10+ Phân tích Chiếu dời đô (siêu hay)



Bài văn Phân tích Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn lớp 8 hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.

10+ Phân tích Chiếu dời đô (siêu hay)

Quảng cáo

Bài giảng: Chiếu dời đô - Cô Phạm Lan Anh (Giáo viên VietJack)

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô - mẫu 1

   Lí Công Uẩn quê ở Kinh Bắc, là võ tướng có tài của Lê Bại Hành, từng giữ chức Tả thân vệ Điện tiền chỉhuy sứ. Ông là người tài trí,, đức độ, kín đáo, nhiều hi vọng. Năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, Lí Công uẩn được giới tăng lữ và triều thần tôn lên làm vua, lấy hiệu là Lí Thái Tổ và gây dựng nên nhà Lí tồn tại hơn 200 năm. Năm 1010, Lí Thái Tổ viết "Chiếu dời đô" để dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La. Sau khi dời về Đại La, ông đổi tên địa điểm này thành Thăng Long, kinh đô của nước Đại Việt, chính là Hà Nội ngày nay.

   Phần đầu của Chiếu dời đô nói lên mục đích sâu xa, tầm quan trọng của việc dời đô. Đó là đểđóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân. Nói một cách khác, việc dời dô là một việc lớn, vừa hợp mệnh trời, vừa hợp lòng dân, là để xây dựng đất nước cường thịnh, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.

   Việc dời đô không còn là chuyện xưa nay hiếm, nó đã được thực hiện bởi các vị vua trước đó ở Trung Hoa. Tác giả đã nêu lên những dẫn chứng cụ thể để thuyết phục mọi người. Chuyện các vị vua Trung Hoa dời đô để xây dựng đất nước phồn thịnh, chuyện các vị vua Việt Nam thời Đinh - Lê đóng đô ở Hoa Lư làm cho triều đại không vững bền, nhân dân đói kém... Lí Công uẩn đau xót khi chứng kiến vận số ngắn ngủi của nhà Đính, nhà Lê và cảm thấy việc dời đô là một việc làm cấp thiết.

Quảng cáo

   Phần mở đầu của Chiếu dời đô có lí lệ sắc bén, dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục. Tác giả đã lồng cảm xúc vào bài chiếu, tạo nên những ấn tượng đẹp: Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.

   Tác giả đã chỉ ra được những điểm thuận lợi của kinh đô mới so với kinh đô cũ. Đại La không có gì xa lạ đối với mỗi người dân Việt lúc đó, nó được Cao Biền đời nhà Đường xây dựng vào thế kỉ thứ IX. Những điểm mạnh của kinh đô đã được Lí Công Uẩn chỉ rõ trong bài chiếu. Vị trí của nó ở vào nơi trung tâm của trời đất ... đã đúng ngôi nam bắc đông tây. Địa thế của Đại La rất đẹp, rất hùng vĩ, là thế rồng cuộn hổ ngồi, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi, địa thế rộng mà bằng phẳng; đất đai cao mà thoáng.

   Rõ ràng đây là một vùng đất lí tưởng thích hợp cho việc đóng đô và quần tụ cư dân. Nó không bị ngập lụt mà muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi.

   Tóm lại, Đại La là thắng địa, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Quảng cáo

   Phần thứ hai của Chiếu dời đô cho thấy tầm nhìn chiến lược của vị vua mở đầu triều Lí, một cái nhìn toàn diện, sâu sắc và chính xác về tất cả các mặt. Điều này hoàn toàn không phải là một ý kiến chủ quan mà chính là khả năng nhìn nhận và tính toán một cách chính xác, quyết đoán. Sau một nghìn năm, Thăng Long xưa nay là Hà Nội đã trở thành kinh đô của hầu hết các triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đây chính là cống hiến vĩ đại của Lí Công Uẩn cho lịch sử Việt Nam như câu nói của ông lúc dời đô: mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn dời cho con cháu.

   Về mặt văn chương, phần thứ hai của Chiếu dời đô rất đặc sắc. Cách viết hàm súc, giàu hình ảnh và biểu cảm. Vế đối trong các câu rất chuẩn và đạt hiệu quả cao về mặt nghệ thuật.

   Phần cuối của bài Chiếu là lời bày tỏ của nhà vua trước quần thần về ý định dời đô, điều này cho thấy nhà vua rất công minh, đức độ trong việc trị nước:

Quảng cáo

   "Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?"

   Việc dời đô của Lí Công uẩn là một kì tích, kì công đối với đất nước. Sau một ngàn năm, Thăng Long - Hà Nội đã trở thành kinh đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; là trung tâm kinh tế, quốc phòng, văn hóa lớn của cả nước.

   Chiếu dời đô là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc của tổ tiên để lại. Ngôn từ trang trọng đúng như khẩu khí của bậc đế vương. Nó là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ.

Dàn ý Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn

A. Mở bài:

- “Chiếu dời đô” không chỉ là một văn bản chính trị quan trọng của dân tộc mà còn là áng văn chính luận đặc sắc của Lý Thái Tổ - vị vua khai sinh ra vương triều nhà Lý.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Những tiền đề, cơ sở để dời đô (Lí do phải dời đô)

- Nhắc lại lịch sử dời đô của các triều đại hưng thịnh ở Trung Quốc:

   + Nhà Thương: 5 lần dời đô ; nhà Chu: 3 lần dời đô

   + Lí do dời đô của 2 nhà Thương, Chu: đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời, …hễ thấy thuận tiện thì đổi.

   + Kết quả của việc dời đô: vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh

⇒ Những tấm gương sáng chứng minh dời đô là việc “thường niên” của các triều đại lịch sử.

- Phê phán hai nhà Đinh, Lê:

   + Khinh thường mệnh trời

   + Không biết noi theo các tấm gương sáng của 2 nhà Thương, Chu

   + Hậu quả: triều đại ngắn ngủi, nhân dân không thể phát triển được.

⇒ Những cơ sở thuyết phục để khẳng định dời đô là điều nên làm của các triều đại hưng thịnh, đặc biệt là trong hoàn cảnh nhà Lý lúc bấy giờ đang rất cần một nơi hội tụ đầy đủ linh khí, sức mạnh đất trời để phát triển.

Luận điểm 2: Những lợi thế bậc nhất của thành Đại La

- Thành Đại La có những lợi thế tuyệt vời mà khó nơi nào có được

   + Vị trí địa lý: ở vào nơi trung tâm trời đất, hợp cả 4 hướng nam, bắc, đông, tây, phía trước là sông phía sau được bao bọc bởi núi.

   + Thế đất: “rồng cuộn hổ ngồi”, được coi là thế đất đẹp, có tương lai phát triển thịnh vượng

   + Địa thế: rộng rãi, bằng phẳng, đất cao, thoáng

   + Dân cư: không bị ảnh hưởng cảu thiên tai ngập lụt

   + Phong cảnh: tốt tươi, tràn đầy sức sống

⇒ Thành Đại La xứng đáng là thánh địa của trời đất, là nơi thích hợp nhất để đóng đô muôn đời. Qua đó, thể hiện khát vọng của nhà vua về một đất nước thái bình, thịnh trị và ý thức dân tộc, tự chủ, tự lập, tự cường của một quốc gia phong kiến.

Luận điểm 3: Lời tuyên bố của vua

- Chiếu là một thể văn chính luận được dùng để nhà vua ban bố mệnh lệnh đến quần thân, thiên hạ, vì vậy, lời văn trong chiếu thương trang trọng, cứng nhắc và mang sắc thái bắt buộc.

- Lời tuyên bố của vua Lý Thái Tổ lại khác: đầu tiên vua đưa ra mong muốn dời đô của bản thân, sau đó lại hỏi ý kiến quần thần ⇒ thể hiện sự gần gũi, mang tính dân chủ, không ép buộc, gò bó, xa cách. Đó chính là sự khác biệt của vua Lý Thái Tổ - một vị vua yêu nước, thương dân, hết lòng muốn cống hiến cho đất nước, cho nhân dân.

Luận điểm 4: Nghệ thuật

- Lập luận chặt chẽ, logic, chứng cứ xác thực tạo ra sức thuyết phục mạnh mẽ

- Câu văn biền ngẫu tạo nhịp điệu

- Sự kết hợp hài hòa giữa lí và tình

C. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị tác phẩm: “Chiếu dời đô” xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực.

- Liên hệ và đánh giá tác phẩm: Qua đó, ta thấy được tài năng lãnh đạo, tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng của vua Lý Thái Tổ đối với đất nước, nhân dân.

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô - mẫu 2

Trước khi dời đô về kinh thành Thăng Long, hai nhà Đinh, Tiền Lê đều đóng đô ở vùng núi hiểm trở, số vận ngắn ngủi, ra đời không bao lâu thì tiêu vong. Là một người đứng đầu đất nước Lý Công Uẩn có trọng trách to lớn phải tìm được nơ địa linh nhân kiệt làm nơi đóng đô cho đất nước.

Bằng sự am hiểu thiên văn địa lí, Lý Công Uẩn đã quyết định dời về kinh thành Thăng Long, và đó cũng là hoàn cảnh ra đời của văn bản Chiếu dời đô. Chiếu dời đô ra đời thể hiện khát vọng to lớn về một đất nước độc lập, hùng cường và không ngừng lớn mạnh của dân tộc.

Để đi đến quyết định dời đô đến một nơi khác, Lý Công Uẩn đã có sự tính toán vô cùng kĩ lưỡng từ lịch sử cho đến thực tiễn. Việc dời đô không phải chuyện hiếm thấy, ngay bên cạnh ta, Trung Quốc cũng đã có vài lần dời đô: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời dô, nhà Chu đến Thành Vương cũng ba lần dời đô” . Việc dời đô không phải là tùy tiện mà thuận theo ý trời, vừa với lòng dân bởi vậy vận nước lâu dài, vững bền, nhân dân được sống trong cảnh ấm no, hạnh phúc.

Không dừng lại ở những tấm gương xưa, để lập luận thêm phần chặt chẽ, sắc sảo, Lý Công Uẩn còn soi ngắm lịch sử gần đây đó là hai nhà Đinh, Tiền Lê. Do ở nơi địa thế hiểm trở, không thuận lợi cho việc giao thương phát triển kinh tế nên không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ chịu hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Quả là cái hại lớn cho nước nhà, cho muôn dân. Đau đáu một lòng, Lý Công Uẩn không ngừng suy nghĩ, và điều đó đã thôi thúc ông biến nó thành hành động cụ thể đó là không thể không chuyển dời kinh đô về nơi có linh khí tốt hơn cho vận mệnh đất nước.

Sau khi có quyết định chuyển dời, Lý Công Uẩn đưa ra những lập luận, dẫn chứng hết sức chặt chẽ để khẳng định kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời chính là kinh thành Thăng Long. Thứ nhất, thành Thăng Long ở vị trí trung tâm của trời đất, thế rồng cuộn hổ ngồi, nhìn sông dựa núi, địa thế đẹp đẽ, đắc địa. Đất đai nơi đây rất rộng rãi, bằng phẳng, cao mà thoáng, cư dân sẽ không phải chịu cảnh lụt lội, muôn vật sẽ phát triển phong phú tốt tươi.

Không chỉ đẹp về địa thế, mà thành Thăng Long còn thuận lợi về mặt chính trị, văn hóa, đây là nơi “hội tụ trọng yếu của bốn phương; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời” . Kinh thành Thăng Long hội tụ đầy đủ mọi yếu tố để trở thành kinh đô muôn đời của Đại Việt

Thử hỏi ở nơi hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước như vậy làm sao vận nước có thể ngắn ngủi, làm sao cuộc sống người dân không yên ấm hạnh phúc cho được. Đây chính là mong mỏi, khát vọng lớn nhất của Lý Công Uẩn: đất nước hưng thịnh, vững bền, dân cư đời đời ấm no hạnh phúc. Đó quả là một khát vọng lớn, nhân văn, cao đẹp của một con người yêu nước, thương dân.

Chiếu dời đô không chỉ là khát vọng cao đẹp, lớn lao của dân tộc mà còn là một minh chứng tiêu biểu cho sự phát triển hùng cường của dân tộc. Hai triều đại trước vốn không dời đô vì thế và tiềm lực còn yếu, nên phải dựa vào rừng núi hiểm trở để tồn tại. Còn nay, khi Lý Công Uẩn quyết dời đồ ra nơi đồng bằng, rộng rãi, bằng phẳng là kinh thế và lực của ta đã lớn mạnh, sẵn sàng đương đầu với những ý định lăm le của kẻ thù. Đồng thời dời đô đến nơi mới cũng tạo điều kiện cho ta không ngừng phát triển kinh tế, quân sự, củng cố và làm vững mạnh hơn nữa tiềm lực quốc gia, dân tộc.

Chiếu dời đô vẫn luôn giữ vững giá trị của mình cho đến thời điểm hiện tại. Tác phẩm không chỉ cho thấy sự anh minh, sáng suốt trong nhìn nhận, phân tích vấn đề của Lý Công Uẩn mà còn cho thấy tài năng lập luận phong phú, sắc sảo của vị vua anh minh, sáng suốt này.

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô - mẫu 3

Lí Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cuộc đời ông đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, Trong những năm trị vì của mình, ông dành nhiều thời gian để đánh dẹp các nơi phản loạn,triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp.

Năm Canh Tuất (1010), Lí Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay).. Thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu dài của nhà Lý tồn tại hơn 200 năm. Nội dung của Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long, là tác phẩm khai sáng văn học triều Lý, có đầy tính thuyết phục, phản ánh được phần nào khát khao làm chủ giang sơn. Có ý nghĩa to lớn với nền văn học của Việt Nam.

Chiếu dời đô hay Thiên đô chiếu là một đoạn văn được nhà sử học Ngô Sĩ Liên ghi lại sớm nhất ở thế kỷ XV trong sách Đại Việt sử ký toàn thư. Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long – một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Xuất hiện và phát triển trong chế độ phong kiến, chiếu là một loại hình văn bản hành chính có vai trò rất lớn. Ở mọi triều đại, trong mọi thời kì, chiếu luôn được coi là một trong những loại hình văn bản hành chính quan phương nhất, bởi nó trực tiếp thể hiện những mệnh lệnh, những ý kiến, những suy nghĩ của nhà vua và được ban bố rộng rãi cho quần thần và dân chúng. Nhưng nó cũng mang trong mình ngôn ngữ hành chính vừa mang ngôn ngữ như đối thoại với nhân dân.

Quan sát bài chiếu, bài chiếu được hiểu có thể chia làm 3 đoạn rõ:Đoạn 1(2 câu đầu): Nêu bật được ý nghĩa của Việc chọn lựa kinh đô địa thế thích hợp đóng vai trò quan trọng giúp cho sự phồn vinh của các triều đại trong quá khứ. Đoạn 2(câu tiếp theo); Phản ánh sự sai lầm trong cách vị trí lập kinh đô của nhà Đinh, thực tế là kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang phát triển của đất nước cho nên cần thiết phải dời đô. Đoạn 3(4 câu ): nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá mang tầm vóc quốc gia.

Xứng đáng việc chọn kinh đô củng cố cho sự phát triển thịnh vượng của muôn đời.Mỗi văn bản, tác giả để tăng độ thuyết phục,chính xác, áp dụng phương pháp lập luận sắc bén chính là cách mà Lý Công Uẩn sử dụng để thể hiện ý tứ sâu xắc, tầm nhìn thời đại của mình trong việc muốn dời kinh đô của mình, còn nêu một số dẫn chứng trong lịch sử cổ kim để củng cố lí lẽ ấy nội dung ấy được nêu rõ ràng ở đoạn Việc dời đô là việc không hề dễ dàng, trước tâm trạng rối bời của nhiều người với quyết định của ông.

Ông đã nhấn mạnh được đó là việc làm thường xuyên của các triều đại cổ Trung quốc tạo nên được những sự thành công to lớn trong cách trị vị của họ, cho nhân dân, đất nước họ. “nhà Thương đến đời Bàn Canh”, ”nhà Chu đến đời Thành Vương”được tác giả gọi với sự tôn kính “vua thời Tam Đại” lần lượt họ đều phải dời đô rất nhiều lần, tác giả đặt câu hỏi mở cho nhân dân của mình về cách suy nghĩ trong việc dời đô đấy có phải là sự ngông nghênh tự tiện, không suy nghĩ trước những quyết định của mình.

Đó mở ra nhiều điều chúng ta nên suy ngầm, họ là những bậc anh minh, luôn mong mỏi đất nước phồn thịnh, ổn định nên việc chọn vùng đất đặt kinh đô để tiện cho việc trị vì dân tộc, hỏi thăm ý dân. Được lòng dân, thuận ý trời mới đưa ra quyết định khó khăn, và nó lại mang đến được nhiều sự thay đổi tích cực cho đất nước, vậy không việc gì họ không làm việc ấy.

Việc dời đô, có thể thấy nó không có gì là bất thường, mang tính tất yếu thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại mong mỏi của cả vua và dân, đất trời, mong cho đất nước thay đổi phồn thịnh như đất nước của các vị vua kia.

Sự suy nghĩ, óc phán đoán, phán xét tài ba của mình, ông đã đề cập những nhận xét có tính phê phán đến thời nhà Đinh rất sai lầm, khiến nhà vua rất buồn, đất nước, nhân dân cũng héo hon, triều đại phát triển không được hưng thịnh, thời thế nhanh suy.

Nếu như ông nhận định, việc dời đô không thể coi thường ý trời, tự quyết định theo ý người, không noi theo gương các triều đại cổ kim mà sửa đổi, thì mãi mãi đất nước không thể phát triển trên vùng đất hẹp, địa thế vạn vật không nhân hòa, anh linh đã được chứng minh bằng những căn cứ trong lịch sử mãi mãi hai nhà Đinh vẫn chỉ ở trong vòng củng cố mà không có sự phản kháng, lực lượng tàn dần. Nên khi nhà Lý lên ngôi, thấy được điều quý giá đó, thực tế kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang phát triển của đất nước cho nên cần thiết phải dời đô.

Còn việc chọn kinh đô là quyết định càng khó khăn hơn nữa cho vị vua anh minh, nhưng thật may mắn vị vua ấy đã hiểu được, có suy nghĩ về địa lý sâu rộng, nên quyết định sau đây của ông đã coi như là một sự thay đổi ngoạn mục cho bộ mặt hưng thịnh của nước nhà, niềm tự hào của cả dân tộc.

Đoạn 3 gợi nhắc đên chúng ta điều đó, vẫn lối chứng minh sắc sảo, việc chọn kinh thành Đại La của ông đã thực sự thu phục được lòng người nghe theo, làm theo, dựa vào thuyết phong thủy cổ xưa mà suy đoán được thế đất tốt cho việc phát triển và chứng minh lợi thế và vẻ đẹp muôn mặt của thành Đại La về địa lí, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện sống của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật.

Ông đã nhận ra nơi đây là đất tốt, đất lành, đây sẽ là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời,bằng chứng theo lịch sử là thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, Lê Trung Hưng và đang là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nó nằm ở vị trí trung tâm của đất nước.,thế rồng cuộn hổ ngồi rõ ràng núi có sông có, địa thế cao, bốn hướng nam, bắc, đông, tây.

Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả nước nơi đây đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Và sự phân tích đúng đắn ấy cũng là tâm sự sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên sau này nghiên cứu về kinh thành thăng long đã viết như sau: “Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền toàn bộ hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này”.

Câu hỏi tu từ tiếp sau đó thể hiện thái độ tôn trọng của người đứng đầu đất nước đối với triều đình phong kiến đương thời “ Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” trước khi ra bất kì quyết định nào ông cũng chú tâm đến ý kiến của công chúng để thống nhất và ra quyết đinh, thấy được ở đây sự đoàn kết đồng lòng quân dân, và một lần nữa củng cố chắc chắn quyết định này của mình.

“Chiếu dời đô” là một bài văn nghị luận giàu sức thuyết phục bởi có sự kết hợp giữa lý và tình. lời văn tạo nên sự đồng cảm sâu sắc giữa mệnh lệnh của vua với thần dân. Dời đô từ vùng núi Hoa Lư ra vùng đồng bằng đất rộng để chứng tỏ triều đình nhà Lý đủ sức chấm dứt nạn phong kiến cát cứ, thế và lực của dân tộc Đại Việt đủ sức sánh ngang hàng phương Bắc.

Qua đó, có thể thấy được khát vọng mãnh liệt của tổ tiên về một nước Đại Việt độc lập, thống nhất, hùng cường và tư thế hiên ngang của một quốc gia tự chủ đang trên đà phát triển lớn mạnh. Để rồi khi nhắc đến tác phẩm này sau hàng ngàn thế hệ, vẫn là sự quyết định đúng đắn của bậc anh nhân đầy thấm thía.

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô - mẫu 4

Trong chế độ phong kiến Việt Nam, Lí Công Uẩn được biết đến là một trong những vị minh quân có tầm nhìn xa trông rộng, lo lắng cho vận mệnh đất nước. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua việc ông quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội). Sự kiện chính trị này gắn với một tác phẩm văn học có giá trị là “Chiếu dời đô”. Bằng lập luận chặt chẽ, thuyết phục, bài chiếu chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.

Đầu tiên, trong tác phẩm này, giá trị nhân văn thể hiện qua mục đích và dời đô và nỗi lòng của tác giả. Mục đích của việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La là vì lo lắng cho vận mệnh đất nước. Nhận thấy những khó khăn ở nơi đóng đô hiện tại, cụ thể là địa hình núi hiểm trở gây ra nhiều khó khăn để phát triển đất nước trong thời bình.

Tác giả nêu ra những tấm gương không ngần ngại dời đô: “Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô” cùng với việc khẳng định đây là việc tất yếu nếu muốn phát triển đất nước. Vì hai nhà Đinh, Lê không nhận ra điều này nên “cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp” khiến cho tác giả lo lắng cho vận nước.

Chứng kiến cảnh nhân dân khổ cực, lầm than, Lí Công Uẩn “vô cùng đau xót”. Lời bộc bạch chân thành đã làm nổi bật hình ảnh của một ông vua yêu nước, thương dân và luôn khắc khoải về vận mệnh dân tộc. Như vậy, giá trị nhân văn đã được thể hiện qua tấm lòng của bậc minh quân, một lòng muốn dời đô để phát triển đất nước, tạo nên thái bình cùng cuộc sống an vui của con dân.

Giá trị nhân văn của tác phẩm còn được thể hiện qua lí do chọn Đại La làm kinh đô: “ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi”.

Tác giả đã phân tích những ưu điểm về mặt địa lí, phong thủy của vùng đất Đại La. Việc nhìn nhận địa thế của Đại La không những thể hiện sự hiểu biết sâu rộng mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của sự thấu tình đạt lí trong việc quyết định dời đô.

Tuy là một bài chiếu nhưng “Chiếu dời đô” lại thấm đẫm giá trị nhân văn bởi một lẽ, Lí Công Uẩn không hề ép buộc nhân dân phải làm theo ý mình. Chiếu vốn thuộc thể loại văn học chức năng, là lời ban bố của vua truyền xuống nhân dân nhưng xuyên suốt bài chiếu, chúng ta không hề bắt gặp bất cứ từ ngữ mang tính chất khẩu lệnh hay ép buộc nào.

Ngược lại, bài chiếu được viết nên đầy cảm xúc: “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”. Việc dời đô giống như được đưa ra trưng cầu ý dân bằng lập luận chặt chẽ, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, giọng văn ôn hòa, lời văn chân thật.

Như vậy, tuy thuộc là thể loại văn học chức năng với mục đích ban bố mệnh lệnh nhưng “Chiếu dời đô” không hề khô khan mà rất giàu cảm xúc. Với tấm lòng yêu nước thương dân, tác giả- vị vua Lí Công Uẩn đã tạo nên một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân văn.

Từ mục đích dời đô, lí do chọn Đại La làm kinh đô mới hay đến những lời bộc bạch của tác giả, chúng ta đều bắt gặp trong đó những giá trị vô cùng tốt đẹp và vì con người.

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô - mẫu 5

Năm 1009, sau khi vị vua cuối cùng của triều Tiền Lê là Lê Long Đĩnh mất, triều Tiền Lê sụp đổ, lúc bấy giờ Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên làm vua, lập ra nhà Lý. Năm 1010, Lý Công Uẩn đã viết Chiếu dời đô chiếu cáo triều thần, để dời đô về Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển thịnh vượng của nhà Lý suốt 216 năm.

Lý Công Uẩn (974 – 1028) hay còn gọi là Lý Thái Tổ, quê ở Bắc Ninh, là người nhân ái, có chí lớn, lập được nhiều chiến công và khai sinh ra nhà Lý. Tác phẩm thuộc thể loại chiếu, là thể văn do vua viết dùng để ban bố các mệnh lệnh cho triều thần hoặc thần dân, thể hiện những tư tưởng lớn lao liên quan đến vận mệnh dân tộc, đất nước.

Mở đầu bài chiếu Lý Thái Tổ đưa các dẫn chứng “nhà Thương đến vưa Bàn Canh năm lần dời đô”, “nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”, nhằm khẳng định việc dời đô vốn đã xuất hiện từ xa xưa, không phải chỉ riêng mình nước ta mới có, không phải do ông thích mà “tự tiện chuyển dời”. Để khẳng định việc dời đô là hoàn toàn đúng đắn Lý Công Uẩn tiếp tục đưa ra hàng loạt các mục đích cùng với lợi ích mà việc dời đô về Đại La đem lại.

Lý do dời đô là để “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” chứ không vì tư lợi, hay hứng thú nhất thời. Lý Thái Tổ khéo léo dựa vào thiên mệnh “trên vâng mệnh trời”, sau là trưng cầu ý dân, nếu thuận lòng cả hai thì mới thay đổi để “vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”. Ông chỉ ra rằng hai nhà Đinh, Lê vì “khinh thường mệnh trời”, không noi theo “dấu cũ” của hai nhà Thương, Chu nên mới có kết quả là vận nước ngắn ngủi, gây hao phí, nhân dân không được an cư lạc nghiệp.

Hơn thế nữa cũng nói lên rằng thế lực hai nhà Đinh, Lê không đủ mạnh phải dựa vào địa hình đồi núi hiểm trở, nhưng nay nhà Lý thế nước đã lớn mạnh, Hoa Lư không còn thích hợp làm kinh đô nữa. Kết lại Lý Thái Tổ thể hiện lòng đau xót, thương cảm và lần nữa khẳng định “không thể không dời đổi” kinh đô về nơi khác phù hợp hơn.

Sau phần lý lẽ chặt chẽ, sắc bén, giàu sức thuyết phục, về nguyên do và mục đích dời đô, Lý Công Uẩn đi vào phân tích về vùng đất Đại La nơi ông định dời đô về. Đầu tiên ông lật lại sử cũ, Đại La vốn là kinh đô của Cao Vương, một viên quan nhà Đường, giữ chức Đô hộ sứ ở Giao Châu (nước ta thời xưa) từ năm 864 đến năm 875.

Về địa hình, Đại La là “trung tâm trời đất”, lại được cái hướng phía trước nhìn sông, phía sau được núi yểm trợ bao bọc, đất đai cao và thoáng. Xét về phong thủy thì “được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, đúng ngôi nam, bắc, đông, tây theo ngũ hành. Xét về văn hóa, chính trị thì là nơi “chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước”, là đầu mối giao thông, huyết mạch cho cả nước.

Chung quy lại Đại La hầu như đã hội tụ đủ mọi yếu tố thuận lợi cho quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, để trở thành “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Phần này vừa thể hiện được tình cảm nguyện vọng của nhà vua, vừa thấy được tầm nhìn chiến lược, rộng lớn có sự quan sát, nghiên cứu tỉ mỉ của một vị vua anh minh lỗi lạc. Ông không đưa ra các ý kiến chủ quan nửa vời, mà ý nào cũng chính xác, lý luận sắc bén, hợp tình, hợp lý, giàu sức thuyết phục.

Cuối bài nhà vua kết lại “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”, đây là lời trưng cầu ý kiến thể hiện sự anh minh, không áp đặt suy nghĩ cá nhân mà luôn lấy nhân dân xã tắc làm trọng, phải đủ cả ba yếu tố “thiên thời – địa lợi – nhân hòa” thì mới thành sự được, một đức tính cẩn thận, tỉ mẩn vô cùng đáng quý ở bậc minh quân.

Nghệ thuật chủ yếu của bài nằm ở việc tác giả đưa ra các dẫn chứng chính xác từ lịch sử, từ thực tế khách quan, thêm vào đó là lý luận chặt chẽ, sắc bén, cùng với cảm xúc của nhà vua được đưa vào một cách hợp lý, kết hợp hài hòa giữa lý và tình, điều đó giúp tăng thêm sức thuyết phục cho bài chiếu.

Chiếu dời đô phản ánh khát vọng dân tộc về một đất nước cường thịnh, tự do, độc lập. Đây là một áng văn cổ đầy độc đáo, sáng tạo của ông cha ta, ngôn ngữ của bậc đế vâng được thể hiện với đầy đủ sự uy nghi, trang trọng, đồng thời cũng thể hiện được tấm lòng thương yêu nhân dân, luôn dồn hết tâm tư vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc của Lý Công Uẩn – vị minh quân có công sáng lập ra nhà Lý, và dời đô về Thăng Long, mở ra một trang sử phồn thịnh của dân tộc.

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô - mẫu 6

Trước những biến động của nước nhà, hàng loạt các chiếu của nhà vua được ban xuống để bây giờ trở thành những tác phẩm hay có giá trị trong nền văn học Việt Nam. Cùng với Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung thì chúng ta còn được biết đến Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn. Bài chiếu không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà nó còn mang nhiều nét văn học trong đó.

Lý Công Uẩn nổi tiếng là một nhà vua thông minh nhân ái có trí lớn và lập được nhiều chiến công hiển hách. Khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là Lí Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Năm Canh Tuất (1010), Lý Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay).

Tương truyền khi thuyền nhà vua đến đoạn sông dưới chân thành thì chợt thấy có rồng vàng bay lên. Cho là điềm lành, Lý Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long.

Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh lệnh nào đó của vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tưởng lớn lao có ảnh hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước.

Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên nhưng bên cạnh đó, nó cũng có những nét riêng. Đó là tính chất mệnh lệnh kết hợp hài hòa với tính chất tâm tình. Ngôn ngữ bài chiếu vừa là ngôn ngữ hành chính vừa là ngôn ngữ đối thoại. Cũng như chế và biểu, chiếu được viết bằng tản văn, chữ Hán, gọi là cổ thể; từ đời Đường (Trung Hoa) mới theo lối tứ lục gọi là cận thể (thể gần đây).

Trước hết tác giả nêu lên những dẫn chứng, những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đô của mình. Từ cổ chí kim việc dời đô là một việc làm thường xuyên của các nhà vua, cốt là để tìm cho hàng cung một chỗ phong thủy hợp cho sự phát triển của đất nước, góp phần hưng thịnh đất nước. Lý Công Uẩn dẫn ra hàng loạt sự dời đô của những vị vua bên Trung Quốc trước đó. Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô.

Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời ? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.

Có thể nói bằng những dẫn chứng trên tác giả lấy đó làm tiền đề và mở đầu cho bản chiếu dời đô của mình. Dời đô không phải là một việc xấu, từ xưa nó đã diễn ra thường xuyên rồi. Mục đích của nó cốt chỉ để làm cho việc mưu sinh thêm thuận lợi, bộ máy hành chính được đặt ở trung tâm của đất nước. Dời để hợp ý trời và thuận lòng dân để từ đó đất nước phồn thịnh kéo dài.

Qua việc đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng ấy, tác giả khẳng định việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lý là một tất yếu khách quan. Ý định dời đô của Lý Công Uẩn bắt nguồn từ thực tế lịch sử đồng thời thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng như của dân tộc ta hồi đó. Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong tương lai.

Tiếp theo tác giả phân tích nhưng thực tế cho thấy kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang của đất nước nữa cho nền cần thiết phải dời đô. Ông không ngần ngại phê phán những triều đại cũ “Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi”.

Tác giả nói rằng các triều đại nhà Đinh nhà Lê đã không nghe theo ý trời nên chỉ đóng đô ở nơi đây chính vì thế mà triều đại không được lâu dài. Không biết học những cái của thời xưa như nhà Thương, nhà Chu. Vậy nên trái với khách quan thì sẽ bị tiêu vong, không đi theo quy luật thì sẽ không có kết quả tốt. Tóm lại kinh đô Đại Việt không thể phát triển được trong một quốc gia chật hẹp như thế.

Nhưng thực chất thì ở giai đoạn đó hai triều đại chưa đủ mạnh cả thế và lực để tiến hành việc rời đô vùng đồng bằng trống trải nên vẫn phải dựa vào địa thế hiểm trở của rừng núi để chống thù trong, giặc ngoài. Nhưng đến thời Lí, trên đà mở mang phát triển của đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư không còn phù hợp nữa.

Bên cạnh những dẫn chứng thuyết phục như thế tác giả còn thể hiện giãi bày tình cảm của mình. Điều đó đã làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn. Cảm xúc ấy chính là cảm xúc mà tác giả muốn phát triển đất nước theo một hướng phát triển thịnh vượng hơn, lâu dài và bền vững hơn.

Sau đó nhà vua chứng minh và khẳng định sự đúng đắn hợp quy luật và phù hợp của việc dời đô. Đại La là một nơi có tất cả các điều kiện để phát triển đất nước: “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hưởng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi.”

Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lý, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật. tác giả đã nhìn từ góc nhìn của một nhà phong thủy, cho thấy tất cả những điều kiện tốt đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi đây. Thành Đại La ở vị trí trung tâm của đất nước. Có thế rồng cuộn hổ ngồi. Địa hình đa dạng có núi có sông, địa thế cao và khoáng đạt, mở ra bốn hướng nam, bắc, đông, tây, tiện cho việc phát triển lâu dài của quốc gia.

Đây cũng là đầu mối giao lưu chính trị, văn hóa và kinh tế của cả nước. Xét toàn diện, thành Đại La có đủ điều kiện tối ưu để trở thành kinh đô mới của Đại Việt. Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ càng trên nhiều lĩnh vực. có thể nói đây là một mảnh đất lý tưởng cho kinh đô và với những điều kiện ấy triều đại sẽ phát triển hưng thịnh. Nhà vua tự cho rằng xem cả dải đất nước Đại Việt thì chỉ có mỗi nơi đây là thánh địa. Có thể hiểu thánh địa là một nơi đất đai địa hình tốt đẹp hợp với một sự phát triển mạnh mẽ.

Kết thúc bài chiếu Lý Công Uẩn không dùng sức mạnh uy quyền để quyết định rời đô mà dùng một giọng như tham khảo ý kiến của nhân dân, bề tôi trung tín “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”. Đó như thể hiện sự dân chủ và công bằng cho tất cả những người bề dưới, quyền quyết định đương nhiên thuộc về nhà vua thế nhưng ông vẫn muốn hỏi ý kiến phía dưới để thấy đồng lòng với người dân. Vì chỉ có hợp với lòng dân thì nhà vua cũng như đất nước mới trở nên vững bền được.

Như vậy có thể thấy Lý Công Uẩn là một vị vua thông minh, nhân ái hiền từ và rất đổi hợp lòng dân. Ông không chỉ lấy những thực tế dẫn chứng từ các triều đại trước cũng như sự tốt đẹp của địa hình Đại La mà ông còn đánh vào tình cảm để thuyết phục.

Tuy là một bài chiếu có ý nghĩa ban bố mệnh lệnh nhưng Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn rất có sức thuyết phục bởi nó hợp với lẽ trời, lòng dân. Tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng điệu mạnh mẽ, khỏe khoắn để thuyết phục dân chúng tin và ủng hộ cho kế hoạch dời đô của mình.

Phân tích tác phẩm Chiếu dời đô - mẫu 7

Lý Công Uẩn sinh năm 974, mất năm 10284, mất năm 4, là người con Kinh Bắc. Ông là vị minh quân sáng lập ra nhà Lý. Năm 1010, nhân sự kiện dời đô về Đại La (Thăng Long – Hà Nội ngày nay), nhà vua đã viết nên “Chiếu dời đô” để thông báo rộng rãi cho quần chúng nhân dân. Bản chiếu đã phản ánh ý chí độc lập, tự cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt .

Trong bản chiếu, Lý Công Uẩn đã khẳng định việc dời đô là một việc đúng đắn. Điều đó không chỉ có ý nghĩa noi theo tấm gương của các bậc tiền bối mà còn là việc mang tính trọng đại tới vận mệnh dân tộc, qua đó thể hiện ý thức tự cường, “tính kế muôn đời” cho con cháu mai sau.

Lý Công Uẩn đã hiểu được khát vọng của nhân dân là mong muốn non sông được thu về một mối, người người được đoàn tụ, thống nhất, cùng nhau xây dựng một Đại Việt vững mạnh, tự lực, tự cường. Vùng đất Đại La là nơi “trung tâm của trời đất” với thế “rồng cuộn hổ ngồi” – một mảnh đất lí tưởng để “dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ và ngập lụt, muôn vật rất mực phong phú tốt tươi”.

Dân an thì nước mới thịnh, dân giàu thì nước mới mạnh. Có thể thấy việc quyết định dời đô đã thể hiện một khát vọng vô cùng mãnh liệt về một đất nước độc lập và phát triển giàu đẹp, thịnh trị trong tương lai của Lý Công Uẩn nói riêng và nhân dân Đại Việt nói chung. Thật cảm động biết bao khi có một bậc minh quân sống hết mình vì nhân dân, lấy dân làm gốc. Tìm chốn lập đô vì an thịnh của nhân dân, dời đô vì mong cầu hạnh phúc của nhân dân.

Mặt khác, Chiếu đời đô còn phản ánh niềm tin về một Đại Việt có tầm vóc và khao khát xây dựng một đất nước Đại Việt ngày càng lớn mạnh, phát triển. Nếu trước đó hai triều Đinh, Lê vì thế và lực chưa đủ lớn mạnh nên nên chỉ dám chọn Hoa Lư làm nơi đóng đô nhằm phòng thủ trước quân thù thì Đại Việt lúc này đã chọn Đại La, một vùng đồng bằng rộng lớn, tuy khả năng phòng thủ thấp nhưng thuận lợi cho giao thương phát triển.

Qua đó, ta thấy được Đại Việt lúc này thế và lực đã được củng cố nên chủ động hơn trong việc chống ngoại xâm hơn các triều đại trước. Chúng ta không cần phải sống trong cảnh dựa vào núi non khô cằn để phòng thủ nữa mà đã có tiềm lực để lập đô nơi có đất nước phát triển, sánh ngang với các triều đại phương Bắc. Có thể nói Kinh đô Thăng Long là một cái nôi đầy tiềm năng cho sự phát triển bền vững muôn đời của Đại Việt.

Trong giọng điệu vừa sắc bén, vừa thấu tình đạt lý của vị vua anh minh, nhân hậu tuyệt vời, ta không khỏi cảm phục và tự hào trước một người cầm quên hết mình vì vận mệnh dân tộc, hết lòng vì nhân dân. Những lý lẽ thuyết phục mà Lý Công Uẩn đưa ra đã tác động tới lý trí, tình cảm của quần thần, của nhân dân để từ đó tất cả đều quyết tâm một lòng, gắng dựng xây một Đại Việt thái bình, thịnh trị.

Xem thêm các bài Văn mẫu thuyết minh, phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 8 khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay lớp 8 theo từng phần:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 8

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 8 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 8Những bài văn hay lớp 8 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


chieu-doi-do.jsp


Giải bài tập lớp 8 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên