7+ Phân tích Tức cảnh Pác Bó (ngắn gọn)
Đề bài: Phân tích bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" của Hồ Chí Minh.
7+ Phân tích Tức cảnh Pác Bó (ngắn gọn)
Bài giảng: Tức cảnh Pác Pó - Cô Phạm Lan Anh (Giáo viên VietJack)
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 1
Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biền giới nở hoa mơ.
(Tố Hữu)
Năm 1941, sau nhiều năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về tới Pác Bó, Cao Bằng. Hang Pác Bó đã trở thành nơi sống và hoạt động bí mật của Người. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó được Bác viết tại đây (tháng 2/1941) theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Bài thơ phản ánh hoạt động phong phú, sôi nổi, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại trong hoàn cảnh bí mật khó khăn gian khổ.
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Câu thơ, gợi nên cuộc sống bí mật của nhà thơ vào những ngày đầu, mới về nước đang nhóm lửa, phải sống ở trong hang, làm việc ở hang. Không gian và cả thời gian chật chội, quẩn quanh, đơn điệu. Còn gì gò bó cho bằng những ngày, những tối, những tháng năm mà con người vốn sống phóng khoáng tự do phải chịu cảnh nhàm chán không thể thay đổi với hang, với suối quen thuộc đến trơ mòn. Thế mà đọc lại câu thơ sáng ra bờ suối tối vào hangy ta thấy toát lên giọng điệu thơ thật thoải mái, phơi phới. Với cách nhịp 4/3 đã tạo thành hai vế đối sóng đôi: sáng ra, tối vào rất nhịp nhàng. Cuộc sống của Bác Hồ đã trở thành nề nếp, hòa điệu với nhịp sống của núi rừng rất ung dung. Qui luật vận động ấy đã thể hiện một tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất chủ động và lạc quan.
Câu thơ thứ hai vẫn tiếp tục mạch cảm xúc của câu đầu, có thêm nét vui đùa: lương thực, thực phẩm ở đây thật đầy đủ đến mức dư thừa:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Ba chữ vẫn sẵn sàng có nghĩa là cháo bẹ, rau măng luôn có sẵn, đủ dùng ở nơi suối hang này. Đằng sau vần thơ là nụ cười của một con người sống trong gian khổ khó khăn nhưng vẫn lạc quan yêu đời, ý tưởng này vẫn theo suốt trong con người Bác qua từng vần thơ khác:
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay
Non xanh nước biếc tha hồ dạo
Rượu ngọt chè tươi mặc sức say
(Cảnh rừng Việt Bắc - 1947)
Cách nói vẫn sẵn sàng, tha hồ dạo, mặc sức say… sao mà sang trọng, hóm hỉnh và yêu đời đến thế! Còn gì thích thú hơn khi cuộc sống cần gì có nấy! Còn gì thú vị hơn khi được sống giao hòa với thiên nhiên. Ngày được làm việc bên bờ suối, làm bạn với thiên nhiên, tối trở về hang (nhà) để nghỉ ngơi và nghe tiếng suối trong mà đã có lần ta bắt gặp trong thơ Bác: Tiếng suối trong như tiếng hát xa.
Khác với người xưa Công thành thân thoái, mai danh ẩn tích ở chốn núi rừng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và chiến đấu vì một lý tưởng cao đẹp:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Bàn đá, đá ở đây là đá núi, đá tự nhiên. Trên cái bàn đá thô sơ ấy Bác viết Đường cách mệnh. Phong trào và cán bộ cần, Người dịch sử Đảng. Hình ảnh bàn đá chông chênh không chỉ nói lên khó khăn thiếu thốn chồng chất mà còn biểu lộ tinh thần phấn đấu hy sinh vì sự thắng lợi của cách mạng.
Đặt ba điều ấy vào trong cùng một hệ thống mới thấy sự nghiệp cách mạng mà người chèo lái gian nan biết chừng nào? Hiểu như vậy mới thấy những hy sinh, từ những chuyện nhỏ nhặt trong thời gian dài của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác cũng là người cũng bình thường như tất cả chúng ta, nghĩa là biết đói, biết rét, biết thiếu thốn, ấy là chưa kể những chông gai mà người vượt qua trên con đường cách mạng. Nhưng kỳ lạ thay, câu kết bài thơ không đi về hướng ấy:
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Sang ở đây là sang trọng, cao sang, nghĩa là rất đầy đủ, rất cao quí. Con người rơi vào hoàn cảnh cao sang, nhất là thật là sang thì hạnh phúc có thể coi là đã đến tột độ. Nhưng đối với Bác thi lại là hang tối, cháo bẹ, rau măng, bàn đá chông chênh thi sao gọi là sang được? Phải chăng niềm vui lớn nhất, niềm vui vô hạn của người chiến sĩ cách mạng sau ba mươi năm xa nước đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước (Chế Lan Viên), nay được trở về sống giữa lòng đất nước yêu dấu, trực tiếp lãnh đạo cách mạng để cứu dân cứu nước:
Ba mươi năm ấy chân không mỏi
Mà đến bây giờ mới tới nơi
(Tố Hữu)
Đặc biệt, lúc này Bác Hồ còn rất vui vì người tin chắc rằng thời cơ giải phóng dân tộc đang tới gần, điều mà Bác chiến đấu suốt đời để đạt tới đang trỗ thành hiện thực. So với niềm vui lớn lao đó thì những gian khổ trong sinh hoạt có nghĩa lý gì? Tất cả đều trở thành thật là sang vì đó là cuộc đời cách mạng, được cống hiến cho cách mạng.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là tâm hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài thơ như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt nam mà Bác là người chèo lái, gợi lên trong lòng người đọc chúng ta bài học về tinh thần lạc quan, biết sống và hướng về một lý tưởng cao đẹp.
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 2
Thú lâm tuyền đã từng xuất hiện trong thơ ca của các nhà nho xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và niềm vui thú khi được sống cùng thiên nhiên đó cũng xuất hiện trong thơ ca Hồ Chí Minh, tiêu biểu là bài thơ "Tức cảnh Pác Bó":
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Bài thơ này được Bác viết vào tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về để lãnh đạo cách mạng Việt Nam một cách trực tiếp với mục đích nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức.
Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt - Trung, đó là hang Pác Bó. Con suối cạnh hang Pác Bó được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Ngày ngày, nhịp sinh hoạt của Bác cứ diễn ra đều đặn, sáng sớm Bác ra bờ suối làm việc, tối đến Bác vào trong hang để nghỉ ngơi. Và khi nhắc đến chỗ ở, khung cảnh sinh hoạt thường ngày của mình, Bác đã dùng một giọng điệu thơ hết sức vui tươi xen lẫn sự hóm hỉnh: "Sáng ra bờ suối, tối vào hang"
Nhịp thơ 4/3 cùng với phép đối "sáng" - "tối", "ra - vào" đã cho chúng ta thấy được nếp sinh hoạt nhịp nhàng, đều đặn của Bác. Không gian sinh hoạt của Người được diễn ra ở hai địa điểm: hang và suối. Song song với đó là hai hành động "ra bờ suối" , "vào hang" cứ tuần hoàn, nối tiếp nhau như sự tuần hoàn của tự nhiên, tạo vật. Câu thơ chỉ có 7 tiếng ngắn gọn nhưng đã miêu tả được chi tiết hoàn cảnh sống của Bác qua thời gian "sáng" - "tối", hoạt động "ra" - "vào" và địa điểm "bờ suối" - "hang".
Qua giọng điệu thơ dí dỏm, bạn đọc phần nào hình dung được tâm thế chủ động, sống hòa hợp với thiên nhiên của Bác. Chính tâm hồn ung dung, thoải mái đã giúp Bác chiến thắng mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống và làm việc trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nên bữa ăn của Bác cũng hết sức đạm bạc, dân dã: "Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng".
Nhắc đến núi rừng Tây Bắc chúng ta không thể không nhắc đến hai sản vật "cháo bẹ" và "rau măng". Đây là những món ăn quen thuộc có mặt hàng ngày trong bữa ăn của Bác. Cháo ngô, măng rừng đã thay thế cho cơm. "Cháo bẹ", "rau măng" luôn được chuẩn bị đầy đủ để phục vụ cho các bữa ăn của Người. Ngoài ra, chúng ta có thể nhận thấy rằng Hồ Chí Minh đón nhận những điều đó bằng một tâm thế "sẵn sàng" của người chiến sĩ cách mạng không đầu hàng trước mọi hoàn cảnh.
Bác không những không yêu cầu được chăm sóc, phục vụ tốt hơn hay than vãn, phàn nàn về cuộc sống ấy mà ngược lại, Người tỏ ra hoàn toàn vui vẻ và thích ứng với hoàn cảnh gian khổ. Trong khi đất nước bị xâm lược, cuộc sống nhân dân điêu đứng, lầm than, Bác không thể chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình mà Bác nghĩ cho toàn thể nhân dân, dân tộc.
Nếu phiến đá bên bờ suối Lê-nin gợi ra sự không cân bằng, nhấp nhô, khập khiễng bao nhiêu thì quyết tâm làm việc của Bác lại cứng rắn, quyết liệt bấy nhiêu. Công việc của Bác cần có sự tập trung cao độ. Ta có thể hình dung Bác dịch cuốn "Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô" để làm tài liệu học tập cho các cán bộ cách mạng lúc bấy giờ trên bàn làm việc không được cân bằng do từ láy tượng hình "chông chênh" gợi ra.
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng không mệt mỏi, Người đã thấy rằng: "Cuộc đời cách mạng thật là sang". Được mang sức lực của mình phục vụ cho nhân dân, đất nước là một niềm hạnh phúc đối với Hồ Chí Minh. Bác không quản ngại khó khăn, gian truân để cống hiến, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc. Lý tưởng cách mạng đã soi sáng cho con đường của người chiến sĩ cộng sản. Từ "sang" đã phần nào bộc lộ phong thái ung dung, lạc quan, yêu đời của Bác.
Bác không cần một chỗ ở sang trọng, những bữa ăn đầy đủ cá thịt hay cần một chiếc bàn làm việc bằng phẳng. Điều Bác cần là được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản, chiến đấu để mang lại cuộc sống hòa bình, no ấm cho nhân dân. Chắc có lẽ trên thế giới hiếm có ai "sang" theo kiểu của Bác. Bằng tinh thần yêu nước sâu sắc, Bác Hồ đã luôn khắc phục, vượt lên trên hoàn cảnh để cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ba câu đầu của bài thơ thiên về tả cảnh, chỉ đến câu thơ cuối Bác Hồ mới bộc lộ tâm trạng nhưng dường như nụ cười vui tươi vẫn thấp thoáng sau mỗi câu thơ của Người. Nó đã đẩy lùi đi tất cả những khó khăn, nguy hiểm và tiếp thêm tinh thần cho Bác, một tinh thần "thép" giữa hoàn cảnh sống và làm việc thiếu thốn, gian khổ.
Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt cùng với cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo nên nhịp điệu thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng thơ hài hước, hóm hỉnh đã cho thấy tinh thần lạc quan, sự ung dung trong hoàn cảnh đầy khó khăn của người chiến sĩ cộng sản. Đối với Bác, không có niềm vui nào lớn hơn là niềm vui làm cách mạng, mang lại độc lập cho dân tộc và sống hòa hợp với thiên nhiên.
Để có được những bài thơ hay mỗi người làm thơ cần có tư duy và sự sáng tạo nhất định. Đặc biệt trong thơ ca thì việc sáng tạo cùng với cảm xúc của người sáng tác rất quan trọng, chính vì vậy bạn hãy cùng tham khảo danh sách những bài thơ hay để học tập cũng như có thêm kinh nghiệm để việc sáng tác hay tự làm thơ với phong cách riêng của mình dễ dàng nhất nhé.
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 3
Ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch, hay bên Pa-ri; đối mặt trực tiếp với gián điệp và thực dân Pháp hay những ngày trở về nước hoạt động cách mạng ta đều nhận ra con người hóm hỉnh, bông đùa, lạc quan vượt lên trên tất cả những khó khăn của đời sống ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là những nét tính cách được tôi luyện trong trường đấu tranh gian khổ. Và tất cả đã đi vào thơ Bác với những nét chân thực nhất. Tức cảnh Pác Bó là một trong số những bài thơ như thế !
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Tháng 2 năm 1941, sau hơn ba mươi năm bôn ba hoạt động cách mạng ở nước ngoài tìm đường giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trở về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Pác Bó chính là nơi Người sống và hoạt động trong những ngày đầu tiên về nước. Đó là một địa danh nằm ở vùng núi Cao Bằng, ở đây đời sống vật chất còn rất khó khăn. Đã ngoài năm mươi tuổi rồi vậy mà Người phải sống trong một cái hang rất nhỏ, muốn ra vào phải trèo lên, chui xuống, tăm tối và ẩm ướt gọi là hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Nhưng những thiếu thốn về vật chất không làm tinh thần Người nao núng. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh như thế.
Câu thơ đầu tiên đã mở ra một không gian – thời gian: “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”. Không gian ở đây là những mảng không gian của vùng sơn cước: suối và hang. Thời gian có sự luân chuyển: sáng đến tối. Không gian và thời gian đều có sự thay đổi, chuyển hoá. Nhưng thực ra không phải là sự chuyển hoá sang một không gian khác, mới hơn mà là sự lặp lại của những miền không gian đã quá quen thuộc: suối và hang. Hành động của con người chỉ gói trọn trong hai động từ: ra và vào. Câu thơ không dư thừa thông tin. Nó chỉ vừa đủ để thông báo một ngày rất bình thường như biết bao ngày khác. Sáng thì ra bờ suối làm việc, tối lại quay về hang. Lời thơ cân đối, đều đặn: sáng - tối ; suối - hang, ra - vào. Sự đều đặn đó thể hiện một nếp sống, một thói quen trong một hoàn cảnh đặc biệt.
Câu thơ thứ hai, Người nói đến sinh hoạt cụ thể nơi Pác Bó: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. “Cháo bẹ” là cháo ngô, “rau măng” là loại măng rừng được lấy làm thức ăn. Đó đều là những món ăn rất dân dã, đạm bạc của người dân vùng sơn cước. Ở thì ở trong hang, làm việc bên bờ suối, ăn cháo bẹ rau măng,… một cuộc sống đầy những thiếu thốn nhưng ta vẫn bắt gặp một tinh thần lạc quan, một nụ cười hóm hỉnh qua cụm từ “vẫn sẵn sàng”. “Vẫn sẵn sàng” có thể hiểu theo hai nghĩa: “cháo bẹ rau măng” - những thức ăn quen thuộc của người miền núi lúc nào cũng sẵn có. Nghĩa thứ hai bộc lộ rõ tinh thần của nhà thơ: dù cuộc sống thiếu thốn nhưng tinh thần cách mạng luôn sẵn sàng. Với nghĩa này, câu thơ toát lên một niềm lạc quan vượt lên trên hoàn cảnh sống. Câu thơ gợi nhớ đến vần thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về cuộc sống vật chất đơn sơ, giản dị của mình:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Hay ta bắt gặp ở đây nghệ thuật trào lộng khi viết về những thiếu thốn vật chất trong đời sống đã có từ thơ ca truyền thống:
Đã bấy lâu nay, bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
(Nguyễn Khuyến, Bạn đến chơi nhà)
Đó là nét nhân cách rất đáng trọng của những con người “an bần lạc đạo”. Nghèo khổ không hề làm họ mất đi nụ cười. Họ cười hóm hỉnh chính cái nghèo của mình. Cuộc sống bi mà không làm họ lụy. Hồ Chí Minh vẫn giữ được những nét truyền thống trong cuộc sống của mình. Bác vẫn vui với cái nghèo của cuộc đời cách mạng, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn về vật chất. Phải là một con người có tinh thần và nghị lực cách mạng phi thường mới có thể tạo cho mình một phong thái ung dung trong một hoàn cảnh như thế. Dù sống trong cảnh thiếu thốn con người đó vẫn sống và hoạt động say mê:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Đến đây ta nhận ra điều khác biệt giữa Bác Hồ và các vị hiền triết xưa kia. Nếu như biết bao người: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến về với chốn thôn dã, vui thú điền viên để lánh đời, quên đi thế sự đang xoay vần điên đảo thì Bác Hồ về với vùng sơn cước “thâm sơn cùng cốc” để hoạt động do yêu cầu cần giữ bí mật của cách mạng. Dù có ở vùng núi nhưng vẫn là dấn thân vào xã hội, vào trường hoạt động cách mạng gian khổ. Bác Hồ đâu phải là một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Câu thơ như muốn vượt qua những gì không ổn định để đi đến một thế vững vàng. Bàn đá chông chênh tạo nên một tư thế không vững chãi. Đó là nơi Bác ngồi làm việc. Bàn đá của thiên nhiên. Nhưng cụm từ “dịch sử Đảng” như một lời khẳng định chắc nịch cho sự vững lòng với công việc của mình. Để đến câu thơ cuối là một lời kết thúc vui tươi, hóm hỉnh:
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Bác vẫn tìm ra một nét đặc biệt đằng sau tất cả những thiếu thốn vật chất của cuộc sống đời thường – cũng chính là một phần của cuộc đời cách mạng. Người tìm ra nét “sang” trong những gì giản dị, đơn sơ nhất. Từ “sang” vừa có nghĩa là sang trọng, giàu có vừa có nghĩa diễn tả một phong thái vượt lên trên tất cả những gì tầm thường của vật chất để có một tinh thần lạc quan, tự tại. Câu thơ như một nụ cười ngạo nghễ của một con người đã chiến thắng hoàn cảnh bằng chính tinh thần lạc quan của mình.
Bài thơ như một nhật kí bằng thơ ghi lại cuộc sống của Người nơi núi rừng Pác Bó. Người đọc nhận ra và kính trọng một nhân cách cao đẹp trong một cuộc sống rất đỗi đời thường. Đó chính là phong thái đặc biệt khó quên của Hồ Chủ tịch.
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 4
Đây là một bài thơ hay, nhưng có nhiều cách hiểu, từ đó có những cách phân tích không giống nhau. Bản thân mỗi cách hiểu và phân tích khó tránh được sự không nhất quán trong quá trình lĩnh hội hình tượng thơ. Cách phân tích sau đây cũng là một trong những con đường tiếp cận, với hi vọng không mắc lại những thiếu sót không nên có vừa nêu.
Chủ đề, tư tưởng của bài thơ rất dễ nắm bắt. Ấy là tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ trong cuộc sống cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó. Nhưng chủ đề ấy, tư tưởng lớn ấy được thể hiện trong bài thơ như thế nào lại là điều không dễ chỉ ra cho thấu đáo, cho hợp lí hợp tình. Nên chăng là khi phân tích bài thơ này phải đi theo hai bước:
Ở bước thứ nhất, khai thác khía cạnh gian khổ mà Người đã trải qua trong bước đầu "nhóm lửa" ngọn lửa cách mạng từ cái nơi tăm tối, hoang vu. Tập hợp các chi tiết một cách hệ thống theo khía cạnh này ta thấy: ở thì ở suối, ở hang ("Sáng ra bờ suối, tối vào hang"). Không gian và cả thời gian chật chội, quẩn quanh, đơn điệu. Còn gì gò bó cho bằng những ngày, những tối, những tháng, những năm mà con người vốn phóng khoáng, tự do phải chịu cảnh nhàm chán không chịu đổi thay với hang, với suối quen thuộc đến trơ mòn. Sự tù túng hiện lên ở bài thơ và nhịp thơ. Riêng vể nhịp thơ có sự cứng nhắc, uể oải như cần một cái vươn vai mà không thể vươn vai. Tiếp đến là điều kiện ăn uống hằng ngày:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Về câu thơ này có hai cách hiểu khác nhau. Theo cách hiểu thứ nhất: dù có phải ăn cháo bẹ, rau măng rất khổ nhưng tinh thần vẫn sẵn sàng. Còn cách hiểu thứ hai: trong hệ thống cả ba câu đầu, câu thứ hai toát lên cảm giác thích thú bằng lòng. Do hai cách hiểu này chúng ta buộc phải có cách hiểu thứ ba, vì với hai cách hiểu trên tuy khác nhau về nội dung mà giống nhau: nó không dựa trên sự nhất quán về phương pháp khi lĩnh hội một hình tượng thơ, rất dễ gây ra hiểu lầm và nhất là hiểu không toàn vẹn. Bởi nếu lúc nào dù gian khổ đến đâu Bác cũng sẵn sàng, hơn thế còn "thích thú, bằng lòng" thì thử thách mà Người phải vượt qua, phải trải nghiệm là ở đâu ? Bởi nói đến ăn, đến ở, so với cái tiêu chí vừa nêu (cũng là mơ ước của nhiều người) nó là những đối cực. Vậy hiểu câu thơ thứ hai như thế nào ? Với cách hiểu thứ ba - mà khi phân tích câu đầu chúng ta đã nhập cuộc, câu thứ hai, trên ý nghĩa là hình tượng nên hiểu là những thiếu thốn điển hình. Thôi thì, trong điều kiện nào đó không có đủ thực phẩm cao sang cũng phải có cháo, có rau, nghĩa là chất tinh bột của gạo và rau xanh hái ở vườn nhà như câu thơ của Nguyễn Khuyến:
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
(Bạn đến chơi nhà)
Nhưng cháo ở đây là cháo bẹ. Bẹ nghĩa là ngô, vốn không phải thức ăn quen thuộc đối với người miền xuôi, còn riêng Bác lại vừa về đến nước, có lẽ càng khó ăn hơn. Cháo bẹ đã không ngon, không đủ chất, còn không đủ no. Cháo ấy trộn với rau hay ăn nó với rau (chỉ một thứ rau măng) thì dù đói đến đâu cũng còn gì hào hứng nữa. Vậy thì hai chữ sẵn sàng ở đây, không nên hiểu là quá dư thừa, cần đến có ngay chưa một lần thiếu thốn, mà nên hiểu: nói thì nói đùa vui thế thôi, hóm hỉnh thế thôi, nhưng thật thì không một cái dạ dày nào có khả năng chấp nhận.
Thiếu thốn như thế tưởng đã đến mức điển hình, hoá ra không phải. Không những hai điều kiện sống là ở và ăn vừa nói, phương tiện làm việc của Bác lại chẳng ra sao:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Bàn đá, đá ở đây là đá núi, đá tự nhiên đâu phải đá xẻ, đá đã được mài, nó còn thô ráp, gồ ghề, lồi lõm. Lấy đá ấy - dù hòn đá nhặt được tốt nhất để làm bàn, không hiểu Bác viết ra sao ?
Đặt ba điều ấy vào trong cùng một hệ thống, mới thấy sự nghiệp cách mạng mà Người chèo lái gian nan biết chừng nào. Hiểu như vậy mới thấy những hi sinh, từ những chuyện nhỏ nhặt nhất trong thời gian dài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi Bác cũng là người, trên một phương diện, cũng bình thường như tất cả chúng ta nghĩa là biết đói, biết rét, biết thiếu thốn, ấy là chưa kể những chông gai mà Người đã vượt qua trên con đường cách mạng. Nhưng kì lạ thay, câu kết bài thơ không đi về hướng ấy:
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Sang ở đây là sang trọng, cao sang, nghĩa là rất đủ đầy, rất cao quý. Con người ở vào hoàn cảnh cao sang, nhất là "thật là sang" thì hạnh phúc có thể coi là đã đến mức tột độ. Vậy mối liên hộ giữa mạch thơ gian khổ tột cùng kia với câu kết, với chữ "sang" như thế nào ? Có lẽ nên hiểu chữ "sang" và ý câu kết nghiêng về phía trí tuệ, phía tinh thần được lọc chất ra từ chính chặng đường gian khổ ấy. Sở dĩ Người cảm thấy nó "thật là sang" là bởi vì nó là "cuộc đời cách mạng", được cống hiến cho cách mạng. Với những người cách mạng, nhất là những người dẫn đường như Bác ("Người đi trước nghìn sương muôn tuyết - Dắt dìu dân, nước Việt Nam ta" - Tố Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng) thì gian khổ, khó khăn là sự trả giá, nói như Nguyễn Trãi: "Khó khăn thì mặc có màng bao". Gian khổ thiếu thốn tột cùng mà bảo là "sang" chính vì lẽ đó. Thử so sánh hai hoàn cảnh sống: ở Pác Bó, Việt Nam và hơn một năm sau đó, gần 30 nhà ngục ở Quảng Tây, Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch, điều kiện tinh thần tuy hoàn toàn khác nhau, nhưng về vật chất, hoàn cảnh sống của Người không hơn là mấy. Nói như thế mà thương Bác vô cùng, hiểu Bác vô cùng. Trong gian truân, Người đâu nghĩ đến bản thân mình. Nghĩ đến sự nghiệp của cách mạng, của đất nước mà Người vui, nhất là tin, tin về thời cơ giành độc lập đang tới gần.
Vậy nhãn tự của bài thơ nên đặt ở chữ sang hay đặt ở cụm từ "cuộc đời cách mạng" ? Bởi "cuộc đời cách mạng" mới là bản lề khép mở bài thơ. Nó vừa đúc kết, chiêm nghiêm vừa là sự sang trang. Cách nói này không phải là cách nói cho vui theo hệ thống ý nghĩa được phân tích ở trên mà là những cảm nhận có thực ở Người. Khẩu khí này khác hẳn với những câu thơ Người viết hơn một nãm sau đó như "Ăn cơm nhà nước ở nhà công" hoặc "Rồng uốn vòng quanh chân với tay", trong Nhật kí trong tù. Bởi lẽ cái thiếu thốn đọa đày nơi tù ngục với Người là một thứ cực hình tra tấn, còn ở bài thơ đang phân tích, nó lại là một niềm vui, nguồn cảm hứng thi nhân.
Từ câu thơ thứ tư với ý nghĩa như một chiếc bản lề như đã nói, cần phải nhìn lại bài thơ. Đây là bước thứ hai. Cái sang ở đây bước sang một phạm trù khác: cái hùng, cái đẹp chuyển sang dạng đùa vui, hài hước, một hình thái thư giãn của cơ thể, của tâm hồn. Có những bài thơ sau này Bác làm với một giọng đùa vui như:
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày.
(Cánh rừng Việt Bắc)
Cái ý vị đùa vui xuất hiện trong suốt cả bài thơ tạo ra một ý nghĩa kép cho từng câu thơ, có lẽ chính vì vậy đã có không ít người nhầm lẫn. Quả thật thế, hãy trở lại từ đầu:
Sáng ra hờ suối, tối vào hang,
Câu thơ tự vịnh về mình thật ung dung, tự tại: muốn ờ đâu thì ở, muốn đi đâu thì đi, kiểu "Non nước dạo chơi tuỳ sở thích" (Nhật kí trong tù) hoặc "Non xanh nước biếc tha hổ dạo" (Cảnh rừng Việt Bắc). Câu thơ như động tác co duỗi tự nhiên, thay đổi không khí hằng ngày chẳng có gì gò bó cả. Con người trong hoàn cảnh ấy là con người tự do. Sẵn sàng chấp nhận, sẵn sàng sống, sẵn sàng vui, cũng như "cảm giác thích thú, bằng lòng" là trên ý nghĩa tinh thần ở hệ thống thứ hai của cùng một hình tượng, của chủ thể trữ tình. "Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng" thật thoải mái, thậm chí thật hồ hởi vì nó rất vô tư: cần ăn là có, như "Khách đến thì mời ngô nếp nướng - Săn về thường chén thịt rừng quay" (Cảnh rừng Việt Bắc). Cái khác thường thành cái ngày thường, cái bình thường là giọng thơ nói trạng, đùa vui để quên đi cái thiếu thốn, cái gian nan mà hằng ngày đối mặt. Con người Hồ Chí Minh là thế: trang trọng và vui đùa tùy nơi tùy lúc đã đành, có khi một câu nói của Người mang cả hai ý nghĩa ấy. Hiểu như thế khi nói về ăn, ở, sinh hoạt được người nghe dễ dàng chấp nhận, đồng tình. Nhưng còn khi làm việc, nhất là khi làm việc lớn như chuyển ngữ từ tiếng Nga sang tiếng Việt cuốn sách cẩm nang Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô cho các đồng chí của mình thì sao ?
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Một công việc với ý nghĩa cực kì lớn lao, quan trọng, cần phải bao nhiêu ý chí, nghị lực, tài năng, hoàn toàn đối lập với cái "bàn đá chông chênh" tạm bợ. Không thể làm như thế, không ai làm như thế, nhưng Bác vẫn làm như thế, mà có sao đâu ? Công việc vẫn hoàn thành, âu cũng là một điều thú vị, thật vui đấy chứ, vui như cái cách ăn ở hằng ngày của "cuộc đời cách mạng". Có người cho rằng ở bài thơ này và một số bài thơ khác, Hồ Chí Minh có cái thú "lâm tuyền" (thích nơi rừng suối như những ẩn sĩ thời xưa). Cách hiểu đó ở đây không hoàn toàn đúng ít nhất trong bài thơ này, Bác chỉ là một con người, nhất là một con người cách mạng. Làm gì có chỗ cho sự nghỉ ngơi, lánh đời, thưởng ngoạn. Nếu có bằng lòng hay thích thú đi chăng nữa là với con người cùng với hai tư cách vừa nêu, và cũng vì hai tư cách vừa nêu mà hình tượng thơ mới trở nên lấp lánh, sinh động, tạo nên cảm hứng nghệ thuật dồi dào cho người đón nhận nó.
Nếu cần nói thêm về nghệ thuật thơ Đường thì Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ rất đúng niêm luật có lẽ bởi ý nghĩa thứ hai là nói chơi, còn ý nghĩa đầu tiên vẫn là nói thật. Tính nghiêm túc của bài thơ phải chăng là sự phản ánh nghiêm túc những đòi hỏi có thật của cuộc đời đối với con người cách mạng. Nhưng một khi đã đáp ứng được nó, trụ vững trước nó thì ai cấm cái quyền nói chêu của người đã biết tự rèn luyện mình và vượt lên tất cả ?
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 5
Hồ Chủ tịch của chúng ta không chỉ được biết đến là nhà chính trị gia, người anh hùng vĩ đại trên mặt trận, luôn anh minh, tài ba, mà còn là một nhà thơ. Trong kho tàng văn học Việt Nam thật đồ sộ, trong đó sự đóng góp của Bác cũng không nhỏ, các tác phẩm ấy được ghi nhận, là những áng văn hay để đời. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là bài ca về tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống, đầy lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn thể hiện được phong cách sống của người chiến sĩ, thể hiện được vẻ đẹp phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh.
Được sáng tác trong thời kì Bác trở về sau bao nhiêu tháng năm ròng rã bôn ba tìm đường cứu nước, quay về ở tại căn cứ của quan trọng của đất nước (Pác Bó - Cao Bằng) vị trí ấy bí mật để Bác trực tiếp lãnh đạo cách mạng.
Bài thơ chỉ gói gọn trong 4 câu, thể thơ Bác chọn để gửi gắm tâm tình là thơ thất ngôn tứ tuyệt. Nhan đề bài thơ có thể thấy được tâm trạng mà người viết muốn gửi gắm suy nghĩ nhất thời qua những câu thơ tả cảnh thiên nhiên.
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang!”
Đọc 4 câu thơ ta đã tái hiện trong chúng ta là một khung cảnh khác xa với thứ nơi thủ đô, thành thị, không có tiếng xe cộ ồn ào. Mà Bác đang ở nơi rừng núi, yên tĩnh, tâm hồn con người cũng thoải mái cùng hòa với thiên nhiên, nhưng cùng với sự khó khăn, sự thiếu thốn vây quanh, giọng thơ của Bác vẫn cất lên đầy lạc quan yêu đời, dường như ở đây chỉ gồm sự đơn giản trong hoạt động sinh hoạt thường nhật, niềm vui được sống ở nơi đây. Câu thơ mở đầu dẫn ta đến gần với nơi Bác đang sống, không gian “bờ suối”, “vào hang”, thời gian được mở rộng “Sáng”, “Tối”, Bác của chúng ta thì hoạt động như mọi việc làm quen thuộc như thời khóa biểu “ra”, “vào”. Quy luật ấy tuy nhàm chán nhưng cũng vẫn thể hiện được phần nào sự chủ động trong chốn đầy tự nhiên ấy là tác phong người chiến sĩ cách mạng, chủ động trong cách chọn địa điểm hoạt động thông minh trong khoảng thời gian khi cách mạng nước nhà mới bắt đầu được khởi phát, Bác phải chọn nơi bí mật làm chính sự gây dựng phong trào, phải bí mật và đầy thử thách.
Ở các câu tiếp theo, sự thiếu thốn còn thể hiện trong ở cả đồ ăn để nạp năng lượng cho người chiến sĩ làm việc, nơi đây chỉ có “cháo bẹ”, “rau măng”. Cụm từ “vẫn sẵn sàng “ở đây khá hóm hỉnh một chút, còn được dùng với hai ý nghĩa rõ ràng đó là dù ở đây chỉ có ít lương thực, nhưng sản vật của núi rừng đặc trưng riêng của Pác Bó vẫn luôn đầy đủ, phục vụ Bác. Trên tất cả vẫn thấy được sự lạc quan, vượt mọi khó khăn gian khổ sống đúng với tác phong của người vẫn giản dị, không cầu kì, đầy sự yêu đời. Tình thần cách mạng dù vậy vẫn không dừng lại vẫn hăng say, nhiệt thành. Hồ Chí Minh với tâm thế “luôn sẵn sàng”, luôn biết tự suy nghĩ, và sống vì mục tiêu của Đảng, của đất nước chứ khác hẳn với các vị danh nhân thời xưa phải mai danh ẩn tích kìm hãm, quên đi việc chính trị khó khăn. Vì vậy mà câu thơ tiếp đây mới đầy ý nghĩa thoát ra:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Bác ta vẫn hăng hái như vậy, dù vất vả nhưng ý chí vẫn kiên cường, sự hy sinh quên mình để nghiên cứu con đường giúp cho cách mạng thắng lợi. Một câu mà ta tâm đắc nhất trong toàn bài đó là:
“Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Từ “sang” không hề có ý nghĩa mỉa mai, châm biếm mà lại là sự vinh hạnh cho Bác một nét rất đặc trưng của cách mạng Việt Nam tuy hiện tại khó khăn nhưng ta vẫn tìm được “thức ăn”, “phong cảnh” phù hợp với mình. Đâu đó vẫn là sự tự chủ của con người vượt lên tất cả trở ngại trước mắt, sống theo kiểu khác đi cuộc đời nó vẫn là “sang”. “Sang” trong lòng vì ở đâu đó niềm vui vẫn xuất hiện vì đơn giản người hiểu mình đang được sống và lãnh đạo cách mạng trên quê hương mình, Người vẫn luôn tin tưởng một thắng lợi sẽ thật gần.
Với tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống, sự dung dị thể hiện trong toàn bài mà bài thơ trở nên gần gũi mà đẹp đẽ. Thơ Bác giúp chúng ta học hỏi được từ nó tinh thần lạc quan, yêu đời, biết sống và theo đuổi lý tưởng cao đẹp. Một bài thơ cũng là một bằng chứng cho sự khó khăn của cách mạng thời mới thành lập. Càng thêm yêu quý khâm phục vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta và “Việt Nam luôn đẹp nhất vì có tên Người” !
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 6
Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn bể hoạt động cứu nước, tháng 2 - 1941, Nguyễn Ái Quốc đã bí mật về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người sống trong hang Pác Bó, điều kiện sinh hoạt vật chật rất gian khổ, nhưng tất cả thiếu thốn đó đối với Bác không phải là gian khổ mà đều trở thành sang trọng, mà còn thật là sang. Bởi niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại Hồ Chí Minh là được sống cuộc đời cách mạng cứu dân, cứu nước. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
Bài thơ bốn câu, theo thể thất ngôn tứ tuyệt thật tự nhiên, bình dị, giọng điệu thoải mái pha chút vui đùa hóm hỉnh. Tất cả cho ta thấy một cảm giác vui thích sảng khoái. Ý nghĩa tư tưởng của bài thơ cũng toát lên từ đó. Đi tìm hiểu bài thơ chính là đi tìm hiểu niềm vui của nhân vật trữ tình.
Mở đầu bài thơ là câu thơ có giọng điệu rất tự nhiên, rất ung dung và thoải mái, hòa điệu với cuộc sống của núi rừng:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Câu thơ là sự khái quát của một nhịp sống đã trở thành nếp rất chủ động. Cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo thành thế đôi sóng đôi rất nhịp nhàng: sáng ra - tối vào. Nếp sống ở đây chủ động mà đàng hoàng. Đàng hoàng vì ban ngày Bác làm việc đời thường. Tối mới trở về hang để ngủ. Với Bác, còn gì thú vị hơn khi ngày ngày được làm việc bên bờ suối, làm bạn với thiên nhiên, tối trở về nhà (nhà vẫn là hang núi) để nghỉ ngơi và lắng nghe tiếng suối chảy. Thật thú vị, thoải mái khi con người được sống giao hòa với thiên nhiên. Phải chăng quy luật vận động ấy là Bác đã vượt lên được hoàn cảnh. Đó chẳng phải là tinh thần lạc quan hay sao?
Chính sự cân đối ở câu thơ thứ nhất đã làm nền cho các câu thơ sau xuất hiện.
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Nhịp 4/3 là nhịp thông thường ở thơ tứ tuyệt, nhưng ở câu này, nhịp 4 được chuyển thành nhịp 2/2 tạo thành một sự đều đặn cùng với hai thanh trắc liền nhau ở nhịp 3 (vẫn, sẵn) càng khẳng định thêm điều đó. Câu thơ toát nên một sự yên tâm về cuộc sống vật chật của Bác. Thơ xưa thường biểu lộ thú vui vì cảnh nghèo như Nguyễn Trãi đã từng viết: Nước là cơm rau hay tri tức. Điều khác biệt của Bác, với các nhà thơ xưa như Nguyễn Trãi là ở chỗ: Nguyễn Trãi sống ở chốn núi rừng vui với thiên nhiên (ở Côn Sơn) để quên đi nỗi đau không được giúp nước, giúp đời. Còn Bác Hồ sống ở chốn núi rừng, bằng lòng với cuộc sống đạm bạc nơi đầu nguồn để đem ánh sáng cứu dân cứu nước. Vì thế câu thơ thứ ba của bài thơ là một sự chuyển biến đột ngột:
Bàn đá chông chềnh dịch sử Đảng
Hai câu nói về chuyện ăn, chuyện ở thong dong bao nhiêu, thoải mái bao nhiêu thì câu nói về chuyện làm việc vất vả bấy nhiêu. Không có bàn, người chiến sĩ cách mạng phải dùng dạ làm bàn, lại là bàn đá chông chếnh. Rõ ràng là với từ chông chếnh, Bác đã lột tả được điều kiện làm việc rất khó khăn. Công việc lại càng khó khăn hơn, đòi hỏi người chiến sĩ cách mạng phải cố gắng hết sức, không ngừng không nghỉ. Ba tiếng cuối cùng sử dụng toàn thanh trắc để thể hiện sự vất vả, nhưng khỏe khoắn, kiên quyết. Như vậy đối với Bác lúc này, việc cách mạng là cần thiết nhất, phải vượt lên tất cả mọi khó khăn. Kết thúc bài thơ là một nhận xét, một kết thúc rất tự nhiên, bất ngờ và vô cùng thú vị:
Cuộc đời cách mạng thật là sang
Ba câu đầu của bài thơ nói về việc ở, việc ăn và việc làm. Câu thứ tư là một lời đánh giá làm người đọc bất ngờ. Và bằng phép loại suy, ta có thể khẳng định việc ăn, việc ở khộng phải là sang, chỉ có việc làm dịch sử Đảng là sáng nhất vì nó đem ánh sáng của chu nghĩa Mác – Lê Nin để phát động đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho toàn dân. Ở đây ta bắt gặp câu thơ có khẩu khí, nói cho vui, phần nào khoa trương (thường gặp trong hàng loạt những bài thơ xưa nói cho vui cảnh nghèo đã trở thành truyền thống) trong văn học phương Đông:
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà…
(Bác đến chơi nhà - Nguyễn Khuyến)
Đúng là nói cho vui! Thật đấy mà lại đùa đấy! Nghèo nhưng mà lại chẳng nghèo! Giọng điệu thơ rất tự nhiên, dí dỏm thể hiện niềm vui của Nguyễn Khuyến khi có bạn đến nhà chơi.
Ta thấy ở đây niềm vui thích của Bác Hồ là rất thật, không chút gượng gạo, lên gân vì thế nên giọng thơ sảng khoái, ngân vang: Thật là sang. Rõ ràng trong cái sang của Bác, của người cách mạng không phải là điều kiện ăn ở, sinh hoạt mà chính là tri thức cách mạng để giải phóng đất nước, đem lại sự giàu sang, hạnh phúc cho cả dân tộc. Ý nghĩa của bài thơ thật lớn lao.
Tức cảnh Pác Bó là một bài thơ Đường rất đúng niêm luật có lẽ bởi ý thứ hai của nó là nói chơi, còn ý đầu tiên vẫn là nói thật. Tính nghiêm túc của bài thơ phải chăng là sự phản ánh nghiêm túc những đòi hỏi có thật của cuộc đời đối với con người cách mạng. Nhưng một khi đã đáp ứng được nó, trụ vững trước nó thì ai có thể cấm được cái quyền nói trêu của người đã biết tự rèn luyện mình mà vượt lên tất cả. Bài thơ đã vượt qua hành trình hơn 60 năm nhưng đến nay vẫn giữ nguyên được giá trị.
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó - mẫu 7
Tức cảnh Pác Bó, tác phẩm được Bác Hồ sáng tác vào năm 1941 tại Cao Bằng. Đây là bài thơ ra đời sau ba mươi năm hoạt động cách mạng của Người ở nước ngoài. Bác trở về Việt Nam để lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến cứu nước. Khi đó, người sống và làm việc trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn tại hang Pác Bó.
Hai câu thơ đầu, Bác miêu tả cuộc sống thiếu thốn, gian khổ ở trong hang nhưng lại bằng một giọng văn lạc quan, ung dung, tin thần làm việc hứng khởi hăng say. Vì Bắc được làm việc trên chính quê hương mình và đang thực hiện một sứ mệnh cao cả là lãnh đạo nhân dân đứng lên giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
Tuy chỉ gói gọn trong hai câu thơ 14 chữ nhưng nhà thơ đã miêu tả được toàn bộ không gian và thời gian ở hang Pác Bó một cách chân thực và sinh động. Nơi ở của Bác là trong hang núi, buổi sáng ra bờ suối để làm việc, thức ăn chính là rau măng và cháo bẹ. Qua đó ta hình dung được một cuộc sống sinh hoạt nề nếp, gọn gàng, đúng giờ giấc. Cách kết hợp các từ đối lập sáng – tối, ra – vào, ra suối – vào hang cho mọi hoạt động đều trở thành thói quen trong hoàn cảnh sống đầy đặc biệt của Hồ Chí Minh.
Thức ăn hằng ngày tuy đạm bạc với rau và cháo nhưng là những thức ăn có sẵn của thiên nhiên, do núi rừng ban tặng. Nhưng qua 2 câu thơ có thể thấy Bác vô cùng thoải mái với cuộc sống này, không hề cảm thấy khắc khổ, phong thái ung dung được thể hiện qua cụm từ “vẫn sẵn sàng”. Giữa một bên là sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, một bên là tin thần lạc quan, thanh thản. Bác đã chọn sống lạc quan trước hoàn cảnh.
Phân tích Tức cảnh Pác Bó để thấy ở đấy một niềm vui chân thành, giản dị của Bác. Sự bằng lòng, vui sướng và thích thú với cuộc sống ở hang Pác Bó. Một cuộc sống hài hòa với thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên mà sống. Vì thế, không chỉ có tác phẩm này, hầu hết các tác phẩm khác của Bác, thiên nhiên trở thành một người bạn “tri kỷ” gắn bó mật thiết như:
“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày…”(Cảnh rừng Việt Bắc)
Hay:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…”(Cảnh khuya)
Ở Bác toát lên phong thái của một thi sĩ với tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, không quan tâm đến vật chất, như cuộc sống của các vị hiền nhân thời trước.
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” (Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Tuy nhiên, không phải như các bậc hiền nhân tìm đến thiên nhiên, núi non để tránh những xô bồ, ồn ào của xã hội bên ngoài, trốn tránh sự đời. Bác cho dù sống với thiên nhiên, hòa mình với vũ trụ nhưng lại đang thực hiện sứ mệnh của một người cộng sản, một người chiến sĩ yêu nước, lãnh đạo nhân dân thực hiện cách mạng:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
Không chỉ thức ăn đạm bạc, phân tích Tức cảnh Pác Bó ta thấy không gian sống và làm việc của người cũng vô cùng giản dị. “Bàn đá chông chênh” bàn đá không chỉ là bàn làm việc mà còn là sự chông chênh của lòng người. Một vật đơn sơ, bình thường như phiến đá những đang hỗ trợ một con người thực hiện một công việc đặc biệt : “dịch sử Đảng”.
Việc gieo ba thanh trắc cùng một lúc ở “dịch sử Đảng” tạo nên một sự chắc khỏe cho câu thơ, đồng thời qua đó ta cảm nhận được một tâm hồn mạnh mẽ, bản lĩnh vững vàng, chắc chắn của Bác với đại sự.
Vì vậy, chiếc bàn tuy được bác miêu tả là chông chênh nhưng lại dùng để chỉ những “tấm lòng vững như bàn thạch của người cách mạng đã nhìn đá ra bàn…” (Chế Lan Viên). Câu thơ cho ta hình dung về hình tượng các chiến sĩ cách mạng với phong thái uy nghi, hùng dũng giữa núi rừng thiên nhiên. Bác như một ông tiên đang đọc sách giữa thiên nhiên yên tĩnh với một phong thái đỉnh đạc, ung dung.
Khép lại bài thơ, là lời khẳng định của Bác “Cuộc đời cách mạng thật là sang” nhẹ nhàng, thẳng thắn và đầy sự lạc quan. Cho dù ta biết rằng, đã làm cách mạng, là chắc chắn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, vất vả, hiểm nguy. Nhưng Bác lại thấy làm cách mạng rất “sang”. Vì Bắc đang được sống với thiên nhiên của chính quê hương mình. Quê hương mà bác dành cả đời để đấu tranh cách mạng cho độc lập, tự do, cứu nước, cứu dân, đem lại hạnh phúc, hòa bình cho dân tộc.
Sự kết hợp giữa thể thơ tứ tuyệt, tinh thần hiện đại pha chút cổ đinh, giọng văn vui tươi, dễ hiểu cùng những hình ảnh đời thường giản dị, mộc mạc của Bác đã tạo nên một tác phẩm Tức cảnh Pác Bó thành công. Qua phân tích tức cảnh Pác Bó, ta thấy được phong thái ung dung, tin thần lạc quan, bản lĩnh phi thường, cứng cỏi, vượt lên mọi gian khổ, khó khăn, một trái tim nhân hậu, giàu lòng yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc ở chủ tịch Hồ Chí Minh.
Xem thêm các bài Văn mẫu thuyết minh, phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 8 khác:
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh (Bài văn mẫu 1)
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh (Bài văn mẫu 2)
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh (Bài văn mẫu 3)
Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh (Bài văn mẫu 5)
Mục lục Văn mẫu | Văn hay lớp 8 theo từng phần:
- Mục lục Văn phân tích, phát biểu cảm nghĩ, cảm nhận
- Mục lục Văn biểu cảm
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn nghị luận
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 6-8 cho phụ huynh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 8 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 8 và Những bài văn hay lớp 8 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 8 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 8 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 8 Friends plus
- Lớp 8 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 8 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 8 (ngắn nhất) KNTT
- Giải sgk Toán 8 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 8 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 8 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - KNTT
- Giải sgk Tin học 8 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 8 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 8 - KNTT
- Lớp 8 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 8 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 8 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 8 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 8 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 8 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - CTST
- Giải sgk Tin học 8 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 8 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 8 - CTST
- Lớp 8 - Cánh diều
- Soạn văn 8 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 8 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 8 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 8 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 8 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 8 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 8 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 8 - Cánh diều