời, cảnh giang sơn xã tắc trên đỉnh cao, đó là sự chiến thắng.

Bài thơ Đi Đường của vị cha già kính yêu của dân tộc không còn là một bài thơ miêu tả cảnh thông thường mà nó còn khắc họa hình ảnh người đi đường, với những nét phác họa rất giản dị mà lãng mạn vô cùng. Tạo cho bài thơ một sức cuốn hút riêng biệt.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 4

Bị bắt vì bị tình nghi là gián điệp, những ngày tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, Bác Hồ đã bị giải đi rất nhiều những nhà lao qua nhiều tỉnh thành ở Trung Quốc. Ra đời trong hoàn cảnh như vậy, rất nhiều bài thơ trong tập “Nhật kí trong tù” được lấy cảm hứng từ đề tài đi đường mà “Tẩu lộ” mà một bài thơ như vậy.Mở đầu bài thơ, Người đưa ra một lời triết lí vô cùng giản dị, tự nhiên mà chân xác:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
(Đi đường mới biết gian lao)

Đúng là chỉ có đi đường mới biết đường gập ghềnh, khó đi, phải là người trực tiếp đi thì mới biết gian lao của nó. Hơn nữa tuyến đường mà Hồ Chủ Tịch đang bị áp giải không hề dễ đi mà vô cùng lắm ổ voi, ổ chuột, Người lại đi chân đất, đầu trần trong tư thế bị trói, bị canh giữ. Một cung đường không hề dễ đi chút nào. Điệp lại từ “tẩu lộ” ở cũng một dòng thơ khiến cho câu thơ in sâu hơn ấn tượng về sự đi đường với người đọc. Những câu tiếp theo, Người đặc tả về sự khó khăn ấy một cách cụ thể:

Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng)

Đến đây ta hiểu rằng, những con đường mà thi nhân đang phải vượt đâu chỉ là những con đường xấu, gồ ghề mà là đường đồi núi cao, hiểm trở trập trùng không chỉ gian nan mà còn là nguy hiểm cận kề. Từ “trùng” được điệp lại nhiều lần gợi cho ta cảm giác về những dãy núi cao trập trùng, hết dãy này đến dãy khác, cứ đi mãi, đi mãi mà cảm giác không sao đi hết được vì cứ vượt qua được dãy núi này thì lại xuất hiện một dãy núi khác đòi hỏi ta lại phải vượt qua.

Nếu ở câu trên, núi được mở ra theo chiều rộng thì câu dưới núi mở ra theo chiều cao. Núi không chỉ nhiều, trùng điệp giăng khắp nơi mà còn cao, dựng đứng lên đến tận cùng vô cùng khó để vượt qua. Trong hoàn cảnh của người tù cách mạng bấy giờ thì đúng là nỗi khó khăn tăng lên gấp bội.

Ba câu trên đều nói tới khó khăn vất vả của việc đi đường, có phải ta sẽ lầm hiểu rằng nhà thơ đang mệt mỏi, kiệt sức, thoái chí nản lòng trên con đường gian nan cực khổ ấy nhưng nếu là vậy thì đó đã không phải là phong thái của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Mọi ánh sáng dường như hội tụ hết chính là ở câu thơ cuối bài:

Vạn lý dư đồ cố miện gian.
(Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)

Tuy rằng ở ba câu thơ trên, ta cảm nhận được biết bao gian nan khó nhọc của việc đi đường, xuống đến câu dưới, hình như mọi gian nan, hiểm trở tan biến đâu hết mà chỉ còn là khung cảnh thiên nhiên đẹp của muôn trùng nước non. Không còn hình bóng của một người tù bị áp giải mà chỉ còn hình ảnh của một du khách đang đứng giữa đất trời, sảng khoái mà tận hưởng thành quả sau khi đã vượt qua tất cả những cung đường khó khăn kia.

Ở ba câu thơ đầu, hình ảnh thiên nhiên bao la rợn ngợp đến đâu thì câu thơ cuối con người không còn nhỏ bé bị thiên nhiên làm cho khiếp sợ mà trở nên cao lớn, hào sảng, hiên ngang vô cùng. Và đây cũng là tinh thần lạc quan, yêu thiên nhiên nơi người chiến sĩ cách mạng vĩ đại không bao giờ mất niềm tin vào cuộc đời.

Cả bài thơ đã gợi ra một triết lí sâu sắc đó là đi đường tuy có gian lao nhưng nếu ta có bản lĩnh vượt qua thì ta sẽ gặt hái được vẻ đẹp cuối con đường. Suy rộng ra, đây là con đường cách mạng, con đường đời, con đường nào cũng nhiều gian nan hiểm trở nhưng khi ta đã vượt qua thì ta sẽ đạt được những thành quả như mong đợi.

Chỉ với bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cô đọng mà gợi ra cả một triết lí sâu sắc, và trên tất cả, ta thấy kính phục biết bao khí chất ngời sáng vĩ đại của Bác Hồ. Chính tinh thần thép ấy đã giúp Bác trở nên rắn rỏi hơn kể cả trong bất kì hoàn cảnh khắc nghiệt nào.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 5

Đi đường là bài thơ nằm trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Bài thơ được sáng tác trong quá trình Bác di chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác, nhưng ta không nhìn thấy cái vất vả, khó khăn trong từng câu chữ mà thấy được một chân lí, khi trải qua những khó khăn nhất định sẽ đạt được vinh quang. Ý nghĩa sâu sắc tạo nên giá trị của bài thơ chính là ở chỗ đó.

Trong thời gian bị giam giữ ở Trung Quốc, Bác đã phải di chuyển hơn 30 nhà lao khác nhau, khi trèo đèo, lối sống, khi băng rừng vượt sông, nhưng trong con người Bác vẫn ngời lên tinh thần lạc quan. Bài thơ này cùng rất nhiều bài thơ khác nằm trong chùm đề tài tự nhắc nhở, động viên mình vượt qua những thách thức, gian khổ.

Mở đầu bài thơ, Người nói lên nỗi gian lao của kẻ bộ hành: Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan. Câu thơ nguyên tác chữ tẩu lộ được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào những khó khăn, gian nan trong hành trình đi đường. Những khó khăn ấy được bật lên thành ý thơ thật giản dị, mộc mạc.

Có lẽ trong những năm tháng kháng chiến, đọc câu thơ của Bác ta sẽ cảm nhận đầy đủ và chân thực nhất những khó khăn mà người phải nếm trải nơi đất khách quê người. “Trùng san chi ngoại hựu trùng san” những dãy núi nhấp nhô, liên tiếp hiện ra, như không có điểm bắt đầu và kết thúc, tạo nên những thử thách liên tiếp thách thức sự dẻo dai, kiên gan của người tù cách mạng.

Đi một hành trình dài, không có phương tiện mà chỉ có duy nhất đôi chân liên tục di chuyển, đường đi khó khăn, đầy nguy hiểm đã cho thấy hết những gian lao, khổ ải mà người chiến sĩ cách mạng phải có lòng quyết tâm, ý chí kiên cường để vượt qua. Trải qua những khó khăn, khổ ải đó, ta sẽ thu lại được những gì đẹp đẽ, tình túy nhất:

Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian

Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên, Bác tập trung làm nổi bật những gian lao, vất vả mà người tù phải đối mặt thì đến câu thơ thứ ba người tù đã chinh phục được đỉnh cao ấy. Trong hành trình chinh phục thử thách thì đây chính là giây phút sung sướng và hạnh phúc nhất của người tù.

Trải qua bao khó khăn, Bác đã được đền đáp xứng đáng đó chính là muôn trùng nước non thu trọn vào tầm mắt. Cả một không gian mênh mông khoáng đạt hiện ra trước mặt người tù, đồng thời mở ra những chiều ý nghĩa sâu sắc: hoạt động cách mạng chắc chắn sẽ gặp nhiều gian lao thử thách, nhưng chỉ cần kiên gan, bền ý chí, không chịu lùi một bước chắc chắn sẽ giành được thắng lợi cuối cùng.

Bằng ngôn ngữ thơ giản dị, cô đọng cùng hai tầng ý nghĩa sâu sắc, Bác đã đem đến những triết lí sâu sắc cho những người đọc. Quá trình hoạt động cách mạng hay con đường đời sẽ vấp phải rất nhiều chông gai, sóng gió bởi vậy chúng ta không được mềm yếu, nản lòng mà phải dũng cảm, kiên cường vượt qua những thách thức đó. Và ánh sáng, niềm vinh quanh chắc chắn đang đợi ta nơi cuối con đường.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 6

Bài thơ Đi đường (Tẩu lộ) trích từ tập Nhật kí trong tù. Giống như một số bài có cùng chủ đề như Từ Long An đến Đồng Chính, Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Trên đường đi, Chiều tối, ở bài thơ này, Bác cũng ghi lại những điều cảm nhận được trên đường đi, khác ở chỗ sự cảm nhận ấy đã được khái quát và nâng cao lên thành triết lí. Do đó, ngoài ý nghĩa hiện thực, bài thơ còn chứa đựng ý nghĩa tượng trưng thâm thúy. Bằng nét bút tài hoa của người nghệ sĩ, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trên cái nền hoành tráng đó, nổi bật lên tư thế hiên ngang của người chiến sĩ với quyết tâm vượt khó và tinh thần lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,
Trùng san chi ngoại hựu trùng san;
Trùng san đăng đáo cao phong hậu,
Vạn lí dư đồ cố miện gian.

Dịch ra thơ tiếng Việt:

Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ, bốn câu). Sự hàm súc, cô đọng của ngôn từ cùng niêm luật nghiêm ngặt của thơ Đường không bó buộc nổi tứ thơ phóng khoáng và cảm xúc dạt dào của thi nhân. Bản dịch ra tiếng Việt theo thể lục bát tuy có làm mềm đi đôi chút cái âm điệu rắn chắc, khỏe khoắn vốn có của nguyên tắc nhưng vẫn thể hiện được nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bài thơ.

Câu mở đầu là nhận xét chung của Bác về chuyện đi đường:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
(Đi đường mới biết gian lao)

Đây không phải là nhận xét chủ quan chỉ sau một vài chuyến đi bình thường mà là sự đúc kết từ hiện thực của hành trình vất vả, hiểm nguy mà Bác đã phải trải qua. Trong thời gian mười bốn tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trái phép, Bác Hồ thường xuyên bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác khắp mười ba huyện của tỉnh Quảng Tây. Tay bị cùm, chân bị xích, đi trong sương gió lạnh buốt thấu xương hay trong nắng trưa đổ lửa. Vượt dốc, băng đèo, lội suối với những khó khăn thử thách nhiều lúc tưởng như quá sức chịu đựng của con người. Từ thực tế đó, tác giả khái quát thành chuyện đi đường.

Câu thơ thứ hai cụ thể hóa những gian lao trên đường đi thành hình ảnh:

Trùng san chi ngoại hựu trùng san
(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng)

Giữa khung cảnh thiên nhiên chỉ toàn là núi cao nối tiếp núi cao, con người vốn nhỏ bé, yếu ớt lại càng thêm nhỏ bé, yếu ớt. Đường xa, dặm thẳm, vực sâu, dốc đứng biết bao trở ngại, thách thức dễ làm cho con người chán nản, ngã lòng. Bởi vừa vượt qua mấy đỉnh núi cao, sức tinh thần, vật chất đã vơi, con người tưởng đã thoát nạn, ngờ đâu lại núi cao trập trùng chặn đứng trước mặt. Trong câu thơ chữ Hán có chữ hựu ác nghiệt, lời dịch nhân cái ác nghiệt ấy lên gấp đôi: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.

Gian lao kể sao cho xiết! Cấu trúc khép kín ở câu thơ chữ Hán (Trùng san chi ngoại hựu trùng san), chuyển sang kết cấu trùng lặp tăng tiến, vế sau nặng trĩu thêm bởi từ trập trùng ở cuối, cấu trúc khép kín và trùng lặp tăng tiến ấy dường như đẩy con người vào cái thế bị hãm chặt giữa ba bề bốn bên là rừng núi, không thoát ra được, chỉ có kiệt sức, nhụt chí, buông xuôi.

Nhưng đối với Bác thì hoàn toàn ngược lại:

Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian.

(Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.)

Giữa vòng vây núi non trập trùng, chất ngất, hoang vu đó nổi lên điểm sáng, điểm động là con người với vẻ ngoài tuy nhỏ bé, yếu ớt nhưng bên trong lại là một nghị lực, sức mạnh phi thường.

Câu thơ trước kết thúc bằng hình ảnh trùng san, câu thơ sau mở đầu cũng bằng hình ảnh ấy. Trong thơ dịch không liền như thế nhưng cũng lặp cụm từ được núi cao… núi cao… Âm điệu ấy nâng con người lên cái thế tưởng như bình thường nhưng thực ra lại rất hào hùng. Đạp lên đỉnh núi cao này bước sang đỉnh núi cao kia như đi trên bậc thang, cứ thế từ tốn lên đến đỉnh cao chót vót. Câu thơ chữ Hán dừng lại ở âm thanh chắc nịch của chữ hậu, tạo nên âm hưởng rắn rỏi, mạnh mẽ. Câu thơ dịch có âm điệu dàn trải như tiếng thở phào sung sướng, nhẹ nhõm: Núi cao lên đến tận cùng.

Đến đây thì mọi gian lao, vất vả đã khép lại; kết quả, phần thưởng xứng đáng mở ra. Lúc trước là mắt chạm vào vách núi cao thẳng đứng, chỉ toàn đá và cây; nay thì mắt nhìn bốn phương, đâu đâu cũng thấy muôn trùng nước non (vạn lí dư đổ). Leo lên đến tận cùng, đứng trên đỉnh núi cao nhất (cao phong), phóng tầm mắt ra xa, không những tầm nhìn mở rộng mà cả trí óc, tấm lòng, cuộc đời cũng mở rộng. Con người đã đến đích sau cuộc hành trình muôn vàn gian khổ. Âm hưởng câu thơ cuối ngân vang thể hiện niềm lạc quan vô hạn trước tương lai tươi đẹp. Cảnh muôn trùng nước non giờ đây đã thu gọn trong tầm mắt Bác. Bài thơ kết thúc ở niềm vui, niềm kiêu hãnh to lớn đó.

Vậy thì có phải bài thơ này chỉ đơn giản nói đến chuyện đi đường? Đi đường không phải chỉ có gian nan vì núi cao trập trùng mà còn có bao khó khăn nguy hiểm khác. Hình ảnh núi cao trập trùng tượng trưng cho vô vàn khó khăn, nguy hiểm mà con người thường gặp trong đời. Cho nên đường ở đây không phải là con đường đi trên mặt đất mà nó chính là đường đời, đường cách mạng.

Liệu có mấy ai suốt đời chỉ toàn gặp thuận buồm xuôi gió, thẳng một lèo đến thắng lợi, thành công? Trở ngại, nguy nan là chuyện thường tình. Muốn vượt qua tất cả, con người phải có một ý chí kiên cường, nội lực phi thường cùng một niềm tin không gì lay chuyển nổi. Như vậy mới có thể đạt được chiến thắng vinh quang. Thắng gian lao nguy hiểm và cao hơn nữa là chiến thắng chính mình.

Nếu con đường đó là con đường cách mạng thì chân lí tất yếu nêu trên lại càng sáng tỏ. Cuộc đời phấn đấu, hi sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương chói lọi. Trên con đường cách mạng đầy chông gai, sóng gió, với trí tuệ sáng suốt, ý chí và nghị lực tuyệt vời, Người đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua mọi gian lao, thử thách để lên đến đỉnh cao vinh quang của thời đại. Từ chuyện đi đường tưởng như rất đỗi bình thường, người chiến sĩ cộng sản lão thành Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta một bài học nhân sinh thiết thực và bổ ích.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 7

M.Goóc-ki từng nói “Kì lạ thay con người!”. Con người đến với cuộc đời và khẳng định sự tồn tại của mình bằng chính ý chí, nghị lực và một trái tim bao la. Đường đời với biết bao thử thách chính là lửa thử vàng để vàng càng sáng. Trong tập thơ Nhật kí trong tù, ta luôn bắt gặp một con người như thế. Bài thơ Đi đường cũng giống như những bài thơ chuyển lao khác như: Đi Nam Ninh, Chiều tối, Giải đi sớm,… không chỉ diễn tả nỗi gian nan của người tù trên bước đường chuyển lao mà hơn hết thể hiện một thái độ mang tính chất triết lí trước những chặng đường đời đầy thử thách và phong thái của một con người có tầm vóc cao cả.

Câu thơ đầu tiên Bác dành để nói về việc đi đường. Nhưng không phải là lời kêu than của một người đã trải qua biết bao chặng đường chuyển lao mà nó như một lời khẳng định, suy ngẫm bằng sự trải nghiệm thấm thía của chính người đi đường:

“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.”

Câu thơ như một triết lí của con người từng trải. Có đi đường, có trải qua những khó khăn vất vả trên những chặng đường mới thấm thía được nỗi gian nan, mới biết gian khổ là gì. Bài học này không có gì là mới lạ nhưng phải bằng chính những thử thách, trải nghiệm của bản thân mới có sự nhận thức sâu sắc được như vậy. Câu thơ giản dị mà chứa đựng cả một chân lí hiển nhiên. “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”. Điệp từ “trùng san” như mở ra trước mắt người đọc cả một con đường gập ghềnh những núi, càng nhấn mạnh sự trải dài như vô tận, không dứt hết lớp núi này đến lớp núi khác. Con đường đó dường như đối lập với sức người, vắt cạn sức lực của con người. Phải vượt qua con đường như thế mới có thể thấu hiểu được cái chân lí tưởng chừng như giản đơn: “Đi đường mới biết gian lao” mà Bác đã nói ở trong câu thơ đầu.

Hai câu thơ chỉ đơn giản nói chuyện đi đường vất vả, không hề trực tiếp miêu tả hình ảnh người đi đường. Nhưng ta vẫn thấy hình ảnh người đi đường xuất hiện. Con người ở đây không phải xuất hiện trong trạng thái thảnh thơi ngồi ngắm quãng đường với trập trùng những núi, không phải lữ khách du ngoạn để ngắm cảnh non sông, mây trời mà là một người tù đang phải trên đường chuyển lao. Vai đeo gông, chân mang xiềng xích, đói khát phải vượt qua bao đèo cao, dốc sâu, vực thẳm, qua những con đường núi non hiểm trở. Chữ “hựu” đứng giữa hai câu thơ dịch không chỉ diễn tả sự nối tiếp của núi non mà còn diễn tả sự vất vả của người tù. Chưa hết con đường này thì con đường núi khác đã hiện ra trước mắt, chưa hết khó khăn này thì một khó khăn khác lại ngáng trở phía trước. Thế nhưng, câu thơ không phải là tiếng thở dài, là lời than thở của người đi đường, mà chỉ là chân lí của người chiến sĩ cách mạng đúc rút được trên con đường chuyển lao, trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.

Hai câu thơ tiếp theo làm người đọc sửng sốt. Nếu như hai câu thơ đầu là chân lí, thì hai câu thơ sau bỗng vút lên nhẹ nhàng:

“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”

Câu thơ thứ ba tiếp tục tả núi. Không chỉ dừng lại ở việc núi cao rồi lại núi cao trập trùng mà con đường đi đã được đẩy lên đến tột cùng khó khăn, hiểm trở “lên đến tận cùng”. Câu thơ dường như là một sự reo vui của người tù khi đã vượt qua được hàng ngàn núi cao, dốc sâu để lên được tới đỉnh núi cao nhất, tận cùng nhất. Ta như bắt gặp ở đây một chủ đề quen thuộc: đăng cao và một phong thái mang cảm giác vũ trụ của con người: Đăng cao, viễn vọng. Khi lên đến đỉnh núi cao rồi, cũng là lúc con người ta có thể phóng tầm mắt bao quát và chiếm lĩnh cả một khoảng không bao la, như làm chủ vũ trụ, đất trời. Con người khi đó như trong tư thế của một người chiến thắng. Con người tự nhiên như được tạo một dáng vẻ hiên ngang, ngạo nghễ giữa một vũ trụ bao la như một du khách dạo chơi nhàn tản giữa non nước mây trời. Trong tư thế đó, con người như một “tiên ông đạo cốt”. Những khó khăn của đường đi không thể cầm tù, giam hãm được con người trong những dãy núi. Con người như đang cố gắng vươn lên làm chủ chặng đường của mình.

“Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ cuối là đỉnh điểm của cảm xúc. Có niềm vui khôn xiết của một con người đã vượt qua được bao khó khăn, khổ ải để có thể tận hưởng được cảnh nước non mây trời. Tưởng chừng như mọi khó khăn đều lùi xa, chỉ còn lại một con người làm chủ thiên nhiên, đất trời với phong thái ung dung, tự tại đầy lạc quan. Đến đây đất trời và con người như hòa làm một. Bài thơ vút lên trong một niềm cảm hứng lãng mạn.

Đi đường là một bài thơ ngắn nhưng chứa đựng một bài học lớn lao, nói về con đường có thực trong những năm tháng tù đày, chuyển lao hết nhà lao này đến nhà lao khác. Nhưng hơn hết, nó không chỉ đơn giản chỉ là con đường thật với núi non hiểm trở. Đó còn là con đường với biết bao chông gai thử thách. Những khó khăn đó không thể làm cho con người lùi bước. Bài thơ như một niềm tin sắt đá. Đường đời dù có gian nan, vất vả đến đâu nhưng chỉ cần con người kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm vượt qua cuối cùng sẽ đến đích. Khi đó con người sẽ lên được tới đỉnh cao của vinh quang, trí tuệ và làm chủ được những giá trị đích thực của cuộc sống.

Bài thơ Đi đường – Tẩu lộ không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận hình ảnh Bác vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Và như thế, bài thơ Đi đường cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ Nhật kí trong tù thực sự là một đóa hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 8

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là tác phẩm văn học có giá trị lớn, là một tác phẩm quý trong kho tàng văn học Việt Nam. Nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù thể hiện quan niệm sống đúng đắn, trở thành bài học quý cho tất cả mọi người. Bài thơ Đi đường là một dẫn chứng tiêu biểu. Đọc bài thơ Đi đường của Bác ta lại có thêm một bài học quý giá trong đường đời.

Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Trước hết, hình ảnh con đường trong bài thơ là con đường đi lại. Con đường lên núi thật khó khăn vất vả, nhiều gian nan, khó nhọc. Vượt qua ngọn núi này, phải trèo lên ngọn núi khác cao hơn, núi non trập trùng nối tiếp nhau. Thế nhưng, khi đã đặt chân lên đỉnh núi cao nhất, ta sẽ thấy được mọi thứ ở xung quanh, khi đó mọi khó khăn sẽ trở thành nhỏ bé.

Hình ảnh con đường trong bài thơ chứa đựng một ẩn ý sâu sắc. Con đường ấy chính là cuộc đời. Cuộc đời người có lắm gian nan, vất vả. Nếu có quyết tâm và lòng kiên trì vượt qua thử thách thì nhất định sẽ có được thành quả cao.

Bài thơ nêu ra một chân lý tuy bình thường nhưng rất sâu sắc và không phải ai cũng có thể thực hiện được. Những khó khăn trong cuộc sống xảy ra đòi hỏi con người phải giải quyết. Đó là thước đo cho lòng kiên trì và quyết tâm của mỗi con người. Chỉ khi có sự phấn đấu, rèn luyện thì mới mong đạt được kết quả cuối cùng.

Bác Hồ cũng đã có một số câu thơ nói lên những thử thách trong cuộc sống, qua đó đề cao ý chí quyết tâm của con người:

Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.

Bài thơ Đi đường đã cho thấy khí phách và ý chí của Bác Hồ. Quả thật bài thơ Đi đường không còn là chuyến đi riêng của Bác mà là chuyến đi cho tất cả mọi người.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 9

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ "Nhật kí trong tù". Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, "Đi đường" ( Tẩu lộ) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao.

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là khi Hồ Chí Minh bị bắt bớ, tù đày ở nhà tù Tưởng Giới Thạch và Người buộc phải di chuyển hết từ nhà lao này sang nhà lao khác. Trong tình thế ấy, khó khăn, vất vả, gian lao đều có thể làm chùn bước chân của người tù nhưng với tấm lòng yêu đời, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, không những không chịu khuất phục, Người còn dùng những lời thơ của mình ghi lại chân thực hoàn cảnh gian khổ đồng thời thôi thúc ý chí của mình. Bác muốn qua đó thể hiện chân dung ý chí bất khuất của một người tù Cách mạng dù trong hoàn cảnh khó khăn, và cũng để nêu lên triết lý muôn đời rằng: Vượt qua hết gian lao thử thách, chắc chắn sẽ đi tới được thắng lợi vẻ vang.

Vẫn là thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt Người ưa thích, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh hiện thực cùng bức tranh tinh thần của mình trong những lần chuyển lao bằng bài thơ "Đi đường":

"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan

Trùng san chi ngoại hựu trùng san

Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lý dư đồ cố miện gian"

Dịch thơ:

"Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"

Câu đầu của bài thơ mở ra như một lời nhận xét, một lời chiêm nghiệm từ thực tế cuộc sống:

"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan"

(Đi đường mới biết gian lao)

Để rút ra được sự chiêm nghiệm, chân lý này, hẳn Người đã phải trải qua biết bao gian khó, biết bao cung đường trong những lần chuyển trại, chuyển lao. Bao lần bị giặc đày ải từ nhà tù này sang nhà tù khác, điều đó đã khiến Bác có được sự thấu hiểu về nỗi gian lao trong mỗi bước chân. Mỗi lần bước đi, xiềng xích, gông cùm kéo lê bước chân người tù Cách mạng khiến cho Người càng thấy khó nhọc hơn bội phần. Thấm thía được điều đó, Người đã viết lên câu thơ mở đầu bài thơ "Tẩu lộ" của mình. Đọc lên, chúng ta cảm thấy thật thấm thía biết bao, thấm thía cái gian lao ngấm trong từ câu chữ. Hai từ "tẩu lộ" được lặp lại liên tiếp trong cùng một câu thơ phải chăng đó là sự nhấn mạnh của Bác về những cung đường chuyển lao dài bất tận, khó khăn chồng chất, làm Người suy kiệt cả thể chất lẫn tinh thần.

Chỉ với một câu thơ thất ngôn ngắn ngủi, Hồ Chí Minh đã vẽ lại cho chúng ta hình ảnh của một người tù đang vất vả lê từng bước chân trên chặng đường gập ghềnh trong những lần chuyển lao, những khó khăn, cũng như những kinh nghiệm được đúc rút ra từ những chặng đường dài đó. Và cũng là để nhắn nhủ với chúng ta rằng: Trong cuộc sống, phải bắt tay vào công việc, phải "tẩu lộ" mới thấu hiểu được những mệt mỏi trong công việc ấy.

Câu thơ đầu vang lên đã khiến cho người đọc chúng ta không khỏi bồi hồi, xúc động về những vất vả mà Người đã phải chịu đựng chốn ngục tù ấy. Vậy mà câu thơ thứ hai khi đọc lên, càng khiến chúng ta thêm thấu hiểu những khó khăn ấy khi mà:

"Trùng san chi ngoại hựu trùng san"

(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng)

Trên bước đường chuyển lao ấy, Bác không chỉ phải "ăn gió tắm sương" mà Người còn phải băng rừng, vượt suối, trải qua bao khó khăn trên bước đường gập ghềnh. Nhưng những vất vả ấy chẳng thấm vào đâu so với những lần vượt đèo vượt núi. Với đôi chân mang gông cùm, Người phải lê chân trèo lên những đỉnh núi cao, không chỉ một mà là hết ngọn núi này đến ngọn núi khác cứ liên tiếp nối nhau trước mắt Người. "Trùng san" (núi cao), từng ngọn cứ liên tiếp "chi ngoại hựu trùng san". Điệp từ "trùng san" được lặp lại trong câu, một đứng đầu, một đứng cuối khiến cho chúng ta khi đọc lên có cảm tưởng từng ngọn núi cứ dập dềnh liên tiếp trước mắt, tưởng như là bất tận, liên hồi.

Khách bộ hành thông thường khi đi đã thấy khó nhọc, vậy mà Bác Hồ của chúng ta chân mang xiềng xích, gông cùm trên vai lại phải vượt hết chặng đường gập ghềnh này đến chặng đường gập ghềnh khác, vượt hết núi này tới núi khác, quả thật, gian lao, khó nhọc vô cùng. Phải chăng những đỉnh núi cao liên tiếp, những gập ghềnh khó nhọc mà Người đang đi cũng là biểu tượng cho những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải? Những khó khăn, thử thách ấy đang đòi hỏi một người Cách mạng có ý chí kiên cường để vượt qua mà mang lại thắng lợi vẻ vang?

Khép lại hai câu thơ đầu, người đọc chúng ta chỉ thấy hiện lên trước mắt mình những con đường dài gập ghềnh, những đỉnh núi nhấp nhô, nối nhau dài bất tận. Con đường của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch thật khó khăn, vất vả đến khốn cùng. Phải chăng, những khó khăn ấy mà Bác nói đến, những đỉnh núi cao, những gian lao khi đi đường là những thử thách của cuộc đời dành cho ý chí của người tù nhân Cách mạng giàu lòng yêu nước trước thành công cuối cùng?

Bước sang hai câu thơ cuối, vẫn là hình ảnh của núi non nhưng câu thơ lại mang một sắc thái thật khác lạ. Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên, người ta thấy trong đó là những khó khăn, gian lao, là những chiêm nghiệm về cuộc đời của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh, thì ở trong câu thơ này, chúng ta lại nhận ra được một hương vị thật khác:

"Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lý dư đồ cố miện gian"

Dịch thơ:

(Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)

Hình ảnh núi non vẫn hiện lên sừng sững, nhưng lại chẳng thể ngăn bước chân của người Cách mạng với ý chí quyết tâm kiên cường, quyết tâm chinh phục cả đỉnh núi cao nhất. Nhịp thơ ở đây nghe thật nhanh, thật mạnh, thoảng trong đó là tiếng thở thật dồn dập của người tù khi đang cố bước thật nhanh lên đỉnh núi. Sự khẩn trương ấy lan ra toàn câu thơ, mỗi từ lại càng thêm mạnh, thêm khẩn trương, dồn dập hơn nữa:

"Trùng san đăng đáo cao phong hậu"

(Núi cao lên đến tận cùng)

Đọc câu thơ đến cuối, người ta thấy phảng phất trong nhịp thơ là niềm hạnh phúc, xốn xang khi đã chinh phục được "tận cùng" của "núi cao". Để đến câu thơ cuối cùng, người tù ấy thở một cái thật mạnh, sảng khoái vô cùng:

"Vạn lý dư đồ cố miện gian"

(Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non)

Ở câu thơ thứ ba, người đọc dường như thấy tiếng thở dồn dập của Người, khi ấy liệu ai trong chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi liệu Người đã đến được đỉnh núi hay chưa, Người đã bước được đến "tận cùng" hay chưa, ...? Để đến khi câu thơ thứ tư thốt ra nhẹ nhõm như một tiếng thở, thì người đọc chúng ta cũng nhẹ nhàng, khoan khoái tới lạ thường. Lên được tận cao "tận cùng" của đỉnh núi, mở ra trước tầm mắt của chúng ta là cả một không gian to lớn, rộng mênh mông, bát ngát của "muôn trùng nước non".

Nếu trong hai câu thơ đầu, đọc thơ, người đọc như cảm thấy sự vất vả, gian khó, một tâm trạng mang nặng suy tư của Hồ Chí Minh thì hai câu cuối, tình thế đã thay đổi thật nhanh chóng, tâm trạng cũng mang một màu vui vẻ khác thường. Từ tư thế của một người tù đang trong cảnh đày đọa, Hồ Chí Minh bỗng vụt đứng lên trong tư thế của một người tự do, Người chẳng còn mang xiềng xích, cũng chẳng bị đọa đày, tất cả chỉ là cảm giác vui sướng, ung dung trước không gian mênh mông, bát ngát của đất trời. Và từ trong sâu thẳm tâm hồn của Người đang reo vui thật rộn rã. Câu thơ thứ tư ấy thốt ra là một tiếng reo vui, mừng rỡ vô cùng. Sau chặng đường dài vất vả là thế, cuối cùng người tù Cách mạng ấy cũng đã chạm đến được đỉnh của thiên nhiên, được ngắm nhìn thiên nhiên mà Người trân trọng, yêu quý vô vàn. Đây chắc hẳn cũng là lời gửi gắm sâu thẳm của Người trên con đường Cách mạng rằng: Con đường Cách mạng chắc chắn sẽ khó khăn, núi cao sẽ liên tiếp, trở ngại, thách thức, thế nhưng khi bước chân được đến đỉnh của nó, chúng ta chắc chắn sẽ thu được thành công thật vẻ vang, thật xứng đáng. Và để làm được điều đó, chúng ta phải giữ được ý chí, được niềm tin thật kiên định, tin tưởng vào đường lối Cách mạng của Đảng.

Bài thơ "Tẩu lộ" ( Đi đường) khép lại, thế nhưng đọng lại trong tâm trí chúng ta là hình ảnh của một người tù Cách mạng kiên định dù trong gian khó vẫn giữ một ý chí quật cường. Bài thơ vừa là lời bày tỏ những gian khổ của Bác trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch vừa là một chân lý Bác muốn nêu ra sau những lần chiêm nghiệm của mình. Đường đi khó khăn, gập ghềnh, cũng như cuộc sống, như con đường Cách mạng vậy, nhưng chỉ cần chúng ta có quyết tâm, có ý chí mạnh mẽ thì chắc chắn thắng lợi vẻ vang sẽ đến và ngày đó chẳng còn xa nữa.

Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta cảm nhận được những khó khăn trong thời gian Người bị giam cầm nơi đất khách, cũng là lời ca ngợi ý chí chiến đấu kiên cường của Hồ Chí Minh. Chắc hẳn, mãi đến sau này, bài thơ vẫn sẽ mãi là một trong những tuyệt tác của Người - Hồ Chí Minh: Người chiến sĩ Cách mạng - nhà thi nhân xuất sắc của dân tộc ta.

Phân tích bài thơ Đi đường - mẫu 10

Bác Hồ từng tự sự: "Ngâm thơ ta vốn không ham / Nhưng mà trong ngục biết làm sao đây?". Và bởi thế, ra đời trong những năm tháng Bác bị giam cầm, tập thơ "Nhật kí trong tù” từng được ví như một đoá hoa mà vô tình văn học Việt Nam nhặt được bên đường. Toát lên từ tập thơ là một tinh thần "thép" rắn rỏi, lạc quan: “Từ những bài thơ viết trong hoàn cảnh nhà tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo và mục nát toát ra một phong thái ung dung, một khí phách hào hùng, một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan cách mạng không gì lay chuyển nổi”. Bài thơ "Đi đường" là một trong những số ấy.

“Tài lộ tài tri tẩu lộ nan

Trùng san chi ngoại hựu trùng san

Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lí dư đồ cố miện gian”.

Bài thơ được dịch là:

“Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng

Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.

Bài thơ ra đời trong những năm tháng Bác Hồ bị bắt giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bác bị chúng giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Đường chuyển lao không những dài dặc mà còn vô cùng gian lao, phải trải qua núi non trùng diệp và những vực thẳm hun hút hiểm sâu. Nhưng dẫu vậy, từ trong khổ đau vẫn bừng lên ý chí “thép” mang đậm phong cách Hồ Chí Minh. Bài thơ “Đi đường” - “Tẩu lộ” đã thể hiện rõ điều đó.

“Đi đường mới biết gian lao”

Câu thơ là một nhận định nhưng đồng thời cũng là một chân lí: Có đi đường mới biết những sự vất vả, khó khăn của việc đi đường. Vậy những điều “nan”, “gian lao” ấy là gì?

“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng"

Đường chuyển lao là những con đường đi qua các vùng núi hiểm trở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tầng tầng lớp lớp những ngọn núi tiếp nối nhau chạy mãi đến chân trời. Hết ngọn núi này lại đến ngọn núi khác. Vậy nên mới có hình ảnh “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Trong nguyên văn chữ Hán là “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”. “Trùng san” có nghĩa là trùng trùng lớp lớp núi cao; “hựu” là “lại", câu thơ mang ý nghía: trùng trùng núi cao bên ngoài lại có núi cao trùng trùng. Một câu thơ mà có tớỉ hai chữ “trùng san", huống chi lại có chữ “hựu”, bởi vậy, câu thơ nguyên gốc gợi nên hình ảnh những đỉnh núi nhọn hoắt cao vút trời xanh trập trùng chạy mãi đến chân trời. Con đường ấy, mới chỉ nhìn thôi đã thấy đáng sợ. Nếu tù nhân là một người tù bình thường, ắt hẳn họ đã bị nỗi sợ hãi làm cho yếu mềm, nhụt chí. Nhưng người tù ấy lại là một người cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Và bởi vậy, hai câu thơ cuối bài đã thực sự thăng hoa:

“Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lí dư đồ cố miện gian”

Hai câu thơ được dịch khá sát là:

“Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.

Sau những vẩt vả, nhọc nhằn của con đường leo núi, khi đã lên đến tận đỉnh người tù cách mạng được chứng kiến một hình ảnh vô cùng hùng vi “muôn trùng nước non”. Theo tâm lí thông thường, trên con đường gian lao trập trùng đồi núi, khi lên đến đỉnh, con người dễ lo lắng, mệt mỏi khi nghĩ đến con đường xuống núi dốc thẳm cheo leo và những quả núi ngút ngàn khác. Nhưng Hồ Chí Minh thì ngược lại. Điều Người cảm nhận là niềm tự hào, sung sướng khi được đứng từ trên đỉnh cao chiêm ngưỡng sự hùng vĩ bao la của nước non, vũ trụ. Hình ảnh “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” thật hào sảng. Nó gợi đến hình ảnh bé nhỏ của con người đang đối diện trước cái mênh mông, trập trùng của giang san. Con người ấy không choáng ngợp trước sự kì vĩ của đất trời mà rất vui sướng, bồi hồi như lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy gương mặt của nước non. Chính cảm quan ấy đã nâng vị thế con người sánh ngang tầm non nước. Đứng trước một sự thật khách quan, mỗi con người có một cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy phụ thuộc vào thế giới quan và bản lĩnh của con người, ở Hồ Chí Minh Người đã có những cảm nhận lạc quan, tươi sáng về cuộc đời. Người không bị cái nhọc nhằn của thể xác lấn át đi ước mơ, khát vọng và lí tưởng mà ngược lại, đã vượt qua gian lao để khẳng định ý chí bền bỉ, sắt đá và niềm lạc quan, tin tưởng vào cách mạng của bản thân mình. Đó là tinh thần thép là vẻ đẹp tâm hồn Bác.

Bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận hình ảnh Bác vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Và như thế, bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ "Nhật kí trong tù" thực sự là một đoá hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam.

Xem thêm các bài Văn mẫu thuyết minh, phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 8 khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay lớp 8 theo từng phần:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 8

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 8 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 8Những bài văn hay lớp 8 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


di-duong.jsp


Giải bài tập lớp 8 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên