Top 30 Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử

Tổng hợp các bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 30 Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử (hay nhất)

Quảng cáo

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 1

Một nhân vật lịch sử vĩ đại của dân tộc ta mà em luôn hằng yêu quý và kính trọng là Bác Hồ.

Bác Hồ là một vị lãnh tụ với rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp. Những mẩu chuyện nhỏ về cuộc sống đời thường của Bác cũng luôn truyền cảm hứng ý nghĩa cho nhân dân ta. Một sự việc có thật về bác mà em thường nghe kể chính là về một lần Bác trên đường thực hiện công tác. Hôm ấy, Bác cùng các cán bộ ngồi trên xe ô tô để di chuyển đến nơi diễn ra cuộc họp. Giữa đường, xe của Bác dừng lại chờ đèn đỏ khá lâu. Một anh bảo vệ trên xe đã định đi xuống, yêu cầu người gác đèn giao thông chuyển màu xanh để xe Bác được đi. Anh bảo vệ cho rằng, Bác là lãnh tụ của cả nước, hằng ngày có trăm công nghìn việc, nên Bác xứng đáng được ưu tiên trong những tình huống như thế này.

Quảng cáo

Tuy nhiên, sau khi nghe anh bảo vệ trình bày, thì Bác lắc đầu từ chối. Trong ánh mắt nghi hoặc của anh, Bác từ tốn giải thích. Rằng Bác cho rằng mình trước khi là lãnh tụ, thì cũng là một công dân của nước Việt Nam. Nên việc chấp hành đúng luật an toàn giao thông là điều hết sức hiển nhiên. Hơn nữa, nếu ai cũng lấy lý do là có nhiệm vụ trong người, là bản thân có công với đất nước để đòi quyền ưu tiên thì không được. Nghe Bác nói, anh bảo vệ rất xúc động. Hành động của Bác đã khiến anh càng thêm yêu quý và ngưỡng mộ nhân cách sáng ngời của vị Chủ tịch vĩ đại. Vậy là, anh nghiêm túc ngồi trên xe, cùng Bác chờ đèn xanh.

Câu chuyện trên là một trong rất nhiều những sự kiện liên quan về Bác Hồ mà mọi người vẫn thường kể. Câu chuyện nào cũng thật hay và ý nghĩa, giúp chúng em thêm hiểu để noi theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 2

Nhân vật lịch sử mà em luôn yêu quý và kính trọng vô cùng, chính là Hai Bà Trưng.

Quảng cáo

Hai Bà Trưng là tên gọi chung của hai chị em là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Tuy là phận nữ nhi, nhưng hai bà rất tài giỏi mưu lược và võ thuật. Lúc ấy, nước ta đang phải sống dưới sự đô hộ của giặc phương Bắc với nhiều đau khổ, oán than. Kẻ thù căm ghét Hai Bà Trưng vốn được lòng dân nên đã lập mưu giết chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách. Hành động này đã thổi bùng lên lòng căm hận trong bà. Vì vậy, Hai Bà Trưng quyết tâm đứng dậy khởi nghĩa để trả thù nước và trả nợ nhà. Nghĩa quân của hai bà lớn mạnh từng ngày, đánh đâu thắng đó khiến quân địch hoảng sợ, bỏ chạy khắp nơi. Cuối cùng, đội quân của hai bà đã giúp nước ta được độc lập, sạch bóng quân thù.

Tuy nền độc lập ấy chỉ duy trì hai tháng, nhưng nhân dân ta vẫn vô cùng biết ơn hai bà. Sau khi Hai Bà Trưng nhảy vực tự vẫn để bảo vệ danh dự của mình, đất nước ta lại rơi vào ách đô hộ. Nhưng ngọn lửa mà hai bà tạo nên vẫn tiếp tục cháy âm ỉ trong lòng dân, chờ ngày vụt sáng.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 3

Thánh Gióng là một nhân vật anh hùng mà người dân Việt Nam ai ai cũng biết. Không chỉ vì truyền thuyết về Thánh Gióng vô cùng phổ biến trong dân gian, mà còn bởi đến ngày nay vẫn có nhiều chứng tích và hoạt động lễ hội tưởng nhớ.

Quảng cáo

Thánh Gióng được biết đến bởi quá trình sinh ra và lớn lên lạ kì. Theo truyền thuyết kể lại, mẹ của Thánh Gióng vì ướm chân lên một vết chân to mà mang thai và sinh ra cậu. Tuy nhiên, suốt ba năm đầu đời, Gióng chỉ nằm im một chỗ, không nói cũng chẳng cười, tựa như một em bé búp bê vậy. Cuộc sống cứ thế lẳng lặng trôi qua, cho đến một ngày điều khó khăn ập đến. Giặc Ân từ nơi xa kéo đến nước ta, tổ chức cuộc xâm lăng man rợ. Đất nước lâm nguy, nhà vua cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi sứ giả đi ngang qua nhà Thánh Gióng, đọc khẩu dụ của nhà vua thì Gióng bỗng trở nên khác lạ. Cậu cử động thân mình, cất tiếng gọi mẹ và nhờ bà gọi sứ giả vào gặp mình. Đó là lần đầu trong suốt bao nhiêu năm cuộc đời Gióng cất tiếng nói, và cũng là để cứu nước. Chi tiết ấy đã cho thấy sứ mệnh vĩ đại của Thánh Gióng khi đến với thế giới này, chính là bảo vệ độc lập của đất nước ta.

Ngay khi gặp sứ giả, Thánh Gióng đã yêu cầu một con ngựa sắt, một bộ giáp sắt và một cây gậy sắt với kích thước to lớn. Hiểu được mình đã gặp được một người anh hùng phi phàm, sứ giả đồng ý ngay và vội vàng về tâu với nhà vua cho sản xuất các món đồ đó. Còn Thánh Gióng, sau khi sứ giả rời đi, thì bỗng nhiên ăn nhiều hơn hẳn. Cậu ăn mãi mà chẳng thấy no, cơ thể cũng theo đó mà cao lớn nhanh chóng. Áo mẹ vừa mặc cho đã sứt chỉ rồi. Thế là, dân làng đã chủ động sang nhà góp gạo, nấu cơm cho Gióng ăn. Cả làng cùng đồng sức đồng lòng để nuôi lớn người anh hùng.

Khi giặc Ân đã chạy đến chân núi, cũng là lúc sứ giả mang các món đồ bằng sắt đến. Ngay lập tức, sóng chạy ra giữa sân, vươn vai một cái rồi biến thành tráng sĩ cao lớn, vạm vỡ. Tráng sĩ mặc giáp sắt vào, tay cầm gậy sắt, tay còn lại vỗ vào mông ngựa, khiến nó sống dậy, phun ra từng ngọn lửa lớn. Xong xuôi, Gióng cưỡi lên lưng ngựa, lao ra chiến trường. Quân giặc đông đúc bị một mình Thánh Gióng đánh cho trở tay không kịp. Chúng nằm xuống như ngả rạ, thương vong nặng nề. Số còn lại thì quá sợ hãi, vứt bỏ vũ khí tìm đường tháo chạy. Tất cả bị Thánh Gióng truy đuổi đến tận biên giới, để đảm bảo cả nước ta không còn hình bóng của một kẻ thù nào. Trên đường đi, gậy sắt bị gãy, Thánh Gióng liền nhổ bụi tre ven đường để thay thế.

Kết thúc trận chiến, nước ta trở lại bình yên. Thánh Gióng đã hoàn thành sứ mệnh của mình bèn cởi áo giáp sắt để lại, rồi cưỡi ngựa bay về trời. Đó là sự việc về người anh hùng lịch sử Thánh Gióng.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 4

Ngô Quyền là người anh hùng lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Ông là người mở ra thời kì độc lập, tự do của đất nước ta sau suốt cả ngàn năm bị giặc phương Bắc đô hộ.

Năm đó, Ngô Quyền là một tướng quân tài giỏi lại đức độ dưới trướng Dương Đình Nghệ. Khi ông cai quản vùng Châu Ái đã được nhân dân ở đó hết sức yêu mến và tin tưởng. Bởi ông đã đưa ra những chính sách, đường lối phù hợp cho sự phát triển của vùng đất, lại cai trị bằng tình yêu thương và bao dung. Những phẩm chất của một nhà lãnh đạo đại tài đã được Ngô Quyền thể hiện từ lúc ấy.

Tuy nhiên, những ngày tháng bình yên như thế lại không thể kéo dài. Một tên phản bội hèn hạ là Kiều Công Tiễn đã lén ám sát Dương Đình Nghệ và cầu cứu nhà Nam Hán, khiến chúng có lý do để sang xâm chiếm nước ta lần nữa.

Trước tình thế nguy cấp, Ngô Quyền lập tức đem quân về thành Đại La, giết tên phản bội Kiều Công Tiễn để ổn định lòng dân. Sau đó, ông bình tĩnh suy tính sách lược, đem đại quân di chuyển về sông Bạch Đằng - nơi quân Nam Hán sẽ đi qua để tiến vào nước ta. Tại đây, Ngô Quyền nghĩ ra một kế sách vô cùng sáng suốt, đến tận ngàn năm sau con cháu vẫn nhắc đến với lòng khâm phục. Lợi dụng mực nước khi thủy triều lên xuống ở sông Bạch Đằng, ông đã cho quân vót nhọn, bọc sắt ở những cây cọc lớn, cắm xuống lòng sông. Sao cho khi nước lên, cọc sẽ nằm hoàn toàn dưới mặt nước. Còn khi nước xuống thì cọ nhọn sẽ nhô lên cả, như một cái bẫy khổng lồ. Sau đó, Ngô Quyền chờ khi nước lên, cho quân ra dụ địch, giả vờ thua trận và bỏ chạy để dẫn chúng chạy theo vào trận địa cọc. Đúng lúc giặc chạy vào bẫy, là khi nước thủy triều hạ xuống, những chiếc tàu lớn của quân Nam Hán bị kẹt lại, bị cọc đâm vỡ, tổn thất nặng nề. Nhiều quân lính đã hi sinh trên bãi cọc. Số còn lại thì bị quân ta dùng thuyền nhỏ len qua cọc tấn công nên tử thương càng tăng thêm. Trận chiến ấy đã nhuộm đỏ sông Bạch Đằng bằng máu của bọn xâm lược, khiến chúng sợ hãi, bỏ chạy về nước.

Sau trận chiến ấy, cả nước ta vui sướng vô cùng và nhân dân càng thêm tin tưởng Ngô Quyền. Vì vậy, ông chính thức lên ngôi vua, lãnh đạo nước ta bước vào một kỉ nguyên mới.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 5

Lý Thường Kiệt là một vị tướng tài và có công lớn trong việc bảo vệ bờ cõi nước ta vào thời Lý. Cho đến nay, những trang sử về cuộc đời ông vẫn là những trang sử vàng chói lọi được con cháu kính trọng và tự hào.

Lý Thường Kiệt là một vị danh tướng vừa dũng mãnh, lại thông minh, tài trí. Ông được vua Lý Thánh Tông hết sức tin tưởng, nên giao cho quyền nắm giữ đại quân để bảo vệ đất nước. Năm 1069, quân Chăm Pa quấy phá, cướp bóc và làm loạn ở biên giới phía Nam nước ta. Biết tin, Lý Thường Kiệt liền được vua phong làm Đại Tướng, tiến về phía Chăm Pa để bảo vệ bờ cõi. Không phụ lòng tin của nhà vua và nhân dân, Lý Thường Kiệt dũng mãnh đánh thẳng vào kinh thành Chăm Pa, bắt vua Chăm Pa đưa về Thăng Long. Quá sợ hãi, vua Chăm Pa xin dâng đất để chuộc tội, và xin hứa không bao giờ dám làm loạn nữa. Sau lần ấy, Lý Thường Kiệt được giữ chức Thái Úy, đứng đầu toàn quân đội.

Ít lâu sau, nhà Tống ở phương Bắc lại lăm le xâm chiếm nước ta. Chúng lén lút đưa quân vào từ đường thủy, nhưng điều đó không thể qua mắt được quân đội ta. Lý Thường Kiệt đem quân trấn giữ ở bờ sông Như Nguyệt và có nhiều trận đánh lớn với giặc. Sự dũng mãnh và thiện chiến của quân đội dưới tay ông khiến kẻ địch phải khiếp sợ. Đặc biệt, Lý Thường Kiệt còn sáng tác bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, sai người giả bị thần nhập, đọc lên bài thơ đó bên bờ sông, khiến quân địch nghe thấy mà khiếp vía. Khi kẻ địch hoang mang, sợ hãi, Lý Thường Kiệt chủ động đến gặp, đề nghị thương thảo với điều kiện quân Tống rút khỏi nước ta. Cuối cùng, quân Tống đành rút lui về nước khi chưa thể đánh chiếm một huyện thành nào của nước ta. Có được điều đó chính nhờ sự đa mưu túc trí của Lý Thường Kiệt.

Đến ngày nay, những trận đánh của Lý Thường Kiệt vẫn khiến người người phải kính nể. Cả cuộc đời ông đều dành cho việc bảo vệ bờ cõi nước Nam. Vì vậy, ông xứng đáng là một trong những vĩ nhân lịch sử đáng kính trọng nhất của nước ta.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 6

Một trong những nhân vật lịch sử mà em rất yêu quý và kính trọng là anh Kim Đồng. Bởi khác với các nhân vật khác, ngay từ khi còn nhỏ, anh ấy đã bộc lộ rõ nét sự thông minh, dũng cảm của mình khi hoạt động cách mạng.

Trong những năm tháng hoạt động cách mạng, anh Kim Đồng có nhiều câu chuyện để kể, nhưng em ấn tượng nhất là chuyện một lần anh ấy nhận nhiệm vụ canh gác cho cuộc họp Thanh niên cứu quốc bí mật. Lần đó, anh Kim Đồng nhận nhiệm vụ cùng với một đồng chí khác là Thanh Thủy. Anh đã chủ động phân công Thanh Thủy ra bờ sông đào giun cạnh thác nước để giật mõ báo hiệu khi cần. Còn mình thì chạy đi xin một con cá, cho vào giỏ, rồi mới cắm hờ cần câu vào cạnh gốc vối. Xong xuôi, anh trèo lên cành cây nằm vắt vẻo, giả vờ như đang câu cá, nhưng thực ra là đang hết sức tập trung chú ý động tĩnh ngoài bìa rừng.

Khi không khí đang hết sức bình yên, thì từ đằng ngoài khu rừng có tiếng lá khô xào xạc vang lên mạnh mẽ. Đàn chim làm tổ ở phía đó cũng bay vụt cả lên. Thấy vậy, anh Kim Đồng biết ngay là có người tới. Khi nghe thấy âm thanh ngày càng gần, anh giả vờ reo to lên “A, cá cắn câu rồi! To quá đi!”. Âm thanh đó, đã thu hút bọn lính chạy lại chỗ của anh. Đối mặt với những tên lính cao to, anh không hề sợ hãi, mà vẫn tiếp tục giả vờ để giữ chân chúng lại. Một tên lính hỏi anh Kim Đồng: “Đâu, cá đâu? Mày câu được nhiều cá chưa?”. “Dạ chưa, cháu mới câu được mỗi con này”. Nói rồi, anh Kim Đồng đưa cho bọn lính xem con cá nhỏ nằm im trong giỏ, vốn được xin từ lúc nãy. Điều đó đã khiến bọn lính tin là thật và không hề nghi ngờ chút nào. Thấy có con cá nhỏ, chúng tặc lưỡi bỏ qua, rồi lại tiếp tục lên đường tìm kiếm. Còn anh Kim Đồng thì lại trèo lên cành cây, giả vờ tiếp tục nằm câu cá. Nãy giờ, nhờ có anh Kim Đồng thông minh, nhanh trí sắp xếp mọi việc, mà Thanh Thủy có đủ thời gian giật mõ báo tin cho cuộc họp ở trong rừng. Vậy nên, bọn lính khi đi đến thì chẳng còn ai ở đó nữa rồi.

Chỉ qua một mẩu chuyện ấy, cũng đủ để lột tả sự thông minh, nhanh trí và dũng cảm của anh Kim Đồng. Anh ấy chính là một tấm gương sáng ngời cho các bạn thiếu niên noi theo.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 7

Chị Võ Thị Sáu là một nhân vật lịch sử nổi tiếng, và có lẽ không có người dân Việt Nam nào là không biết về chị.

Trong những năm tháng nước ta thực hiện kháng chiến chống thực dân Pháp, chị Sáu lúc ấy còn rất trẻ nhưng đã tham gia hoạt động rất dũng cảm. Chị Sáu tham gia đội Công an xung phong của quận Đất Đỏ và trở thành một chiến sĩ trinh sát, thực hiện nhiều nhiệm vụ nguy hiểm. Chị nhiều lần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nên được tổ chức tin tưởng và ủng hộ. Đặc biệt, chị chính là người cầm lựu đạn tấn công cuộc mít-tinh do địch tổ chức tại chợ Đất Đỏ. Khiến cho nhân dân hết lời khen lợi. Tuy nhiên, ít lâu sau, trong một lần thực hiện nhiệm vụ, chị không may bị địch bắt được. Chúng đã tra khảo và mở phiên tòa để buộc tội chị. Đứng trước bè lũ kẻ địch hung hãn, chị Sáu không hề hoảng sợ, mà vẫn dõng dạc khẳng định “Yêu nước chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội”. Sau đó, chúng đưa chị qua nhiều trại giam, rồi quyết định xử bắn chị để răn đe những người hoạt động Cách mạng khác. Khi lên pháp trường, chị Võ Thị Sáu vẫn không hề run sợ, chị bước đi hiên ngang và còn tự cài lên mái tóc của mình một đóa hoa. Thậm chí, khi đối mặt với họng súng của kẻ địch, chị đã yêu cầu không cần bịt mắt, để chị có thể nhìn thẳng vào kẻ thù.

Tuy chị Võ Thị Sáu đã hi sinh anh dũng. Nhưng chị và sự dũng cảm, kiên định đã trở thành một biểu tượng về người con gái anh hùng sống mãi trong trái tim người dân Việt Nam.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 8

Mạc Đĩnh Chi là một nhân vật lịch sử nổi tiếng của nước ta nhờ trí thông minh hơn người. Ông là một trong ba người được vinh dự có danh xưng “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên”.

Mạc Đĩnh Chi sinh ra vào thời Trần trong một gia đình nghèo khó. Từ nhỏ, ông đã hiểu được rằng, chỉ có con đường học hành mới có thể giúp mình thoát khỏi cuộc sống nghèo khó. Vì vậy, Mạc Đĩnh Chi vô cùng chăm chỉ học hành, rèn luyện, bất chấp hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn. Ngoài việc học, Đĩnh Chi còn giúp mẹ làm việc, lên rừng đốn củi. Hoàn cảnh khó khăn ấy không hề hạ gục quyết tâm của ông. Mà trái lại, càng thêm tôi luyện ý chí, khiến ông càng thêm kiên trì học tập.

Cuối cùng, trời không phụ lòng người, trong kì thi năm 1304, Mạc Đĩnh Chi đã được chấm điểm cao nhất toàn trường thi. Tuy nhiên, khi thấy ông có ngoại hình xấu xí, vua Trần Nhân Tông đã có ý định không cho ông đỗ đầu. Biết chuyện, Mạc Đĩnh Chi viết ngay bài thơ “Ngọc tỉnh liên phú” bằng chữ Hán dâng lên vua. Cảm nhận được khí khái hơn người của Mạc Đĩnh Chi qua bài thơ, vua Trần Nhân Tông liền ra lệnh phong ông làm Trạng Nguyên.

Sau khi lên làm quan, Mạc Đĩnh Chi được nhà vua tin tưởng, thường xuyên triệu kiến ông vào cùng bàn việc nước. Đặc biệt, vào triều vua Trần Minh Tông, ông còn đại diện nước ta làm Chánh sứ sang nhà Nguyên để đáp lễ. Trong chuyến đi ấy, Mạc Đĩnh Chi đã khiến cho vua tôi nhà Nguyên phải kính phục nhờ khả năng ngoại giao xuất sắc và trí tuệ vĩ đại của mình.

Trong suốt những năm tháng làm quan, Mạc Đĩnh Chi luôn được nhân dân yêu mến vì sống chan hòa và liêm khiết. Ông ấy chính là một biểu tượng về tinh thần vượt khó mà cho đến sau này, người đời vẫn luôn kính ngưỡng và yêu mến.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 9

Đinh Bộ Linh là một vị vua tài giỏi nổi tiếng của nước ta ở thời kì phong kiến. Ông còn được biết đến với danh xưng “Ông vua cờ lau”.

Đinh Bộ Linh sinh ra khi nước ta đang trong tình trạng chia cắt thành mười hai cát cứ. Từ khi còn nhỏ, ông đã thể hiện được tài năng lãnh đạo và mưu lược của mình, nên được đám trẻ trong làng tôn sùng. Mỗi khi chơi trò đánh trận, Đinh Bộ Lĩnh luôn đành được chiến thắng và được đám trẻ làm kiệu rước đi.

Khi trưởng thành, Đinh Bộ Lĩnh tham gia đạo binh thuộc sứ quân của Trần Lâm. Với sự dũng cảm và mưu lược tài tình của mình, ông nhanh chóng được thăng chức làm Bộ Lĩnh. Sau khi Trần Lâm qua đời, Đinh Bộ Lĩnh thống lĩnh sứ quân dời về Hoa Lư. Rồi bắt đầu chiêu mộ hào kiệt, rèn luyện lực lượng để chuẩn bị cho mục tiêu lớn.

Khi thời cơ đã chín muồi, lực lượng đã lớn mạnh, Đinh Bộ Lĩnh lãnh đạo sứ quân của mình bắt đầu chinh chiến. Chỉ trong vòng một năm, ông đã dẹp loạn mười hai sứ quân, thống nhất đất nước. Nhân dân cả nước vô cùng kính phục ông, nên tôn ông làm Vạn Thắng Vương. Hai năm sau, Đinh Bộ Lĩnh chính thức lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước ta là Đại Cồ Việt. Lên ngôi vua, Đinh Bộ Lĩnh đưa ra nhiều chính sách mới giúp đất nước phát triển mạnh mẽ, cuộc sống nhân dân càng thêm ấm no. Vì vậy, ông được muôn dân kính yêu, ca ngợi hết lời.

Tuy nhiên, Đinh Bộ Lĩnh tại vị được mười hai năm thì qua đời khi còn nhiều dự định còn dang dở. Cả cuộc đời của ông đã cống hiến cho sự thống nhất và phát triển của đất nước. Vì vậy, Đinh Bộ Lĩnh xứng đáng là một trong những trang vàng chói lọi nhất của lịch sử nước nhà.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 10

Trong những thời kỳ đau thương của chiến tranh, nhiều con người dũng cảm của Việt Nam đã hy sinh để bảo vệ và chiến đấu cho sự độc lập của đất nước. Một huyền thoại của vùng Đất Đỏ là Võ Thị Sáu, một nữ anh hùng vĩ đại.

Võ Thị Sáu sinh năm 1933 và ra đi vào năm 1952. Nguyên quán của cô chỉ ghi rõ là huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Từ nhỏ, cô đã chứng tỏ tinh thần yêu nước và tham gia vào cuộc cách mạng cùng với anh trai. Cô gia nhập đội công an xung phong và đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ liên lạc và tiếp tế. Trong thời gian này, Võ Thị Sáu tham gia vào nhiều trận chiến để bảo vệ quê hương. Cô không chỉ tham gia vào những trận đánh quyết liệt, mà còn phát hiện và ngăn chặn những kế hoạch của kẻ thù, giúp đội công an thoát khỏi nguy hiểm và thậm chí tấn công địch.

Một ngày nọ, cô nhận nhiệm vụ quan trọng mang lựu đạn để thực hiện một phục kích nhằm tiêu diệt tên cai Tòng, một kẻ Việt gian bán nước đang hoạt động trong xã của mình. Mặc dù lựu đạn đã nổ, nhưng tên Tòng chỉ bị thương và không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công này đã gây ám ảnh cho bọn lính địch và khiến họ không dám truy lùng Việt Minh như trước đây. Vào một lần thực hiện nhiệm vụ khác, Võ Thị Sáu bị bắt. Cô đã trải qua nhiều phiên thẩm vấn và bị giam giữ tại các nhà tù khác nhau, bao gồm Đất Đỏ, Bà Rịa và Chí Hòa. Trong một phiên tòa đầy tranh đấu, dù cô vẫn chưa tròn mười tám tuổi, luật sư biện hộ đã cố gắng cứu chị thoát khỏi án tử hình. Tuy nhiên, tòa án vẫn tuyên án tử hình cho Võ Thị Sáu. Cô và một số tù nhân cách mạng khác đã bị chuyển đến nhà tù Côn Đảo, nơi thực dân Pháp đã tiến hành hành quyết cô một cách lén lút.

Vào năm 1993, Nhà nước đã truy tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho Võ Thị Sáu. Cô trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm và kiên trì, ghi dấu trong lịch sử vĩ đại của đất nước.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 11

Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346), tự gọi là Tiết Phu, xuất thân từ thôn Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, là một nhân vật lịch sử đầy sáng tài và đáng kính trọng.

Tài năng vượt trội của Mạc Đĩnh Chi đã nhanh chóng được nhận biết. Với khả năng viết văn xuất sắc và sự thông minh, ông được vua Trần Ích Tắc của Chiêu Quốc nhận làm môn đồ, đồng thời được học tập và được chu cấp. Vào tháng 3 năm Giáp Thìn (1304), vua Trần Anh Tông đã tổ chức kỳ thi Thái học sinh để tìm kiếm tài năng. Trong kỳ thi này, chỉ có bốn mươi bốn thí sinh đỗ, và Mạc Đĩnh Chi là một trong số họ. Ông đạt danh hiệu Trạng nguyên và được bổ nhiệm làm Nội thư gia. Tuy nhiên, ông bị kỳ thị về ngoại hình vì thân hình thấp bé, nhưng Mạc Đĩnh Chi không để bản thân mình bị đánh bại. Ông đã viết bài phú "Ngọc tỉnh liên phú" để tự mình tôn vinh. Vua Trần Anh Tông đọc và không tiết lời khen ngợi ông.

Mạc Đĩnh Chi sau đó được giao nhiệm vụ đi sứ sang Trung Quốc. Tại đây, nhà Nguyên đã cố tình coi thường ông dựa vào ngoại hình. Tuy nhiên, Mạc Đĩnh Chi đã dùng sự thông minh của mình để xử lý tình huống. Trong một buổi gặp quan Tể tướng, ông nhận lầm một bức tranh thêu treo trên tường là con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc. Mạc Đĩnh Chi đã giả vờ nhận lầm và nhảy tới chụp bắt con chim ấy, khiến toàn bộ quan đại thần nhà Nguyên cười đùa và cho rằng ông là người quê mùa. Tuy nhiên, ông đã tự tay kéo bức tranh xuống và xé nát nó. Khi mọi người tò mò hỏi lý do, ông giải thích: "Tôi biết rằng các vị cổ nhân chỉ vẽ tranh về mai - tước, chưa bao giờ vẽ tranh về trúc - tước. Vì trúc là biểu tượng của mẫu người quân tử, trong khi chim sẻ là biểu tượng của bọn tiểu nhân. Bức tranh thêu này lại miêu tả con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc, tức là đang đặt tiểu nhân lên trên quân tử. Tôi lo sợ rằng làm như vậy sẽ làm đạo đức của tiểu nhân mạnh mẽ hơn, trong khi đạo đức của quân tử sẽ bị suy yếu. Vì thế, tôi xin phép thánh triều cho phép tôi phá bức tranh này." Lúc này, tất cả đều phải khâm phục tài năng và tư duy của ông.

Một sự kiện khác cho thấy sự tài năng của Mạc Đĩnh Chi là khi ông viết bài thơ minh khi tham gia vào một cuộc chầu đầu năm của triều đình Nguyên. Hoàng đế của triều đình Nguyên đọc bài thơ và đã khen ngợi ông rất cao. Từ đó, danh tiếng của Mạc Đĩnh Chi càng lớn lên, và ông được coi là "Lưỡng quốc trạng nguyên."

Có thể khẳng định rằng Mạc Đĩnh Chi là một tài năng vượt trội và đã có những đóng góp lớn cho đất nước trong lịch sử.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 12

“Người dân Việt Nam đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh” - đó là câu nói khắc ghi vào tâm khảm của người dân nước ta. Cùng những câu chuyện hào hùng về hành trình cứu nước của Bác, nhân dân ta còn truyền nhau những câu chuyện nhỏ đời thường của vị lãnh tụ vĩ đại này.

Có một câu chuyện kể về chuyến đi công tác của Bác. Trên đường di chuyển đến nơi tổ chức cuộc họp, xe của Bác phải dừng lại chờ đèn đỏ khá lâu. Anh chiến sĩ đi cùng trên xe định bước xuống để bảo anh công an giao thông ưu tiên cho xe Bác đi qua, thì bị Bác cản lại. Bác ôn tồn giải thích rằng, mình cũng là một công dân của nước Việt Nam, nên cũng cần tuân thủ luật pháp đã được đặt ra. Nếu ai cũng dùng quyền ưu tiên thì còn gì là luật lệ nữa chứ. Hơn nữa, anh công an giao thông kia đang làm rất tốt nhiệm vụ của mình, không có gì để trách phạt anh ấy cả. Nói rồi, Bác bình tĩnh ngồi trong xe chờ hết đèn đỏ, thì ra hiệu lái xe tiếp tục di chuyển. Hành động nhỏ bé ấy của Chủ tịch nước vĩ đại đã giúp anh chiến sĩ có một bài học đáng quý,

Chỉ qua một mẩu chuyện nhỏ như vậy, em đã hiểu thêm về phẩm chất tốt đẹp và cao quý của Bác Hồ. Thật may mắn cho dân tộc Việt Nam ta khi có một vị lãnh tụ tuyệt vời như Bác.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 13

Trong hành trình lịch sử của đất nước Việt Nam, chúng ta đã chứng kiến sự nảy sinh của nhiều anh hùng tài năng. Trong số họ, Trần Quốc Toản nổi lên như một biểu tượng đáng ngưỡng mộ và kính phục.

Trần Quốc Toản, hiệu là Hoài Văn hầu, thuộc dòng dõi Trần danh tiếng. Mặc dù không rõ năm sinh và năm mất, nhưng tên tuổi ông đã đi vào lịch sử với những thành tựu đáng tự hào.

Vào năm 1282, vua Trần Nhân Tông đã tổ chức Hội nghị quan trọng tại bến Bình Than, quy tụ các vương hầu và tướng lĩnh để thảo luận về chiến lược đối phó với quân giặc Mông - Nguyên. Do tuổi trẻ, Trần Quốc Toản không được tham dự sự kiện quan trọng này. Tuy nhiên, lòng tự trọng và tinh thần yêu nước không bao giờ rời xa ông. Ông đã biểu tượng hóa tinh thần quyết tâm bằng việc nắm một quả cam và bóp nát nó trong tay.

Không chấp nhận thất bại, Trần Quốc Toản đã huy động hơn nghìn gia nô và những người thân thiết để thu thập vũ khí và xây dựng chiến thuyền. Trên cờ, ông viết sáu chữ vàng: "phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, đền ơn vua). Những lời kêu gọi và lá cờ của ông đã lan tỏa khắp nơi, truyền đi thông điệp về lòng dũng cảm và lòng yêu nước.

Năm 1285, quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta, và lá cờ với sáu chữ vàng của Hoài Văn hầu trở nên phổ biến trên các mặt trận chiến đấu. Trần Quốc Toản đã trực tiếp lãnh đạo quân đội và góp phần quan trọng trong việc đánh bại quân địch tại các trận Hàm Tử, Tây Kết và Chương Dương. Cuối cùng, quân giặc đã phải rút lui khỏi Thăng Long và quay về Kinh Bắc (Bắc Ninh) để tìm đường thoát khỏi nước ta. Mất đi một tài năng quân lãnh, Trần Quốc Toản đã trở thành nguồn động viên lớn lao cho tinh thần chiến đấu của quân đội và nhân dân Việt Nam.

Sau khi hy sinh, vua Trần đã tỏ lòng thương tiếc bằng việc cử hành tang lễ và viết văn tế riêng cho Trần Quốc Toản, trao tặng danh hiệu Hoài Văn Vương.

Trần Quốc Toản không chỉ xuất sắc về tài năng mà còn mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp như dũng cảm, kiên cường và nghị lực. Ông đã trở thành một biểu tượng sáng ngời về ý chí và tình yêu đối với quê hương, để lại di sản cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 14

Khi viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử, bạn nên lưu ý những vấn đề sau để làm cho bài văn thêm hấp dẫn và chính xác:

- Trước khi bắt đầu viết, hãy tìm hiểu thật kỹ về nhân vật lịch sử mà bạn muốn kể về. Điều này bao gồm việc hiểu rõ về ngày tháng, sự kiện, nơi chốn và tình huống mà nhân vật đã tham gia hoặc trải qua.

- Bài văn cần có một cấu trúc rõ ràng với phần mở đầu, thân bài và kết luận. Trong phần thân bài, bạn nên bố trí sự việc theo thứ tự thời gian hoặc logic, để người đọc có thể theo dõi dễ dàng.

- Hãy sử dụng từ ngữ mà mô tả sự việc và nhân vật một cách sâu sắc và hấp dẫn. Tránh sử dụng ngôn ngữ mập mờ hoặc mơ hồ, hãy biểu đạt rõ ràng và sinh động.

- Sử dụng miêu tả chi tiết để làm cho sự việc và nhân vật trở nên sống động. Hãy mô tả về ngoại hình, tính cách, hành động và cảm xúc của nhân vật trong các tình huống cụ thể.

- Trình bày sự kiện một cách logic, từ bắt đầu đến kết thúc. Điều này giúp người đọc hiểu rõ hơn về cách sự việc diễn ra và tác động của nó đến nhân vật và cuộc sống xã hội.

- Trong phần kết bài, hãy nhấn mạnh ý nghĩa và tầm quan trọng của sự việc và nhân vật lịch sử đó đối với lịch sử, văn hóa hoặc xã hội.

- Sau khi hoàn thành bài văn, hãy kiểm tra lỗi ngữ pháp, chính tả và câu chữ để đảm bảo rằng bài viết của bạn rõ ràng và chính xác.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử - mẫu 15

Bác Hồ là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người không chỉ tìm ra con đường cứu nước cũng như lãnh đạo nhân dân đấu tranh để giành lại độc lập cho đất nước.

Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam mới.

Sự ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mốc thời gian đầu tiên phải kể đến là vào ngày 4 tháng 5 năm 1945, Bác Hồ rời Pác Bó về Tân Trào. Giữa tháng năm, Người đã yêu cầu trung úy Giôn, báo vụ của OSS (Cơ quan phục vụ chiến lược Mỹ) điện về Côn Minh, đề nghị thả dù cho Người cuốn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kì.

Đến ngày 22 tháng 8 năm 1945, Bác rời Tân Trào về Hà Nội. Tối 25 tháng 8 năm 1945, Người vào nội thành, ở tầng 2 tại căn nhà số 48 Hàng Ngang. Sáng 26 tháng 8 năm 1945, Bác đã cho triệu tập một cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng, để bàn về các vấn đề như chủ trương đối nội, đối ngoại trong tình hình mới; công bố danh sách các thành viên Chính phủ lâm thời; chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập, tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ lâm thời ra mắt toàn thể nhân dân.

Vào ngày 27 tháng 8 năm 1945, Người tiếp các bộ trưởng mới tham gia Chính phủ đưa ra đề nghị Chính phủ ra mắt quốc dân, đọc Tuyên ngôn Độc lập mà Người đã chuẩn bị. Bác đưa ra bản thảo và đề nghị các thành viên phải xét duyệt kĩ vì không chỉ đọc cho đồng bào cả nước nghe mà còn độc cho Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp, các nước đồng minh nghe.

Trong hai ngày 28 và 29 tháng 8 năm 1945, Bác đến làm việc tại 12 Ngô Quyền (trụ sở chính của Chính phủ lâm thời) và dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Buổi tối tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Bác đã tự đánh máy bản Tuyên ngôn Độc lập trên một cái bàn tròn.

Vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bác cho mời các đồng chí đến để trao đổi, đóng góp ý kiến cho bản Tuyên ngôn độc lập. Bác đọc cho mọi người nghe, hỏi ý kiến của từng người. Đến ngày 31 tháng 8, Bác đã bổ sung một số ý vào bản Tuyên ngôn. Bản Tuyên ngôn Độc lập chính thức được hoàn thiện.

Đúng 14 giờ ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới. Quá trình viết Tuyên ngôn Độc lập đã cho thấy sự chuẩn bị kĩ lưỡng cũng như trí tuệ và tầm nhìn của một vị lãnh tụ - Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, KHÓA HỌC DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 7

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và khóa học dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài soạn văn lớp 7 hay nhất dựa trên đề bài và hình ảnh của sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 Tập 1, Tập 2 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống (NXB Giáo dục). Bản quyền soạn văn lớp 7 thuộc VietJack, nghiêm cấm mọi hành vi sao chép mà chưa được xin phép.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 7 Kết nối tri thức khác
Tài liệu giáo viên