Kiến thức trọng tâm tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 đầy đủ

Kiến thức trọng tâm tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 đầy đủ

Nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững kiến thức các tác phẩm Ngữ văn lớp 10, VietJack biên soạn bản tổng hợp kiến thức trọng tâm tác giả tác phẩm Ngữ văn 10 đầy đủ về nội dung tác phẩm, đôi nét về tác giả, bố cục, tóm tắt, dàn ý, sơ đồ tư duy, ...

Tác giả - Tác phẩm Ngữ văn 10 Học kì 1

Tác giả - Tác phẩm Ngữ văn 10 Học kì 2

Tác giả - tác phẩm: Chiến thắng Mtao-Mxây

A. Nội dung tác phẩm

Đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây kể về hành trình đòi lại vợ của Đăm Săn. Khi nghe tin Đăm Săn cùng thuộc hạ rời khỏi bản làng. Mtao Mxây nghĩ ra cách cướp vợ của chàng. Hắn giả làm khách qua đường tìm đến nhà Đăm Săn, giả vờ bỏ quên cái con dao và nhờ nàng đem ra ngoài cho rồi bắt cóc Hơ Nhị đi. Đăm Săn nghe tin vô cùng giận dữ, đem quân đến nhà Mtao Mxây quyết tâm đòi lại vợ cho bằng được. Tuy nhiên, hắn không chịu ra ngoài giao chiến, Đăm Săn phải dọa phá nhà hắn mới chịu ra giao chiến. Mtao Mxây múa khiên yếu ớt, còn Đăm Săn thì vô cùng khỏe mạnh, dũng mãnh. Đăm Săn đâm trúng Mtao Mxây nhưng hắn mặc áo giáp nên không sao cả. Sau một hồi chiến đấu, Đăm Săn đuối sức và mơ màng thấy ông trời chỉ kế đánh bại Mtao Mxây. Chàng đánh bại được hắn và cứu lại được Hơ Nhị. Không những thế Đăm Săn còn thu phục tôi tớ nhà Mtao Mxây, danh tiếng chàng vang lừng khắp nơi. Chàng mở tiệc linh đình ăn mừng chiến thắng.

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Thể loại

a. Khái niệm: Sử thi là tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại.

b. Đặc trưng

- Nội dung: Sử thi có tính rộng lớn, kể về sự kiện trọng đại của quá khứ, biểu hiện toàn bộ đời sống văn hóa, lịch sử của cộng đồng, thể hiện quá trình vận động của tộc người đó qua các giai đoạn khác nhau.

- Nghệ thuật: Sử thi là những câu chuyện kể văn xuôi xen lẫn văn vần, có sử dụng các yếu thành ngữ, tục ngữ, những từ ngữ cổ, hình thức nghệ thuật ngôn từ dân gian.

c. Phân loại sử thi

- Sử thi thần thoại: Đẻ đất đẻ nước, Ấm ệt luông, Cây nêu thần… kể về sự hình thành của thế giới, sự hình thành của muôn loài, sự hình thành các dân tộc…

- Sử thi anh hùng: Đăm Săn, Đăm Di, Xinh Nhã, Khinh Dú, Đăm Noi… kể về cuộc đời và sự nghiệp của các anh hùng.

2. Tác phẩm

*Tóm tắt sử thi Đăm Săn: Sau khi về làm chồng hai chị em Hợ Nhị và Hơ Bhị, Đăm Săn trở nên một tù trưởng giàu có và uy danh lừng lẫy. Các tù trưởng Kên Kên (Mtao Grư), tù trưởng Sắt (Mtao Mxây) lừa lúc Đăm Săn cùng các nô lệ lên rẫy, ra sông làm lụng đã kéo người tới cướp phá buôn của chàng, bắt Hơ Nhị về làm vợ. Cả hai lần Đăm Săn đều tổ chức đánh trả và đều chiến thắng, cứu được vợ và tịch thu của cải, đất đai của kẻ địch khiến oai danh của chàng càng lừng lẫy, bộ tộc càng giàu có, đông đúc. Một lần tình cờ gặp cây sơ – múc (cây thần vật tổ bên nhà vợ), Đăm Săn ra sức chặt đổ kì được. Liền đó cả hai vợ đều chết và Đăm Săn lại tìm cách lên trời hỏi nữ thần Mặt Trời (con gái của Trời) về làm vợ. Tức giận vì bị từ chối, chàng bỏ về và cả người lẫn ngựa bị chết ngập ở rừng Sáp Đen nhão như bùn nước. Hồn Đăm Săn biến thành con ruồi bay vào miệng chị gái là Hơ Âng khiến nàng có mang và sinh ra đứa con trai. Đó là Đăm Săn cháu, lớn lên lại đi tiếp con đường của người cậu anh hùng.

a. Vị trí đoạn trích: Nằm ở phần giữa của sử thi Đăm Săn.

b. Thể loại: Sử thi anh hùng.

c. Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả.

d. Bố cục: 3 phần

- Phần 1 (Từ đầu đến cắt đầu Mtao Mxây đem bêu ngoài đường): Cảnh trận đánh giữa hai tù trưởng.

- Phần 2 (Tiếp đến Họ đến bãi ngoài làng, rồi vào làng): Cảnh Đăm Săn cùng nô lệ ra về sau chiến thắng.

- Phần 3 (Còn lại): Cảnh Đăm Săn ăn mừng chiến thắng.

e. Giá trị nội dung: Trọng danh dự, gắn bó với hạnh phúc gia đình và thiết tha với cuộc sống bình yên, phồn vinh của thị tộc – đó là những tình cảm cao nhất thôi thúc Đăm Săn chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

f. Giá trị nghệ thuật: Nghệ thuật so sánh, phóng đại:

- So sánh tương đồng: như lốc gài, như những vệt sao băng…

- So sánh tăng cấp:

+ Đoạn tả cảnh Đăm Săn múa khiên.

+ Đoạn tả cảnh đoàn người đông đảo: “Tôi tớ...cõng nước.”.

+ Đoạn mô tả thân hình lực lưỡng của Đăm Săn: “bắp chân...xà dọc.”.

- So sánh tương phản: tả cảnh múa khiên của Đăm Săn và Mtao Mxây.

- Các hình ảnh, sự vật được đem ra làm chuẩn so sánh được lấy từ thế giới thiên nhiên , từ vũ trụ bao la.

g Để cao tầm vóc lớn lao của người anh hung, khát vọng không có giới hạn cộng đồng Ê-đê về một tương lai hùng mạnh, thịnh vượng. 

C. Đọc hiểu văn bản

1. Cuộc chiến giữa hai tù trưởng

- Đăm Săn khiêu chiến và Mtao Mxây đáp lại; nhưng tỏ ra run sợ (sợ bị đâm lén, dáng tần ngần do dự, đắn đo…).

- Vào cuộc chiến:

+ Hiệp 1: Mtao Mxây múa khiên trước (khiên hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô) → lộ rõ sự kém cỏi, nhưng vẫn nói những lời huênh hoang (quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, xéo nát đất đai thiên hạ…). Còn Đăm Săn vẫn bình tĩnh, thản nhiên.

+ Hiệp 2: Đăm Săn múa trước (Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh, một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô…). Còn Mtao Mxây hoảng hốt trốn chạy (bước cao bước thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông…).

+ Hiệp 3: Đăm Săn múa rất đẹp và dũng mãnh (chàng múa trên cao, gió như bão…múa dưới thấp, gió như lốc…). Đâm trúng kẻ thù, nhưng không thủng.

+ Hiệp 4: Đăm Săn nhờ ông Trời chỉ cách đã giết chết kẻ thù.

⇒ Qua cuộc chiến, ta thấy được sự vượt trội của Đăm Săn về tài năng, bản lĩnh, xứng đáng đại diện cho cả cộng đồng. 

2. Thái độ của mọi người đối với Đăm Săn

- Ba lần Đăm Săn kêu gọi thì cả ba lần dân làng Mtao Mxây đều hưởng ứng (ba tượng trưng cho số nhiều): Không đi sao được... → Họ nhất trí xem Đăm Săn là tù trưởng, là anh hùng của họ.

- Lời nói của dân làng qua ba lần đối đáp có sự biến đổi, phát triển → Sự thần phục, lòng trung thành tuyệt đối của dân làng Mtao Mxây với Đăm Săn.

- Mọi người cùng nhau ra về theo Đăm Săn, đông vui như hội: Đoàn người đông như bầy cà tong... cõng nước.

⇒ Thể hiện sự thống nhất cao độ giữa quyền lợi, khát vọng của cá nhân người anh hùng với cộng đồng, bộ tộc đồng thời cũng thể hiện lòng yêu mến, sự tuân phục của tập thể cộng đồng với cá nhân người anh hùng – nhân vật kết tinh vẻ đẹp của cộng đồng.

3. Cảnh Đăm Săn ăn mừng chiến thắng

- Hành động của Đăm Săn sau chiến thắng:

+ Nói với tôi tớ: tự hào, tự tin về sức mạnh của bản thân và sự giàu có của thị tộc.

+ Ra lệnh nổi nhiều loại cồng chiêng: thể hiện sức mạnh của nguời anh hùng và sự giàu có của thị tộc.

- Hình ảnh Đăm Săn:

+ Đăm Săn nằm tên võng, tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một nong hoa.

+ Uống không biết say, ăn không biết no, chuyện trò không biết chán.

+ Là một dũng tướng chắc chết mười mươi cũng không lùi bước…

+ Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực…trong bụng mẹ.

→ Những hình ảnh so sánh, phóng đại để ca ngợi một tù trưởng anh hùng. Hình ảnh Đăm Săn được miêu tả bằng cái nhìn ngưỡng vọng từ dưới nhìn lên trên, sùng kính, tự hào. Điều này có nghĩa người anh hùng sử thi được tôn vinh tuyệt đối.

⇒ Khung cảnh ăn mừng chiến thắng của Đăm Săn cho thấy sự giàu có, sung túc, vững mạnh của tù trưởng Đăm Săn cũng như buôn làng của chàng.

D. Sơ đồ tư duy

Chiến thắng Mtao-Mxây

Tác giả - tác phẩm: Phú sông Bạch Đằng

A. Nội dung tác phẩm

Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Bèn giữa dòng chừ buông chèo,

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.

Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!

Bên sông bô lão hỏi, hỏi ý ta sở cầu?

Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.

Vái ta mà thưa rằng:

Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.

Đương khi ấy:

Thuyền tàu muôn đội, tinh kì phấp phới,

Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi!

Thế nhưng: Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối!

Khác nào như khi xưa:

Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Đến nay nước sông tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi!

Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.

Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.

Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an!

Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.

Đến bên sông chừ hổ mặt,

Nhớ người xưa chừ lệ chan.

Rồi vừa đi vừa ca rằng:

Sông Đằng một dải dài ghê,

Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thănh bình,

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

- Trương Hán Siêu hiện chưa rõ năm sinh, mất năm 1354, tự là Thăng Phủ.

- Quê quán: làng Phúc Am, huyện Yên Ninh (nay thuộc thành phố Ninh Bình).

- Ông là môn khách (khách trong nhà) của Trần Hưng Đạo, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: Hàn lâm học sĩ (dưới đời Trần Anh Tông), Tham tri chính sự. Khi mất, ông được vua tặng tước Thái bảo, Thái phó và được thờ ở Văn Miếu (Hà Nội).

- Trương Hán Siêu tính tình cương trực, học vấn uyên thâm, được các vua Trần tin cậy, nhân dân kính trọng.

- Sự nghiệp sáng tác: Tác phẩm của ông hiện còn lại không nhiều, trong đó có bài Phú sông Bạch Đằng.

2. Tác phẩm

a, Hoàn cảnh sáng tác

- Bạch Đằng là một nhánh sông đổ ra Biển Đông, nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi ghi dấu nhiều chiến công lịch sử giữ nước của dân tộc.

- Phú sông Bạch Đằng được viết từ cảm hứng hào hùng và bi tráng. Trương Hán Siêu trong một lần dạo chơi đã viết bài phú này. Chưa rõ bài phú được viết năm nào, có lẽ khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi.

b, Thể loại

+ Phú là một thể văn có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi, dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời…

+ Một bài phú thường có bố cục 4 phần: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận và đoạn kết.

+ Phú được chia làm hai loại là phú cổ thể và phú đường luật.

 Phú sông Bạch Đằng theo thể loại phú cổ thể.

- Bản dịch theo nguyên điệu, chỉ có hai câu cuối là thơ lục bát.

c, Phương thức biểu đạt: Tự sự

d. Ý nghĩa nhan đề: Bạch Đằng giang phú là bài phú về sông Bạch Đằng. Tác phẩm làm theo thể loại phú cổ thể: mượn hình thức đối đáp chủ – khách để thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc – tự hào về truyền thống anh hùng, bất khuất và truyền thống đạo lí nhân nghĩa sáng ngời, thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp.

e, Bố cục: 4 phần

+ Phần 1 (Từ đầu đến …luống còn lưu): Cảm xúc lịch sử của nhân vật khách trước cảnh sắc của sông Bạch Đằng.

+ Phần 2 (Tiếp đó đến …nghìn xưa ca ngợi): Lời của các bô lão kể với khách về những chiến công lịch sử trên sông Bạch Đằng.

+ Phần 3 (Tiếp đó đến …chừ lệ chan): Suy ngẫm, bình luận của các bô lão về những chiến công xưa.

+ Phần 4 (Còn lại): Lời ca khẳng định vai trò và đức độ của con người.

f, Giá trị nội dung: Qua những hoài niệm về quá khứ, Phú sông Bạch Đằng đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ngợi ca truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.

g, Giá trị nghệ thuật:

- Cấu tứ đơn giản, hấp dẫn với bố cục chặt chẽ.

- Lời văn linh hoạt.

- Hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa có giá trị gợi hình vừa giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Ngôn từ trang trọng, tráng lệ, lắng đọng và giàu suy tư.

- Điển cố được sử dụng chọn lọc, giàu sức gợi.

C. Đọc hiểu văn bản

1. Đoạn mở:

- Nhân vật "khách ": là sự phân thân của tác giả, tạo tính khách quan cho những điều sẽ nói.

- Mục đích dạo chơi thiên nhiên, chiến địa của khách:

+ Thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên.

+ Tìm hiểu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức.

- Những địa danh được nói đến:

+ Địa danh lịch sử lấy từ trong điển cố Trung Quốc: sông Nguyên, sông Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng. → Tác giả “đi qua” chủ yếu bằng tri thức sách vở, trí tưởng tượng.

+ Địa danh của đất Việt: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng. → Khách tự họa bức chân dung tinh thần của mình là một hồn thơ, một khách hải hồ, một kẻ sĩ thiết tha với đất nước và lịch sử dân tộc:

  • Có vốn hiểu biết phong phú.
  • Yêu thiên nhiên, say đắm thưởng ngoạn, tìm hiểu thiên nhiên (Giương buồm... mải miết).
  • Có tâm hồn khoáng đạt, có hoài bão lớn lao (Nơi có người đi... tha thiết).

- Cảnh sắc của thiên nhiên trên sông Bạch Đằng:

+ Hùng vĩ, hoành tráng: “Bát ngát...một màu”.

+ Trong sáng, nên thơ: “Nước trời...ba thu”.

+ Ảm đạm, hiu hắt, hoang vu do dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết: “cảnh thảm”.

- Tâm trạng của tác giả trước những sắc thái đối lập của thiên nhiên:

+ Phấn khởi, tự hào trước bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng mà trong sáng, thơ mộng.

+ Buồn thương, nuối tiếc trước vẻ ảm đạm , hiu hắt, hoang vu do thời gian đang xóa nhòa, làm mờ hết những dấu tích oai hùng của chiến trường xưa: “Buồn vì ...còn lưu”

2. Đoạn giải thích:

- Hình tượng các bô lão có thể là nhân vật có thật (là những người dân địa phương ven sông Bạch Đằng mà tác giả gặp trên đường vãn cảnh) hoặc có thể họ là nhân vật hư cấu (là tâm tư tình cảm của tác giả hiện thân thành nhân vật trữ tình để những nhận xét về các trận chiến trên sông Bạch Đằng trở nên khách quan hơn).Chính họ là người đã kể lại và bình luận chiến tích trên sông Bạch Đằng và đến với "khách" bằng thái độ nhiệt tình, hiếu khách, tôn kính.

- Vai trò: Là người chứng kiến chiến tích lịch sử, kể lại các chiến tích hào hùng đó cho khách nghe.

+ Các bô lão nhắc lại những chiến công đã diễn ra trên sông Bạch Đằng: "Ngô chúa phá Hoằng Thao/ Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã"

+ Họ kể lại diễn biến trận đánh năm xưa của hai vua Trần

  • Ngay từ đầu ta và địch đã tập trung cho trận chiến "Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới/ Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói"
  • Trận đánh diễn ra gay go, quyết liệt "được thua chửa phân" khiến cho ánh nhật nguyệt phải mờ, bầu trời sắp thay đổi.
  • Đây là cuộc đối đầu giữa ta và địch không chỉ về lượng mà còn đối đầu về ý chí. Cuối cùng quân ta - người chính nghĩa đã chiến thắng, bọn giặc: "hung đồ hết lối", chuốc lấy mối nhục muôn đời "Mà nhục quân thù khôn rửa nổi".

- Thái độ của các bô lão đối với khách: Nhiệt tình, hiếu khách và tôn kính khách.

- Thái độ, giọng điệu của các bô lão khi kể chuyện:

+ Nhiệt huyết, tự hào, mang cảm hứng của người trong cuộc.

+ Ngôn ngữ lời kể:

  • Súc tích, cô đọng, vừa khái quát, vừa gợi lại được diễn biến, ko khí của các trận đánh rất sinh động (“Đây là buổi... Hoằng Thao”).
  • Các câu dài, dõng dạc tạo ko khí trang nghiêm (“Đây là...Hoằng Thao”).
  • Các câu ngắn gọn, sắc bén gợi khung cảnh chiến trận căng thẳng, gấp gáp (“Thuyền bè...sáng chói”)

3. Đoạn bình luận:

- Nguyên nhân làm nên thắng lợi:

+ Thời thế thuận lợi (thiên thời): “trời cũng chiều người”.

+ Địa thế núi sông (địa lợi): “trời đất cho nơi hiểm trở”.

+ Con người – người tài, có đức lớn → giữ vai trò quyết định quan trọng nhất đến thắng lợi.

- Tác giả gợi lại hình ảnh Trần Quốc Tuấn và những hình ảnh so sánh với người xưa để khẳng định sức mạnh, tài năng và đức lớn của con người - nhân tố quyết định thắng lợi. → Cảm hứng mang giá trị nhân văn và có tầm triết lí sâu sắc.

4. Đoạn kết:

- Tuyên ngôn về chân lí của các bô lão:

+ Những người bất nghĩa (Lưu Cung, Hốt Tất Liệt) sẽ tiêu vong.

+ Những người anh hùng, nhân nghĩa (Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo) thì mãi "lưu danh thiên cổ"

→ Đó là chân lí có tính chất vĩnh hằng như sông Bạch Đằng ngày đêm “luồng to sóng lớn đổ về bể đông” muôn đời theo quy luật tự nhiên.

- Lời ca tiếp nối của khách:

+ Ca ngợi sự anh minh của hai vị thánh quan (Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông).

+ Ca ngợi chiến tích trên sông Bạch Đằng.

+ Khẳng định chân lí: vai trò và vị trí quyết định của con người trong tương quan với yếu tố đất đai hiểm yếu. 

→ Niềm tự hào dân tộc và tư tưởng nhân văn cao đẹp.

D. Sơ đồ tư duy

Phú sông Bạch Đằng

Tác giả - tác phẩm: Bình Ngô đại cáo

A. Nội dung tác phẩm

1. Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cỏi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương;

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét, 

Chứng cứ còn ghi.

2. Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ.

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những nổi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần dân chịu được?

3. Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống.

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đương mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu.

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;

Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả.

Thế mà:

Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,

Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.

Phần thì giận hung đồ ngang dọc,

Phần thì lo vận nước khó khăn.

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Khi Khôi Huyện quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,

Ta gắng chí khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.

Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

Sĩ khí đã hăng,

Quân thanh càng mạnh.

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lí An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;

Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;

Mọt gian kẻ thù, Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;

Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt;

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.

Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;

Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng;

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.

Đinh Mùi tháng chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;

Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;

Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,

Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,

Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.

Lại thêm quân bốn mặt vây thành,

Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.

Sĩ tốt kén người hùng hổ,

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông.

Nổi gió to trút sạch lá khô,

Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.

Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.

Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật; 

Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.

Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;

Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp;

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;

Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.

Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc;

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng;

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu kế kì diệu,

Cũng là chưa thấy xưa nay.

4. Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

Kiền khôn bĩ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo

Ai nấy đều hay.

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chi Ngại (Chi Linh, Hải Dương) sau rời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).

- Gia đình: Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình cả bên nội và bên ngoại đều có hai truyền thống lớn là yêu nước và văn hóa, văn học. Chính điều này đã tạo điều kiện cho Nguyễn Trãi được tiếp xúc và thấu hiểu tư tưởng chính trị của Nho giáo.

- Con người:

+ Nguyễn Trãi mồ côi mẹ từ lúc 5 tuổi.

+ Năm 1400, đỗ Thái học sinh và cùng cha làm quan dưới triều Hồ.

+ Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, Nguyễn Trãi theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa và góp phần to lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

+ Cuối năm 1427, đầu năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo và hăng hái tham gia vào công cuộc xây dựng lại đất nước.

+ Năm 1439, Nguyễn Trãi xin về ở ẩn tại Côn Sơn.

+ Năm 1440, ông được Lê Thái Tông mời ra giúp nước.

+ Năm 1442, Nguyễn Trãi chịu oan án Lệ Chi viên và bị khép vào tội "tru di tam tộc".

+ Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi và cho sưu tầm lại thơ văn của ông.

- Thời đại: Nguyễn Trãi sống trong thời đại xã hội nhiều biến động, loạn lạc - mâu thuẫn nội bộ trong triều đình phong kiến, đất nước có giặc ngoại xâm, đời sống nhân dân cơ cực và các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi… điều này đã hướng ngòi bút của ông hướng tới hiện thực đời sống.

- Sự nghiệp sáng tác: Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm.

+ Sáng tác viết bằng chữ Hán: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng, Văn loại.

+ Sáng tác viết bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn.

+ Ngoài sáng tác văn học, Nguyễn Trãi còn để lại cuốn Dư địa chí, một bộ sách địa lí cổ nhất Việt Nam.

- Phong cách sáng tác:

+ Văn chính luận: Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất, những tác phẩm văn chính luận của ông có luận điểm vững chắc, lập luận chặt chẽ với giọng điệu linh hoạt

+ Nguyễn Trãi là nhà thơ trữ tình sâu sắc.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

+ Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông buộc phải giảng hòa, rút quân về nước, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô.

+ Đại cáo bình Ngô có ý nghĩa trọng đại như một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố vào thánh Chạp, năm Đinh Mùi (tức đầu năm 1428).

b. Thể loại

+ Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết.

+ Cáo có thể viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần lớn được viết bằng văn biền ngẫu, có vần hoặc không có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau.

+ Lời lẽ đanh thép, lí luận sắc bén, kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.

c. Phương thức biểu đạt: Nghị luận.

d. Ý nghĩa nhan đề:

- Đại: lớn;

- Cáo: báo cáo;

- Bình: dẹp yên giặc, bình định xong;

- Ngô: Giặc Ngô (Nhà Minh Trung Quốc). 

 Bản cáo lớn gửi đến quốc dân đồng bào về chiến thắng oanh liệt của quân dân ta đánh tan được quân Ngô. Bản văn viết bằng Hán văn do Nguyễn Trãi viết theo thể văn biền ngẫu, trình bày sự gian khổ của 10 năm kháng chiến và thắng lợi chống quân Minh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đây có thể xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt trong văn học cổ.

e. Bố cục: 4 phần

- Phần 1 (Từ đầu đến …chứng cớ còn ghi): Luận đề chính nghĩa (tiền đề lí luận).

- Phần 2 (Tiếp đó đến …Ai bảo thần dân chịu được): Bản cáo trạng hùng hồn, đẫm máu về tội ác của kẻ thù (soi chiếu lí luận vào thực tiễn).

- Phần 3 (Tiếp đó đến …Cũng là chưa thấy xưa nay): Bản hùng ca về cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn.

- Phần 4 (Còn lại): Lời tuyên bố độc lập.

f. Giá trị nội dung: Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập, qua đó vạch tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

g. Giá trị nghệ thuật:

- Lí luận chặt chẽ, hợp lí lời lẽ hùng hồn

- Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương

- Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: liệt kể, phóng đại, so sánh, đối lập….

C. Đọc hiểu văn bản

1. Nêu chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

- Mở đầu bài cáo: Nguyễn Trãi nói với nhân dân về chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

+ “Việc nhân nghĩa…trừ bạo” → Nhân nghĩa: là làm cho dân được sống yên lành, hạnh phúc, muốn lo lắng cho dân yên thì phải tiêu diệt được quân tàn bạo.

+ Nước ta là nước văn hiến, bao đời xưng đế ngang hàng với phương Bắc và triều đại nào cũng có hào kiệt đứng lên trừ bạo để yên dân. Nhưng bọn Ngô luôn xâm lược nước ta cho nên chúng đều phải chịu thất bại, chứng cứ rành rành.

Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

→ Ý tứ rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Cách viết câu văn biền ngẫu có hai vế đối nhau chạy song song, một vế nói về ta, một vế nói về địch → tăng ý nghĩa bình đẳng, ngang hàng giữa hai quốc gia. (Từ Triệu. Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập /Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.)

- Giọng văn: đĩnh đạc, trang trọng, khẳng định mạnh mẽ chính nghĩa của dân tộc, bôc lộ niềm tự hào về truyền thống của Đại Việt, về tư thế của một quốc gia có chủ quyền

- Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi:

+ Không chỉ là lòng yêu thương con người, tôn trọng điều phải

+ Nhân nghĩa là làm cho dân được sống yên lành, hanh phúc trong một nước độc lập hòa binh

+ Nhân nghĩa là diệt trừ lũ xâm lược bạo ngược, hung tàn

- Bọn giặc Minh dựng chiêu bài Nhân nghĩa diệt nhà Hồ phù nhà Trần để sang xâm lược nước ta. → Nguyễn Trãi nói Nhân nghĩa là chống xâm lược để vạch trần luận điều xảo trá của giặc. Phân định rạch ròi Ta là chính nghĩa, Địch là phi nghĩa.

- Lời tuyên bố của Nguyễn Trãi: cũng nhấn mạnh vào 2 yếu tố chủ quyền lãnh thổ và ý chí độc lập và nâng cao hơn 1 bước; nhấn mạnh vào sự ngang hàng, bình đẳng giữa hai quốc gia, vào nền văn hiến của dân tộc (phong tục Bắc Nam cũng khác. Hào kiệt đời nào cũng có).

2. Tố cáo tội ác của giặc Minh

- Tác giả tố cáo âm mưu thâm độc của giặc Minh:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

- Lên án chủ trương cai trị tàn bạo: Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế.

- Liệt kê hàng loạt tội ác mà “quân cuồng Minh”, và “bọn gian tà” gây nên:

+ Tội ác diệt chủng: “nướng dân đen…vùi con đỏ” đây là tội ác mạn rợ nhất của  thời Trung cổ

+ Tội ác bóc lột và vơ vét của cải:

  • Thuế má: Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
  • Phu phen: Nặng nề những nỗi phu phen, nay xây nhà, mai đắp đất…
  • Vơ vét của cải: vét sản vật, bắt chim trả, bẫy hươu đen.
  • Diệt sản xuất: Tan tác cả nghề canh cửi

- Triệt đường sống cả những người yếu đuối, khốn khổ nhất trong xã hội: Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.

- Hủy hoại cả môi trường sống: Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ

- Phân tích hậu quả tai hại của tội ác giặc:

  • Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
  • Gây ra cho dân ta bao thảm cảnh: Người bị ép xuống biển ròng lưng mò ngọc/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng.

- Kết tội giặc Minh: Độc ác thay…..…Ai bảo thần dân chịu được → Lời kết tội chất chứa khối căm hờn của nhân dân ta với kẻ thù.

- Nghệ thuật cáo trạng: Dùng hình ảnh để tố cáo tội ác kẻ thù và khối căm hờn chất chứa của nhân dân.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

..Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán

..Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi

→ Hình ảnh diễn tả chân thực bộ mặt tàn bạo của kẻ thù

- Lời văn: ở bản cáo trang rấ thống thiết

- Điều đáng chú ý:

+ Khi vạch rõ những âm mưu xâm lược của giặc Minh. Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc.

+ Khi tố cáo tội ác của giặc, tác giả đứng trên lập trường nhân bản, nghĩa là đứng về quyền sống của người dân để tố cáo.

→ Bởi thế, phần nói về chủ quyền dân tộc đã như một bản tuyên ngôn độc lập, và bản cáo trạng tội ác của giặc Minh đã chứa các yếu tố của bản tuyên ngôn nhân quyền.

3. Quá trình kháng chiến chống giặc Minh và thắng lợi

*Buổi đầu khởi nghĩa

- Những khó khăn ở buổi đầu khởi nghĩa: 

+ Địa bàn dấy nghĩa hẻo lánh: Núi Lam Sơn dấy nghĩa / Chốn hoang dã nương mình

+ Thế ta và giặc không cân sức: Vừa khi cờ nghĩa dấy lên/ Chính lúc quân thù đương mạnh

+ Thiếu nhân tài: Tuấn kiệt như sao buổi sơm/ Nhân tài như lá mùa thu

+ Có lúc bị vây, lương thực hết, quân lính chỉ còn mấy người: Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần/ Khi Khôi huyện quân không một đội

- Sức mạnh giúp nghĩa quân vượt qua nhưng khó khăn thử thách của buổi đầu dấy nghiệp thể hiện qua hình tượng Lê Lợi – lãnh tụ của nghĩa quân.

+ Lê Lợi có ý thức tự giác về sứ mệnh của mình. Ông xem mối thù của nước, nỗi đau của dân như chính mình, ngày đêm canh cánh bên lòng suốt 20 năm: (Ngẫm thù lớn há đội trời chung…Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối).

+ Lê Lợi ngày đêm suy nghiệm về lẽ hưng vong của các triều đại để tìm ra đường lối đánh giặc cứu nước dựa vào toàn dân và phương châm: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo

  • Đại nghĩa: là bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước, và đem lại cuộc sống yên ổn cho dân.
  • Chí nhân: là lòng nhân nghĩa ở mức cao nhất, đối với kẻ bại trận ta không giết, không gây thù oán để gây hậu họa.
  • Khi đã tìm được đường lối cứi nước. Lê Lợi chủ động giải quyết ngay những khó khăn trước mắt.
  • Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
  • Ông tìm kiếm người tài: Cỗ xe cầu hiền, thường châm chăm còn dành phía tả.
  • Ông tập hợp nhân dân dưới cờ đại nghĩa, tạo thành một khối đoàn kết bền vững: Nhân dân bốn cõi một nhà/Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới – Tướng sĩ một lòng phụ tử/ Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

+ Lê Lợi có một chiến lược, chiến thuật đúng đắn: Thế trận xuất kì/ Lấy yếu chống mạnh; Dùng quân mai phục/ Lấy ít địch nhiều

+ Đoạn văn có nhiều từ ngữ diễn tả tâm trạng Lê Lợi: ngẫm, căm, đau lòng nhức óc, giận, suy xét, đắn đo, trằn trọc, băn khoăn…

*Phản công thắng lợi

- Giai đoạn mở màn: Cuộc phản công là 2 trận đánh lớn: Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

+ Đặc điểm nổi bật của 2 trận mở màn này là: Đánh nhanh, thắng nhanh. Địch thua và hoảng sợ không kịp trở tay → Lời văn ngắn gọn sắc sảo, hình ảnh so sánh rất gợi hình, gợi cảm: “sấm vang chợp giật, trúc chẻ tro bay” còn quân giặc thì “nghe hơi mà mất vía, nin thở cầu thoát thân”

- Giai đoạn áp đảo: Đánh ra hướng Bắc với 2 trận: Tây Kinh quân ta chiếm lại/ Đông Đô đất cũ thu về

+ Đây là 2 trận diễn ra quyết liệt vì quân ta áp sát sào huyệt của địch, chúng tung lực lượng lớn ra với sự chỉ huy của các danh tướng.

+ Cái khác biệt của cuộc chiến được miêu tả bằng những hình ảnh rất khủng khiếp:

  • Máu chảy thành sông tanh trôi vạn dặm.
  • Thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
  • Bao nhiêu danh tướng của giặc đã phải bỏ mạng: Trần Hiệp đã phải bêu đầu/Lí Lượng cũng đành bỏ mạng
  • Sau giai đoạn này thì quân giặc đã: trí cùng lực kiệt, bó tay để đợi bại vong.

+ Lê Lợi phát huy chiến thuật “mưu phạt tâm công” nghĩa là phá tan mưu kế của giặc và đánh tan ý chí chiến đấu của địch, không dùng gươm giáo mà quân địch vẫn chịu thua, hàng ngũ tan rã.

+ Trận diệt viện cuối cùng:

  • Tác giả thể hiện sự coi khinh đối với tên vua nhà Minh và 2 tên tướng giặc thống lĩnh viện binh: thằng nhãi con Tuyên Đức, đồ nhút nhát Thạnh, Thăng.
  • Bốn câu văn dài kể về việc điều binh khiển tướng của đôi bên, hai câu trên kể về giặc, hai câu dưới kể về ta (Đinh Mùi tháng chín….tuyệt nguồn lương thực).
  • Những thắng lợi liên tiếp, giòn giã, được kể với giọng hả hê, tự hào (Ngày mười tám…/Ngày hai mươi…/ Ngày hai mươi nhăm…cùng kế tự vẫn).

+ Sức mạnh tấn công của quân ta với thế long trời lở đất: Sĩ tốt kén người hùng hổ…Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.

- Hình ảnh quân giặc bại trận:

+ Tướng giặc thì: Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội/ Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng/ Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.

+ Quân lính thì: khiếp vía vỡ mật, xéo lên nhau để chạy thoát thân, quay gót chẳng kịp, cởi giáp ra hàng

+ Cảnh chiến trường thật là ghê sợ và cũng rất thương tâm: Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy nội….cỏ nội đầm đìa máu đen.

- Cảnh ta đối xử với giặc bại trận (Thần vũ chẳng giết hại….để nhân dân nghỉ sức)

+ Lời bình phẩm của tác giả: Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay.

+ Hình tượng Lê Lợi hiện lên là một thiên tài quân sự lỗi lạc. Ông đã học tập kinh nghiệm của ông cha, thực hiện chiến lược, chiến thuật “mưu phạt tâm công” nghĩa là đánh vào ý chí chiến đấu của giặc. Nhưng quân giặc “không biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ”. Vì vậy Lê Lợi đánh đuổi tới cùng, điều binh khiển tướng khẩn trương mau lẹ (Ta trước điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong/ Ta sau lại sai tướng chặn đương, tuyệt nguốn lương thực)

+ Lê Lợi cho quân đuổi giặc đến cùng nhưng lại “mở đường hiếu sinh”.

→ Ở đây ta thấy rõ vẻ đẹp nhân nghĩa trí dũng của người anh hùng Lê Lợi

* Nghệ thuật

- Các câu văn thuât và kể tả có độ dài ngắn khác nhau, chạy song song từng cặp một, có sự biến hóa linh hoạt.

- Phép đối được dùng để so sánh bên ta, bên địch.

- Những câu văn ngắn gọn, đanh chắc, nhịp mạnh mẽ, diễn tả khí thế phản công mãnh liệt của quân ta: Đánh một trận sạch không kình ngạc/ Đánh hai trận tan tác chim muông….đê vỡ.

- Những câu văn dài miêu tả thất bại của quân giặc, như sự thất bại còn chưa kể hết (Bị ta chẹn ở Lê Hoa….thoát thân).

- Hình ảnh được sử dụng phong phú, đa dạng.

4. Lời tuyên bố hòa bình

- Nguyễn Trãi thay Lê Lợi trịnh trọng tuyên bố nền độc lập dân tộc đã được lập lại:

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

→ Câu văn 6 chữ ngắn gọn, đanh chắc làm cho lời tuyên bố trở nên dõng dạc, đàng hoàng, toát lên sự vui mừng hả hê của một dân tộc đã phải chịu hai mươi năm khốn khổ, nay đã quét sạch hết quân thù.

- Tác giả bày tỏ niềm tin vững chắc vào tương lai của dân tộc ở hai phương diện: bên vững và đổi mới (Kiền khôn bĩ…..sạch làu)

- Nguyễn Trãi cũng không quên tỏ lời biết ơn tổ tông, trời đất (Âu cũng nhờ….như vậy)

- Từ cảm thán của câu văn biền ngẫu khẳng định ý nghĩa lớn lao của chiến thắng và niềm vui không xiết của nhân dân ta.

Than ôi!

Một cỗ nhung y….khắp chốn

- Bài cáo kết thúc bằng hai câu văn ngắn: chứa đựng bao vui sướng, tự hào, thiêng liêng.

Xa gần bá cáo

Ai nấy đều hay

D. Sơ đồ tư duy

Đại cáo Bình Ngô

Lời giải bài tập lớp 10 sách mới:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 10

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 10 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên