Top 30 Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (hay nhất)
Tổng hợp trên 30 bài Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu 1)
- Dàn ý Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu 2)
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu 3)
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu 4)
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu 5)
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu 6)
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu 7)
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu 8)
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu 9)
- Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu khác)
Top 30 Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (hay nhất)
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - Truyện Kiều
Truyện Kiều là một trong những truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong Văn học Việt Nam. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát, gồm 3254 câu. Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm được Nguyễn Du thể hiện một cách nhẹ nhàng mà vẫn sâu sắc vô cùng.
Giá trị nội dung của truyện được thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. Sức mạnh của đồng tiền và số phận những con người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là người phụ nữ. Phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công, phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ.Gia đình nhà Vương Ông đang sống bình yên, chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, thế là cuộc sống yên lành bị phá vỡ, tai hoạ ở đâu ập xuống nhà Kiều. Để từ đó, khiến cho cuộc đời Kiều phải rẽ hướng, hướng đi mới của số phận Kiều nghiệt ngã, đau đớn, tủi hổ vô cùng.
Bên cạnh đó Truyện Kiều còn lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người, đề cao tự do và công lí. Thuý Kiều điển hình cho người phụ nữ trong xã hội xưa, mười lăm năm lưu lạc của nàng là một chuỗi bi kịch. Dường như bao nhiêu nỗi cực khổ của người đàn bà thời trước đều ập xuống vai nàng. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi Kiều bị lừa gạt bị rơi vào lầu xanh tới hai lần, đem thân đi làm lẽ, làm đứa ở, rồi bị đánh đòn, lăng nhục trở thành tội phạm ở công đường, bị sỉ nhục, đày đọa khiến cuối cùng phải tự vẫn. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân .Gia đình nhà Vương ông đang sống yên bình nhưng vì thằng bán tơ tham tiền đã buông lời “vu oan giá hoạ” thế là cả gia đình gặp biến cố lớn, cha và em trai Thuý Kiều vào ngục. Bọn quan sai cũng nhờ cái cớ đó mà tiến vào nhà Kiều cướp phá, đánh đập. Để cứu được cha và em, bọn quan lại yêu cầu ba trăm lạng bạc, Thuý Kiều phải bán thân từ bỏ mối nhân duyên đẹp với Kim Trọng để làm tròn chữ hiếu. Sau đó, Kiều bị bán vào lầu xanh nơi có Tú bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh đều là những người chạy theo đồng tiền, chà đạp lên thân phận người khác nhằm chuộc lợi. Không chỉ Kiều mà biết bao người con gái khác cũng bị chôn vùi tuổi thanh xuân nơi lầu xanh nhơ nhớp ấy. Ngoài ra, giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện ở việc Nguyễn Du tố cáo sự thối nát, mục ruỗng của chính quyền phong kiến, đại diện trong tác phẩm này là Hồ Tôn Hiến và bè lũ sai nha của hắn, chúng lộng quyền, tham lam hơn nữa còn trắc dâm ô tàn bạo.
Đồng tiền khi rơi vào tay kẻ xấu chính là công cụ gây ra tội ác cho “kẻ yếu” hơn. Và Truyện Kiều chính là một bản tự sự đầy nước mắt về cuộc đời người con gái tài sắc Thuý Kiều đang bị chính sức mạnh và sự bất nhân của đồng tiền gây ra.
Nhưng điều khiến tác phẩm này trở thành linh hồn chính là giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du truyền tới người thưởng thức.Thông qua nhân vật chính của tác phẩm là Thuý Kiều, Nguyễn Du muốn thể hiện niềm đồng cảm sâu sắc của ông với những số phận bất hạnh nhất là người phụ nữ. Trong xã hội phong kiến, trọng nam khinh nữ, thân phận người phụ nữ như chỉ mua vui, họ bèo bọt, rẻ rúng. Tuổi xuân của họ của người phụ nữ xinh đẹp như Kiều đáng phải được nâng niu, trân trọng thì nay lại bị những kẻ cậy quyền, tham lam lợi dụng, lừa lọc để làm công cụ kiếm tiền nơi lầu xanh.Nguyễn Du cũng là người “yêu” vẻ đẹp con người. Ông đã tạo dựng thành công hình ảnh chàng Kim Trọng hết mực chung tình với Thuý Kiều, chàng Từ Hải người anh hùng giỏi giang, đầu đội trời, chân đạp đất. Đặc biệt là người con gái thuỳ mị xinh đẹp Thuý Kiều sẵn sàng hi sinh bản thân để giữ trọn nghĩa hiếu. Và qua tác phẩm ta cũng thấy được niềm tin ở hạnh phúc của con người, người tốt thiện lương sẽ luôn được hưởng hạnh phúc còn kẻ ác, tham lam sẽ bị trừng trị thích đáng. Giá trị nhân đạo được thể hiện trước hết là sự trân trọng đề cao con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Mặt khác Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ. Nguyễn Du như khóc cùng tiếng đàn và cuộc đời của Thuý Kiều, ông cũng bày tỏ thái độ trân trọng Kiều cho dù có lúc nàng đã là hạng người dưới đáy của xã hội.
"Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mình về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy trong xã hội mà quan niệm hôn nhân phong kiến còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim Trọng, Thúy Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng đầy ức chế, tàn bạo. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải – người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả cái xã hội bạo tàn ấy. Từ Hải là khát vọng của công lí, là biểu tượng cho tự do dân chủ. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người: vẻ đẹp tài sắc, trí tuệ thông minh, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, ý thức vị tha, đức thủy chung. Thúy Kiều, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó.
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật (mẫu khác)
Tham khảo các bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật hay khác:
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị
Bàn luận về sức hấp dẫn của một bộ phim, vở kịch hoặc một bài hát mà em yêu thích
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm "Truyện Kiều" (Nguyễn Du)
Dàn ý Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật
- Mở bài: Giới thiệu bộ phim (vở kịch, bài hát) và nêu khái quát điểm đặc sắc.
- Thân bài
Nêu các ý cụ thể phân tích bộ phim (vở kịch, bài hát):
+ Phân tích nội dung, ý nghĩa của bộ phim (vở kịch, bài hát).
+ Phân tích các điểm đặc sắc về hình thức bộ phim (vở kịch, bài hát).
+ Nêu các nhận xét của người viết về thành công và hạn chế của bộ phim (vở kịch, bài hát).
- Kết bài
Nêu đánh giá khái quát về bộ phim (vở kịch, bài hát): giá trị thời sự, hiệu quả tác động tới người xem, dư luận xã hội về bộ phim (vở kịch, bài hát) đó.
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - bức tranh Đêm Đầy Sao
Van Gogh đã vẽ bức Đêm Đầy Sao (Starry Night) vào năm 1889, khi ông đang điều trị trong một trại tâm thần ở Saint Rémy. Điều thú vị là ông đã vẽ bức tranh này từ trí nhớ của mình, và khung cảnh trong tranh được cho là dựa theo bầu trời đêm của Provence. Starry Night có lẽ là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất và có chiều sâu nhất của danh họa.
(Đêm Đầy Sao (Starry Night), 1889, tranh sơn dầu, Vincent van Gogh, MoMA, New York)
Điều đầu tiên tôi nhận thấy khi ngắm nhìn bức tranh này là bầu trời đêm choáng ngợp, chiếm gần hết hậu cảnh. Các đường xoáy tựa dòng chảy đang chuyển động nhẹ nhàng, dập dìu, dường như đang hợp nhất ở trung tâm tạo thành hình xoắn ốc. Mười một ngôi sao màu vàng rực rỡ trông giống như những quả cầu lửa khổng lồ, chiếu sáng toàn bộ khung cảnh. Chúng hoàn toàn tương phản với bầu trời đêm trong mát với nhiều sắc thái xanh lam và xám. Ngoài ra, ở góc trên cùng bên phải còn có vầng trăng lưỡi liềm đang tỏa ra ánh sáng màu cam đậm và còn sáng hơn so với các vì sao. Tầm nhìn ra bầu trời đêm và ngôi làng bị chặn một phần bởi cụm cây hoàng đàn khổng lồ phía trước. Bóng cây to lớn, màu xanh đen nổi bật hẳn so với tông màu nhẹ nhàng chủ đạo của tác phẩm. Những ngôi nhà nhỏ xíu được vẽ kín đáo ở góc dưới bên phải của bức tranh, như hòa với cảnh núi rừng. Kiến trúc của ngôi làng cổ kính, đơn sơ và không có ánh sáng chiếu vào ngôi làng, tạo cảm giác rằng tất cả mọi người ở đó có lẽ đang chìm trong giấc ngủ. Nhìn chung, nét vẽ của ông nặng, dày và có nhịp điệu dồn dập đầy dứt khoát. Vậy nên, tác phẩm tạo cho người thưởng tranh có ảo giác các nét cọ như đang liên tục chuyển động.
(Nét cọ trong bức họa Đêm Đầy Sao (Starry Night))
Việc Van Gogh vẽ bức tranh này dựa theo trí nhớ của mình đã giúp cho ta thấy phần nào về sự lệch lạc tinh thần và cường độ cảm xúc lớn của ông tại thời điểm đó. Người ta cảm thấy như thể danh họa đã khó có thể kiềm chế cảm xúc của mình, rằng tất cả nỗi tức giận và niềm đam mê của ông đã bao trùm toàn bộ tác phẩm. Mặt trăng và các ngôi sao lớn đến nỗi dường như cả bầu trời đêm sắp sụp xuống. Cây hoàng đàn, một loại cây có hình tượng kín đáo, trang trọng và tang tóc, có vẻ như nham hiểm khi chắn tầm nhìn của chúng ta ngay trước bức tranh. Cứ như thể Van Gogh đang tự tạo ra một thực tại của riêng mình. Ông chọn cách nhấn mạnh những vật thể mà mình cảm thấy là quan trọng, mặc kệ điều đó sẽ dẫn đến việc các góc nhìn bị bóp méo.
Bức tranh như sục sôi sự sống nhờ những nét vẽ tạo ấn tượng về sự chuyển động. Đặc biệt, bầu trời đêm dường như chính là nguồn sống của tác phẩm, nhờ sự năng động bùng nổ. Có vẻ như các thiên hà đang chuyển động và các vì sao sẽ lao vào thị trấn bình yên này bất cứ lúc nào. Các ngôi sao và bầu trời tạo nên một cảm xúc mãnh liệt với nhiều nét vẽ và màu sắc khác nhau, tất cả hòa vào nhau tạo thành một màn sương tựa như hình xoắn ốc ở trung tâm tác phẩm.
Mặt khác, cây hoàng đàn phần nào làm giảm bớt hiệu ứng chói lóa của bầu trời đêm với những chiếc lá sẫm màu, quằn quại vươn lên ở phía bên trái của bức tranh. Thân cây trông rắn rỏi và dường như nhàm chán so với phần còn lại. Nó làm xáo trộn toàn bộ trạng thái cân bằng của một đêm đầy sao, cảnh tượng mà đáng lẽ ra sẽ được khắc họa một cách đầy huyền diệu và trọn vẹn. Dondis từng nói rằng mắt người thường ưu tiên khu vực phía dưới bên trái của bất kỳ trường thị giác nào và có vẻ như Van Gogh đã cố ý vẽ bụi cây hoàng đàn ở vị trí nổi bật ấy. Có thể giải thích rằng bụi cây là đại diện cho nỗi thống khổ bên trong mà danh họa đang phải trải qua vào thời điểm đó. Sự hỗn loạn mà ông ấy đang trải qua có thể đã làm hao kiệt thứ khát vọng sống trong ông.
Bên cạnh đó, những ngôi nhà nhỏ có vẻ khá yên tĩnh. Tất cả các đèn đều đã tắt và mọi người hẳn đang say ngủ. Không ai để ý đến bầu trời đêm đang bừng lên sức sống và bụi cây hoàng đàn đang quằn quại. Điều đó lột tả sự xa lánh và hiểu lầm mà danh họa phải chịu đựng. Tôi cảm thấy rằng ngôi làng đang say giấc đại diện cho phần còn lại của thế giới, những con người không biết về những đam mê cuồng nhiệt và nỗi thống khổ mà Van Gogh đang phải trải qua. Có lẽ ấy là lý do tại sao những ngôi nhà trông như ở rất xa mặc dù chúng thực sự khá gần.
Giải thích của tôi chỉ là một trong số rất nhiều cảm nhận của những người thường thức nghệ thuật khác về Đêm Đầy Sao. Đây vẫn sẽ luôn là một tác phẩm khó nắm bắt đối với các nhà phê bình nghệ thuật cũng như các sinh viên. Bởi vì chẳng một ai thực sự biết ý định của Van Gogh về bức tranh đây. Mọi người dường như đang sử dụng các mật mã khác nhau để giải mã những gì Van Gogh đang cố gắng thể hiện .Có nhà phê bình cho rằng đây là một tác phẩm tôn giáo, mô tả một câu chuyện trong Kinh thánh. Trong sách Sáng thế ký, Joseph có một giấc mơ về mười một ngôi sao, mặt trời và mặt trăng (mặt trăng và mặt trời dường như được kết hợp với nhau ở đây), tượng trưng cho anh em và cha mẹ của mình, đang cúi đầu trước ngài. Một học giả khác cho rằng bức tranh này thể hiện sự hội tụ thiên văn, vì thực tế là vào thời ấy, có một hiện tượng thiên văn rất nổi tiếng. Khi đó, những người yêu thích thiên văn học và chiêm tinh học như Jules Verne đã sáng tác nhiều tác phẩm về du hành lên mặt trăng. Đối với tôi, tôi luôn có một ý nghĩ đa cảm này về Van Gogh, rằng tôi thấy ông như một nghệ sĩ bi kịch, đầy nỗi đau khổ, là người thực sự muốn làm rất nhiều điều cho nhân loại (ông đã từng là một nhà truyền giáo) nhưng liên tục bị xã hội khước từ. Bức tranh này đã truyền đạt đến tôi thứ tình yêu mà ông dành cho những tạo phẩm tuyệt đẹp của Chúa. Ấy thế mà, tôi cũng cảm nhận được một cảm giác cô đơn rõ rệt, như thể không ai có cái nhìn về thế giới như cách mà ông đã thấy.
Tất nhiên, để hiểu rõ hơn phong cách vẽ của danh họa trong Đêm Đầy Sao, chúng ta phải nhìn vào toàn cảnh. Vincent Van Gogh là một trong những nghệ sĩ theo trường phái Hậu ấn tượng vĩ đại, cùng với những cá nhân như Cézanne và Gauguin. Trường phái Hậu ấn tượng về cơ bản là một phản ứng chống lại chủ nghĩa ấn tượng, vốn thể hiện niềm tin rằng nghệ thuật nên phản ánh chính xác hiện thực bằng màu sắc và ánh sáng tự nhiên. Những người theo trường phái Hậu ấn tượng tin rằng nghệ thuật không phải để bắt chước hình thức, mà là để tạo ra hình thức. Có nghĩa là, các nghệ sĩ thời kỳ này đã có một cái nhìn chủ quan về thế giới thị giác và vẽ về thế giới của họ, theo nhận thức nghệ thuật của riêng mình. Như chính Van Gogh đã nói, “Chúng ta có thể thành công hơn trong việc tạo ra một bản chất thú vị và thoải mái so với những gì chúng ta có thể nhận ra chỉ bằng một cái nhìn thoáng qua về thực tại”. Đó là lý do tại sao các nghệ sĩ theo trường phái Hậu ấn tượng không có phong cách cố định – các tác phẩm của họ phản ánh cá tính và nhận thức độc đáo của mỗi cá nhân.
Trong trường hợp của Van Gogh, các tác phẩm của ông dường như phản ánh một cường độ cảm xúc lớn, giống như trong Starry Night. Ông ấy từng nói với anh trai Theo rằng, thay vì sử dụng màu sắc một cách chuẩn xác, ông muốn sử dụng chúng “tùy tiện hơn để thể hiện bản thân một cách gượng ép hơn”. Đặc biệt, ông thích vẽ phong cảnh phản ánh cảm xúc và tâm hồn của chính mình. Theo một cách nào đó, ông có cảm giác được giải phóng khi vượt ra ngoài ranh giới của nghệ thuật truyền thống. Đêm Đầy Sao là hiện thân của phong cách và lối thể hiện độc đáo của Van Gogh. Và thế đấy, những tác phẩm như thế đã gây sức ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật hiện đại ngày nay.
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - bộ phim Nhà bà Nữ
“Nhà bà Nữ” là một trong những bộ phim chiếu rạp đem lại doanh thu lớn nhất tính đến thời điểm hiện tại. Phim xoay quanh những vấn đề đều đến từ sự ích kỉ, việc không ai chịu thấu hiểu cho ai, cho đến khi dẫn đến cao trào của sự bùng nổ của việc nhẫn nhịn, bởi vậy phim đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều về nội dung và cách dàn dựng phim.
Khác xu hướng làm phim Tết với chủ đề nhẹ nhàng, nhiều tiếng cười, đạo diễn đi vào nội tâm nhân vật. Phim chọn góc nhìn chính từ Ngọc Nhi - một người con vốn phải sống theo định hướng của mẹ từ nhỏ. Mê làm gốm, cô vẫn phải học ngân hàng, phụ mẹ buôn bán. Cô chưa bao giờ đi chơi quá 10 giờ đêm, không thể xếp đồ lót theo ý mình. Từ các cãi vã nhỏ nhặt, mẹ con bà Nữ dần nảy sinh nhiều rạn nứt khó cứu vãn. Mâu thuẫn được đẩy lên là khi cô cãi lời mẹ khi lén lút quen John - Việt kiều mới về nước. Cao trào xảy ra khi Nhi có bầu, bỏ nhà ra đi, sống cùng John song nhanh chóng nhận trái đắng”.
Ngoài chuyện mẹ con bà Nữ, chuyện tình Nhi và John đại diện cho những đôi nhiều hoài bão nhưng thiếu thực tế. Họ mơ mộng với cuộc sống lứa đôi và sớm bị ghì chặt bởi cơm áo gạo tiền. Chuyện vợ chồng Phú Nhuận và Ngọc Như - con gái bà Nữ - là nỗi buồn của người đàn ông ở rể, bị nhà vợ lấn lướt. Yêu chồng nhưng thích kiểm soát, Ngọc Như để tuột mất hạnh phúc theo cách cô khó ngờ nhất.
Ở một phần ba thời lượng đầu, phim gây cười theo lối hài sân khấu. Về sau, phim dồn dập tình tiết, đẩy cao mâu thuẫn nhân vật. Những cảnh tranh cãi giữa mẹ con Nhi được lồng ghép tự nhiên, lời thoại dễ khơi gợi đồng cảm từ người xem. Những đoạn nhân vật Nhi bộc bạch, thoại phim đơn giản nhưng vẫn mang sức nặng về thông điệp: "Trong một mối quan hệ, sợ nhất là không ai đúng cũng không ai sai, vấn đề chỉ khác nhau ở góc nhìn, rồi họ lặng lẽ tổn thương, rời xa nhau".
Tuy nhiên, bộ phim vẫn còn nhiều điểm chưa “đã” khiến em cảm giác không được như mong đợi. Phim có nhiều góc máy về ẩm thực theo lối duy mỹ nhưng về sau, phim mang dáng dấp của một tác phẩm truyền hình, thiếu lối đặc tả, ghi dấu cá tính của đạo diễn và đặc biệt phim lồng lời thoại “chửi thề” vào quá nhiều. Bởi vậy, khi xem, không có những phân đoạn không để lại nhiều ấn tượng trong em.
Mặc dù có những điểm hạn chế nhưng em không thể phủ nhận rằng nội dung rất “đời”, kết cấu chặt chẽ, diễn xuất tự nhiên phần nào cũng đã tạo nên góc nhìn về cuộc sống đời thường. Qua đó, cũng gửi gắm được những bài học về cuộc sống để giúp chúng ta trưởng thành hơn trong suy nghĩ, để khi nhìn về sẽ không còn đọng lại những “tiếc nuối” như những nhân vật trong phim.
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - Truyện Kiều
Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19). Đây được coi là một trong những kiệt tác của nền văn học Việt Nam trung đại. Tác phẩm đã để lại nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật.
Truyện Kiều kể về cuộc đời của Thúy Kiều - một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Trong một lần du xuân, Kiều vô tình gặp gỡ Kim Trọng và có một mối tình đẹp đẽ bên chàng Kim. Hai người chủ động gặp gỡ và đính ước với nhau. Gia đình Kiều bị nghi oan, cha bị bắt, Kiều quyết định bán mình để chuộc cha. Trước khi bán mình, Kiều trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Thúy Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Ở đây, Kiều gặp được Từ Hải - một “anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều và giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa tổng đốc Hồ Tôn Hiến, Kiều vô tình đẩy Từ Hải vào chỗ chết. Đau đớn, nàng trẫm mình xuống sông thì được sư Giác Duyên cứu. Lại nói Kim Trọng khi từ Liêu Dương chịu tang chú xong quay về, biết Thúy Kiều gặp phải biến cố thì đau lòng. Chàng kết hôn cùng Thúy Vân nhưng vẫn ngày nhớ đêm mong gặp lại Kiều. Chàng liền quyết tâm đi tìm nàng, gia đình đoàn tụ. Túy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai đã nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Giá trị nội dung của Truyện Kiều thể hiện ở giá trị hiện thực và nhân đạo. Trước hết, về giá trị nhân đạo, tác phẩm đã khắc họa bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo và coi trọng đồng tiền. Đồng thời, Nguyễn Du còn cho thấy một xã hội phong kiến bất công đã chà đạp con người, đặc biệt là người phụ nữ. Cuộc sống của gia đình Thúy Kiều đang bình yên. Nhưng chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, cha Kiều bị bắt. Cuộc đời Kiều phải rẽ sang hướng khác. Nàng phải từ bỏ duyên đẹp đẽ với Kim Trọng, bán mình chuộc cha. Thúy Kiều còn bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư - vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán. Nàng còn trở thành vợ lẽ, bị người ta lăng nhục, đày đọa và cuối cùng phải tự vẫn.
Truyện Kiều đã bộc lộ sự trân trọng con người. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Thúy Kiều từ những vẻ đẹp từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Tác phẩm còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ. Cuối cùng, truyện là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người. Mối tình Kim Trọng và Thúy Kiều đã đi vào lòng người đọc. Sự thủy chung, si tình của Kim Trọng khiến ta không khỏi ngưỡng mộ. Ngoài ra, với Truyện Kiều, tác giả còn thể hiện khát vọng công lí tự do với hình tượng nhân vật Từ Hải, người anh hùng dám chống lại xã hội phong kiến tàn bạo.
Tiếp đến là giá trị nghệ thuật mà đầu tiên phải kể đến về mặt ngôn ngữ. “Truyện Kiều” được đánh giá là đạt đến trình độ mẫu mực về ngôn ngữ. Nguyễn Du đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Nhiều điển tích, điển cố được sử dụng để miêu tả tâm trạng, phẩm chất (“sông Tương”, “sân Lai”, “gốc tử”, “nàng Ban”, hay “ả Tạ”…). Cách dùng từ tinh tế là một trong những biệt tài của Nguyễn Du khi miêu tả nhân vật và cảnh vật. Ví dụ như khi miêu tả nhân vật Tú Bà, tác giả đã sử dụng từ láy “nhờn nhợt” (Thoắt trông nhờn nhợt màu da). Hay động từ “lẻn” (Mặt mo đã thấy Sở Khanh lẻn vào) để làm nổi bật sự xảo quyệt của Sở Khanh…
Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du cũng để lại những ấn tượng sâu sắc. Nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng được sử dụng. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Nguyễn Du cũng rất thành công khi xây dựng tâm trạng nhân vật với bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ điển hình:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Ngoài ra, việc sử dụng thể bát cũng đã mang lại những thành công to lớn cho việc chuyển tải nội dung tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đây là thể thơ vốn có rất nhiều yếu tố tạo hình và rất giàu tính nhạc, nhất là ở những đoạn khắc họa chân dung nhân vật.
Qua phân tích trên, có thể khẳng định, Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm chính là di sản quý giá của nền văn chương nước nhà.
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - Truyện Kiều
Phạm Quỳnh đã từng khẳng định: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn". Từ trước đến nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du được đánh giá là kiệt tác văn chương của dân tộc. Thật vậy, để làm nên giá trị đó là những đóng góp, sáng tạo mới mẻ của Nguyễn Du về cả nội dung và hình thức nghệ thuật.
Trước tiên, dù sáng tác dựa trên cốt truyện của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm tài nhân) song Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới với những sáng tạo về giá trị nội dung. Truyện Kiều mang giá trị hiện thực phản ánh bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam bất công, tàn bạo và xã hội kim tiền chà đạp lên quyền sống con người, đặc biệt là người phụ nữ. Đó là lời tố cáo các thế lực đen tối như sai nha, quan xử kiện, ... ích kỉ, tham lam, coi rẻ sinh mạng, phẩm giá con người. Tác phẩm còn cho thấy những tác động tiêu cực của đồng tiền: đó là những lời ngon ngọt "Có ba trăm lạng việc này mới xuôi", là những lần lừa gạt Thúy Kiều vào lầu xanh của Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,... Tất cả chung quy lại cũng vì đồng tiền làm tha hóa nhân cách của con người.
Không chỉ dừng lại ở giá trị hiện thực rộng lớn, tác phẩm còn mang những giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Truyện Kiều là tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa chà đạp con người như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,... Tác phẩm còn thể hiện tiếng nói thương cảm, xót xa của Nguyễn Du trước số phận bi kịch của con người: "Tiếc thay một đóa trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về", để rồi sau này ông thốt lên: Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung". Thúy Kiều là người con gái tài sắc nhưng số phận lại vô cùng éo le, lấy chữ hiếu làm đầu để rồi sau bao nhiêu trắc trở, nàng lại cô đơn vò võ một mình. Càng xót xa bao nhiêu, nhà thơ lại càng khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người: khát vọng về quyền sống, quyền tự do, công lý, khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Mối tình Kim Kiều vượt lên trên lễ giáo phong kiến cùng thái độ chủ động của người con gái khi yêu: "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" thể hiện khát vọng tình yêu của con người cùng hình ảnh người anh hùng Từ Hải ẩn chứa ước mơ của tác giả về một xã hội công bằng,... Bởi những giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả đó, Mộng Liên Đường chủ nhân đã từng ca ngợi Nguyễn Du là người "có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời".
Không chỉ có những đặc sắc về nội dung mà Truyện Kiều còn mang những nét sáng tạo vô cùng độc đáo về nghệ thuật. Tác phẩm là sự kết tinh các thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Về thể loại, tác phẩm được viết dưới hình thức một truyện thơ Nôm với thể thơ lục bát truyền thống quen thuộc. Về ngôn ngữ, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm có vận dụng kết hợp linh hoạt với các ca dao, thành ngữ quen thuộc. Nghệ thuật trong Truyện Kiều đã có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách, miêu tả tâm lí nhân vật. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhà thơ có sự kết hợp giữa ngôn ngữ độc thoại để miêu tả nội tâm và ngôn ngữ đối thoại để thể hiện tính cách, hoàn cảnh nhân vật. Với các nhân vật chính diện, Nguyễn Du sử dụng ngòi bút ước lệ, ẩn dụ tượng trưng quen thuộc trong thơ trung đại; với các nhân vật phản diện, nhà thơ thường sử dụng ngôn từ bình dân tả thực. Bên cạnh đó, ông còn có những đặc sắc nghệ thuật khi tả cảnh với bút pháp tả cảnh ngụ tình sinh động, giúp nhân vật thể hiện cảm xúc, tâm trạng của mình một cách gián tiếp. Tất cả đã làm nên một "Truyện Kiều" với những sáng tạo mới mẻ về hình thức thể hiện.
Với những đóng góp to lớn cả về nội dung và nghệ thuật, Truyện Kiều xứng đáng được coi là kiệt tác văn học của dân tộc. Thời gian cứ thế trôi và những gì là thơ, là văn, là tuyệt tác thì luôn còn mãi. Và "Truyện Kiều" cũng vậy.
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - tượng đài mẹ Thứ
Có vô vàn những bức tượng nổi tiếng và kì vĩ trên thế giới. Ở Việt Nam cũng có một bức tượng đồ sộ, mang đầy ý nghĩa nhân văn. Đó chính là tượng đài mẹ Thứ nằm ở Thành phố Tam Kì, tỉnh Quảng Nam.
Mẹ Thứ tên thật là Nguyễn Thị Thứ. Mẹ có 12 người con, 11 trai và 1 gái. Trong hai cuộc kháng chiến khốc liệt của nhân dân ta, mẹ đã lần lượt tiễn những người con của mình đi chiến đấu bảo vệ đất nước. Trong số đó, có 9 người con trai đã không bao giờ trở về nữa. Không chỉ hi sinh những đứa con cho Tổ quốc mà trong chiến tranh, mẹ luôn bám trụ cùng xóm làng, vừa sản xuất, vừa nuôi giấu cán bộ. Vườn nhà mẹ có đến 5 căn hầm bí mật. Hàng trăm người chiến sĩ đã được gia đình mẹ chăm sóc, che chở trong những năm đó. Vì những đóng góp quá đỗi lớn lao của mình, mẹ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam anh hùng".
Năm 2010, mẹ Thứ mất, Nhà nước quyết định cho xây dựng quần thể tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng để tri ân mẹ Thứ nói riêng và những người mẹ khác nói chung. Công trình này được xây dựng trên một vùng đất có quy mô lên khoảng 15ha, khối tượng tạc chân dung mẹ Thứ cao lên đến 18,5m, được làm bằng đá sa thạch. Hai bên tượng chính của mẹ là những khối tượng khác tạc hình mặt người bằng đá hoa cương. Tổng bức tượng hình cánh cung này chạy dài khoảng 120m Đây thực sự là một bức tượng đài to lớn, kì vĩ như chính những công ơn to lớn của mẹ dành cho Đất nước.
Chân dung mẹ Thứ được khắc họa với đôi mắt hiền từ, đôi môi móm mém do tuổi già. Những nếp nhăn trên trán, nơi khóe mắt, khuôn miệng cũng được tạc vô cùng tỉ mỉ. Hình ảnh người mẹ hiện lên thật hiền dịu nhưng cũng rất kiên cường mạnh mẽ. Xung quanh mẹ là những gương mặt khác không rõ tên tuổi giới tính. Đó có thể là đại diện cho những người con của mẹ, cũng có thể đại diện cho những gương mặt mẹ Việt Nam khác.
Không chỉ là một địa điểm du lịch nổi tiếng, bức tượng đài mẹ Thứ còn là một công trình tri ân đầy ý nghĩa. Bức tượng vừa dành tặng cho thế hệ đi trước, vừa để nhắc nhở con cháu sau này không được quên những công lao, đóng góp to lớn mà thầm lặng của những người mẹ Việt Nam anh hùng.
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - tượng đài Mẹ Thứ
Tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, nằm một tượng đài vô cùng đặc biệt và ý nghĩa, đó là tượng đài Mẹ Thứ - một biểu tượng to lớn của lòng hy sinh và tình yêu quê hương.
Mẹ Thứ, hay còn gọi là Nguyễn Thị Thứ, là một người phụ nữ kiên cường và hết lòng với đất nước. Bà có 12 người con, trong đó có 11 người con trai và 1 người con gái. Trong hai cuộc kháng chiến quyết liệt của dân tộc, bà đã từng tiễn con cái mình ra chiến trường, hi sinh để bảo vệ tổ quốc. Trong số đó, có tới 9 người con trai của bà không bao giờ quay về. Không những hy sinh con cái cho quê hương, trong những năm chiến tranh khốc liệt, Mẹ Thứ luôn ở bên cạnh làng xóm, sản xuất và giúp đỡ các chiến sĩ, thậm chí còn che chở họ trong những ngày đen tối. Vườn nhà Mẹ Thứ còn có tới 5 căn hầm bí mật, nơi hàng trăm người chiến sĩ được bà chăm sóc và bảo vệ.
Vì những đóng góp vĩ đại của mình, Mẹ Thứ được tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam anh hùng" từ Nhà nước. Sau khi Mẹ Thứ qua đời vào năm 2010, chính quyền quyết định xây dựng khu tượng đài Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng để tri ân không chỉ riêng Mẹ Thứ mà còn là tất cả những người mẹ dũng cảm khác của đất nước.
Khu tượng đài này nằm trên một khu đất rộng khoảng 15ha, với tượng đài chính cao tới 18,5m, được chạm từ đá sa thạch. Hai bên của tượng chính là những tượng khác tượng trưng cho những người con của Mẹ Thứ và những người mẹ Việt Nam khác. Tổng tượng đài này có chiều dài khoảng 120m, thể hiện sự kính trọng và tri ân đối với những đóng góp của những người mẹ anh hùng.
Chân dung Mẹ Thứ được tạo hình tỉ mỉ, với những nếp nhăn trên trán, nơi khóe mắt và khuôn miệng, thể hiện sự kiên cường và tình cảm của người mẹ. Xung quanh bà là những tượng mặt người không rõ danh tính, có thể hiểu như là đại diện cho tất cả những người mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã hy sinh và đóng góp cho quê hương.
Tượng đài Mẹ Thứ không chỉ là một điểm du lịch nổi tiếng mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn và tôn vinh những người mẹ dũng cảm của Việt Nam. Nó là một lời nhắc nhở cho thế hệ hiện tại và tương lai không bao giờ quên những đóng góp to lớn và hy sinh của những người mẹ Việt Nam anh hùng.
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - Truyện Kiều
Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích trích từ câu “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh” đến “Ai tri âm đó mặn mà với ai?” là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.
Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì.
Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.
Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - bộ phim Mùi cỏ cháy
So sánh về tuổi đời, điện ảnh thuộc lớp những ngành nghệ thuật còn non trẻ ở Việt Nam. Thế nhưng, không vì thế mà điện ảnh ít được đón nhận. Bộ phim “Mùi cỏ cháy” chính là một minh chứng cho sức hấp dẫn của phim điện ảnh chất lượng tại Việt Nam.
“Mùi cỏ cháy” được công chiếu vào năm 2012. Sức hấp dẫn của bộ phim được thể hiện trên nhiều khía cạnh, đầu tiên là về mặt đề tài. Đề tài chiến tranh không phải là đề tài mới mẻ, xa lạ với các sáng tạo nghệ thuật. Có biết bao những tác phẩm văn chương, âm nhạc, nhiếp ảnh về đề tài này đã trở nên nổi tiếng và đi vào đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Thế nhưng, người dân nước ta khi ấy vẫn còn ít tiếp xúc với điện ảnh. Việc khai thác một đề tài kinh điển bằng chất liệu mới đã thu hút được sự chú ý và khơi gợi sự trân trọng ở công chúng. Không chỉ vậy, chính tên tuổi biên kịch cùng nguyên tác, đơn vị sản xuất cũng là yếu tố góp phần gây tiếng vang cho tác phẩm. Kịch bản của bộ phim được viết bởi nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm – một nhà thơ và cũng là một người chiến sĩ từng từ giã mái trường để lên đường chống Mỹ. Xúc động hơn, tác phẩm được dựa trên cuốn nhật kí bất hủ “Mãi mãi tuổi hai mươi” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Đơn vị sản xuất là Hãng phim truyện Việt Nam. Chỉ từng ấy yếu tố thôi, “Mùi cỏ cháy” đã hứa hẹn là tác phẩm lấy đi nhiều nước mắt của khán giả khi tái hiện những năm kháng chiến hào hùng của đất nước cùng vẻ đẹp con người Việt Nam giữa lửa đạn chiến tranh.
Nếu những yếu tố trên thu hút công chúng đến với phòng vé thì chính nội dung hấp dẫn, chân thực và cảm động đã khiến “Mùi cỏ cháy” có sức sống lâu bền. Từ Hà Nội cổ kính rêu phong đến Quảng Trị kiên cường máu lửa, tất cả đều hiện lên vô cùng sống động. Nhân vật chính của tác phẩm là những chàng sinh viên đang độ tuổi đôi mươi, quyết tâm gác lại việc học để lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Bốn chàng trai Hoàng, Thành, Thăng, Long mang trong mình bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, tâm hồn ngây thơ trong sáng, sự tinh nghịch lạc quan, khát khao hạnh phúc và trên hết và tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm, tinh thần quyết tâm xả thân vì độc lập tự do của dân tộc. Những sự kiện, địa danh trong phim như 81 ngày đêm khốc liệt tại Thành cổ, dòng sông Thạch Hãn, những đợt ném bom của Mĩ,… đều là những điều có thật. Hơn hết, “Mùi cỏ cháy” không dừng lại ở mức tái hiện khô cứng hiện thực lịch sử. Tác phẩm không khoác lên chiến tranh bộ chiến bào lấp lánh, oai hùng mà khắc họa tận cùng những mất mát, đau thương của con người. Ta tìm thấy trong tác phẩm nỗi buồn khi rời xa gia đình, sự đau xót khi chứng kiến đồng đội lần lượt hi sinh của những người lính kiên cường hơn sắt thép. Ngày ra đi, bốn chàng trai cùng nhau chụp một tấm ảnh hẹn ngày chiến thắng trở về. Đến khi đất nước đã không còn bóng giặc thì Thành, Thăng, Long cũng đã nằm lại nơi chiến trường, chỉ còn lại mình Hoàng. Mỗi nụ cười, mỗi ánh mắt của các nhân vật trong bộ phim đều để lại trong tâm hồn người xem biết bao day dứt, khắc khoải. Tác phẩm thực sự là khúc bi hùng ca về con người và đất nước Việt Nam.
Không chỉ thành công về mặt nội dung ý nghĩa truyền tải đến người xem, “Mùi cỏ cháy” còn là tác phẩm thành công về nghệ thuật làm phim. Tiến trình của phim đi theo mạch hồi tưởng của nhân vật Hoàng – khi ấy đã là một cựu chiến binh già tạo nên sự chân thực và gây xúc động mạnh cho người xem. Bên cạnh đó, đây còn là tác phẩm kết hợp hài hòa giữa chất thơ và chất hiện thực. Trong phim xuất hiện nhiều hình ảnh ẩn dụ như dòng máu chảy trên tượng cô gái khi Thành, Thăng, Long hy sinh hay tấm ruy đô Long mang từ nhà,...Bối cảnh của phim cũng được chau chuốt kĩ lưỡng để tái hiện đầy đủ vẻ đẹp làng quê Việt Nam với giếng nước, đốc ga. Các cảnh chiến trận được đoàn làm phim chuẩn bị vô cùng kì công với khoảng thời gian lên tới bốn tháng.
Với những nét hấp dẫn trên, “Mùi cỏ cháy” đã xứng đáng “Bông sen Bạc” tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 cùng 4 giải “Cánh diều vàng” tại Lễ trao giải Cánh Diều Vàng 2011. Đến nay, câu chuyện về bốn chàng thanh niên Hoàng, Thành, Thăng, Long vẫn được yêu mến và lấy đi nước mắt của khán giả. Lời nhận xét của đạo diễn Hữu Mười có lẽ đã đủ tổng kết giá trị của bộ phim: “"Vinh danh Mùi cỏ cháy, là vinh danh quá khứ (…) Chúng ta không bao giờ được phép quên quá khứ, nếu quên quá khứ sẽ không có tương lai".
Viết bài nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - Truyện Kiều
Khi nhắc tới nhà thơ, nhà văn hóa lớn Nguyễn Du ta sẽ không khỏi choáng ngợp bởi tài năng xuất chúng của ông đã đóng góp cho nhân dân, cho đất nước giữa giai đoạn lịch sử đầy rẫy những biến động, ông còn được ca ngợi và được người đời gọi là “đại thi hào của dân tộc’. Phải kể tới những tác phẩm mang danh của ông, một trong số ấy được xem là một kiệt tác văn học mà ai ai cũng biết tên, tạo ra một dấu ấn, một nét rất riêng biệt và nổi trội cho nền văn học trung đại Việt Nam đó không thể nào khác chính là “Truyện Kiều”.
Nguồn gốc của bộ truyện thơ kinh điển này bắt nguồn từ cảm hứng dựa trên tiểu thuyết văn xuôi Kim Vân Kiều truyện lừng lẫy của tác giả Thanh Tâm tài nhân- Trung Quốc. “Truyện Kiều” được bắt đầu viết vào đầu thế kỉ XIX (1805 - 1809), bộ truyện đã được viết toàn bộ theo thể thơ lục bát và bằng chữ Nôm một cách ấn tượng, bao gồm 3254 câu, đương nhiên mang những dấu ấn rất riêng biệt khác xa với bản gốc vì những sáng tạo lớn về mặt nội dung và nghệ thuật của tác giả này. Truyện Kiều mang tên gốc là “Đoạn trường tân thanh” có nghĩa là “tiếng kêu mới về nỗi đau lòng đứt ruột", hiện lên trong mỗi chúng ta sự tò mò và xót xa cho nhan đề này, cho toàn bộ cả câu truyện và cho chính những nhân vật trong đó. Mang đậm hồn phách dân tộc thời đó, những bất cập rất nhức nhối trong cái xã hội vô cùng đen tối ấy và trên hết thảy tác giả đã hòa nhập vào nhân vật nữ chính để mang đến sự cảm thương sâu sắc cho cả một thế hệ những người phụ nữ trong cái xã hội đầy những bất công, họ đã bị chà đạp, cùng những ước mơ và khát vọng chính đáng trong sự suy nghĩ mới là những thông điệp sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm thông qua câu chuyện.
Ta hoàn toàn có thể tóm tắt được tác phẩm để dễ dàng tìm hiểu cho sát ý với tác giả, chia truyện ra làm 3 phần rõ ràng như sau: phần thứ nhất chính là phần miêu tả sự gặp gỡ và đính ước, phần thứ hai nói về cảnh gia biến và lưu lạc, còn phần thứ ba chính là sự đoàn tụ cho các nhân vật, cho câu truyện một cái kết có hậu nhất mà tác giả có khả năng làm. Một cuộc hành trình dài đằng đẵng có điểm đầu và điểm kết thúc, có cả những niềm vui lẫn bất hạnh của nhân vật chính, nó cứ nối tiếp nhau thông qua từng con chữ để rồi ta có thể thấm dần, ta thấu hiểu được nên không thể rời mắt.
Truyện kể về một cô gái tên là Thúy Kiều, những nhân vật phụ sẽ có mặt vào từng giai đoạn, mỗi bước đi trong cuộc đời Kiều như Vương ông, Vương bà là bố mẹ của nàng, Thuý Vân cô em gái của Vương Thuý Kiều, Kim Trọng là ý trung nhân của nàng, Mã giám sinh là người mua Kiều từ Tú Bà, Từ Hải là một người anh hùng đã cứu lấy cuộc đời Kiều, đem tới cho Nàng những niềm tin và hy vọng mới vào cuộc đời,…, hay những hoạt cảnh hết sức đẹp đẽ và hư ảo đã được tác giả sử dụng bằng những bút pháp nghệ thuật đặc sắc và cái nhìn phóng khoáng có thể sáng sủa hay u ám của người thi sĩ, chỉ khiến cho ta nhấn mạnh vào sự tập trung đến cách thể hiện, cách đối mặt và tâm trạng giữa chuỗi cuộc đời đầy bấp bênh của nhân vật nữ chính đồng thời cũng xót xa trước những tai ương mà Kiều đã gặp phải do vẻ đẹp cũng như tài năng của nàng mang lại. Ở Kiều là mọi thứ có khả năng biểu lộ dường như đạt tới độ hoàn mỹ.
Bắt đầu là những đoạn văn tả về hai chị em, tiếp đến là những dòng thơ khi Kiều thăm mộ Đạm Tiên, phân đoạn Kiều đến gặp Kim Trọng cũng được tác giả đặc biệt chú tâm. Rồi là sự bày tỏ những cảm xúc và thái độ đúng mực, ấn tượng của nàng về quyết định sẽ tự bán mình để chuộc cha, và rồi hàng tấn bi kịch dành cho nàng cũng khiến cho ta phải day dứt và suy nghĩ đe dọa, chà đạp lên giá trị bản thân Nàng từ đoạn Kiều rơi vào tay của Mã giám sinh và Tú bà, Kiều bị mắc lừa Sở Khanh. Và tác giả đã viết những dòng tâm sự hết sức chân thực của nàng trước sự cứu thoát dù rất nhỏ nhoi chính là Kiều được gặp Thúc sinh, đoạn Kiều và Hoạn thư lại là nỗi cay đắng với Nàng, rồi cuối cùng mở ra một hướng đi mới cho cuộc đời của Kiều chính là lúc Kiều gặp Từ Hải. Rồi cũng đến cái ngày mà ai đó đều mong chờ và bất ngờ là đoạn Kiều báo ân trả oán, Kim Trọng đi tìm Thuý Kiều và cuối cùng kết thúc có hậu đã tới “Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình sau mười năm lưu lạc, và làm bạn tương giao tình nghĩa với Kim Trọng”.
Những hình thức nghệ thuật đã được tác giả hết sức chú trọng trong Truyện Kiều, thể hiện sự thành công bậc thầy khi đã hội tụ đầy đủ những biện pháp nghệ thuật vô cùng tài tình của ngôn ngữ dân gian đã đạt tới đỉnh cao, của giọng điệu thơ lục bát để dễ dàng in đậm trong lòng của người đọc, những biện pháp tu từ được sử dụng một cách linh hoạt,... từ sự miêu tả thiên nhiên cho đến con người bằng sự quan sát và nhập tâm vào nhân vật rất sâu sắc.
Và còn những giá trị mà tác phẩm đã đem lại thì sao? Nó có một sức ảnh hưởng cũng không hề nhỏ đối với xã hội, như PGS. Nguyễn Thạch Giang đã từng phát biểu khi nghiên cứu về kiệt tác quý báu bậc nhất này:“… Truyện Kiều đã phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, khi mà chế độ phong kiến đang suy thoái đã bộc lộ đầy đủ tính chất mục nát, vô nhân, và các tầng lớp nhân dân đã bị dồn đến bước đường cùng…Khi viết, tuy có dựa vào Kim Vân Kiều truyện, nhưng với kỳ công tái tạo, Truyện Kiều của nhà thơ đã trở thành viên ngọc vô giá của thể loại truyện thơ nói riêng và của nền văn học dân tộc Việt nói chung…..”
Tác phẩm rất giàu giá trị hiện thực vì trong đó sẽ phơi bày rõ nét nhất về hiện thực xã hội phong kiến vô cùng bất công, là sự phản ánh nỗi khổ đau và bất hạnh của con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Bên cạnh đó, hoàn toàn có thể nói rằng giá trị chính trong “Truyện Kiều” chính là giá trị nhân đạo thấm đẫm tình yêu thương, mới mẻ lại vẫn giữ được những nét truyền thống do tác giả biết trân trọng vẻ đẹp giá trị trong con người cao hơn thiên nhiên, thông qua nhân vật Kiều, tác giả còn rất thương xót cho cả một kiếp người đã bị chà đạp, khinh rẻ, đồng thời tố cáo và phê phán hết thảy những thế lực chà đạp lên con người, ông đã thể hiện được ước mơ hết sức cao cả của cả một thế hệ đó là ước mơ một cuộc sống có sự công bằng, cái thiện sẽ được khuyến khích còn cái ác phải bị trừng phạt.
“Truyện Kiều” dù phải trải qua hàng trăm năm lưu truyền vô cùng rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với tất cả tầng lớp độc giả, vì vậy “Truyện Kiều” đã được giới thiệu rộng rãi ra khắp các nước trên thế giới, dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau để tiện nghiên cứu về cái đẹp, cái nét riêng biệt, quý đại diện của nền văn học nước Việt, cũng để ta có thêm niềm tự hào về sự đóng góp từ một nhân vật vô cùng xuất chúng chính là tác giả lớn Nguyễn Du.
Xem thêm các bài văn mẫu 11 Cánh diều hay khác:
Suy nghĩ về câu cách ngôn “Cứ hướng về phía Mặt Trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”
Top 30 Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận về một tư tưởng, đạo lí
Nhà thơ Tố Hữu nhận định Nguyễn Du là "người xưa của ta nay". Em có suy nghĩ gì về nhận định đó.
Nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Trao duyên
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 11 hay khác:
- Soạn văn 11 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 11 Cánh diều (ngắn nhất)
- Soạn Chuyên đề Văn 11 Cánh diều
- Giải lớp 11 Cánh diều (các môn học)
- Giải lớp 11 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 11 Chân trời sáng tạo (các môn học)
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Soạn văn 11 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 11 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 11 - Cánh diều
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Giải sgk Vật Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 11 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 11 - Cánh diều