10+ Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình (hay nhất)

Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

10+ Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình (hay nhất)

Quảng cáo

Đề bài: Nghe và nhận biết tính thuyết phục của ý kiến người nói về vấn đề sau: Từ đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, làm sáng tỏ ý kiến: Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình - mẫu 1

Xin chào cô giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Hoa, học sinh lớp 9A, trường THCS An Thượng, hôm nay em xin trình bày ý kiến của mình về đề văn: Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho thấy Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

Có lẽ, thiên nhiên chính là người bạn tri âm, tri kỷ của bất kỳ vị thi sĩ nào. Chính vì vậy mà thiên nhiên cũng có tác động vô cùng to lớn đối với tâm trạng của mỗi nhân vật trữ tình. Thiên nhiên trở nên có hồn có sắc hơn khi được các nhà văn, nhà thơ sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để diễn tả. Có thể nói, Nguyễn Du chính là một bậc thầy đại tài trong việc sử dụng bút pháp này và điều đó được thể hiện vô cùng rõ ràng trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".

Quảng cáo

Nguyễn Du (1765 - 1820) là một đại thi hào dân tộc, một cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam với những sáng tác thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Những sáng tác của ông thường lên án, tố cáo xã hội đen tối đã chà đạp con người. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc" của "Truyện Kiều". Sau khi Kiều bị Mã Giám Sinh lừa gạt, nàng đã lưu lạc đến chốn hồng trần. Quá đau khổ trước số phận trớ trêu, nàng định tự vẫn nhưng bị Tú Bà ngăn cản. Tú Bà sợ mất đi một món "hời" lớn nên giả vờ chăm sóc, lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều và cho Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất chỉ là giam lỏng nàng.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình thường được các nhà văn, nhà thơ sử dụng rộng rãi và triệt để trong sự nghiệp văn chương của mình. Ta bắt gặp một Bà huyện Thanh Quan tả cảnh "Qua đèo Ngang" chỉ toàn tả cảnh nhưng ẩn sâu trong bức trăng yên ắng ấy lại là một tâm trạng buồn, cô đơn đến khó tả. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là việc tác giả miêu tả thiên nhiên, cảnh vật để gửi gắm, làm nổi bật tâm trạng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm. Nghệ thuật tả cảnh ngụ vừa giúp cho cảnh vật trở nên sinh động, có màu sắc hơn lại vừa giúp nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc dễ dàng nhưng vẫn giữ được nét hay của nó.

Đọc 6 câu thơ đầu tiên của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích ta đã thấy được một khung cảnh thiên nhiên thấm đượm nỗi buồn:

Quảng cáo

"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."

Nhà thơ dùng từ "khóa xuân" ý nói việc cấm cung của người con gái nhà quyền quý thời xưa để muốn thông báo rằng Kiều đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Nỗi buồn phảng phất từ cảnh vật rồi từ từ ăn sâu vào trong tâm trí của nhân vật trữ tình. Không gian mênh mông, rộng lớn "Bốn bề bát ngát xa trông" khiến cho Kiều cảm thấy cô đơn, trống trải ở nơi "đất khách quê người" nàng lại chẳng hề quen biết ai. Nàng trông ra xa thì chỉ thấy mờ mờ ngọn núi "non xa", cồn "cát vàng" thì bụi bay mờ mịt còn ở gần thì chỉ có duy nhất "tấm trăng" để bầu bạn, để bộc bạch tâm sự đã cho ta thấy rằng Kiều đang ở một nơi rất đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông đất trời. Thời gian vô tình cứ trôi vì nó là một vòng tuần hoàn, khép kín "mây sớm đèn khuya" như giam hãm tâm hồn nàng không thể thoát ra khỏi vòng tròn của những nỗi buồn cứ thế nối tiếp nhau khiến Kiều chán ngán đến "bẽ bàng". Những nỗi niềm xót thương cứ thế được nhân lên khiến cho tấm lòng Kiều như bị xẻ ngang , xẻ dọc "Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng" nên dù cảnh có đẹp đến đâu thì Kiều cũng vẫn buồn mà thôi.

Quảng cáo

Khép lại bức tranh thiên nhiên ở 6 câu thơ đầu của đoạn trích, ta hãy cùng hòa mình vào thiên thiên, cảnh vật ở 8 câu thơ tiếp theo của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích":

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm."

Với các nhà hủ nho xưa thì việc Thúy Kiều nhớ người yêu Kim Trọng trước, nhớ về bố mẹ sau thì thật là bất hiếu nhưng chúng ta nên nhìn nhận sự việc một cách khách quan để đánh giá nhân vật. Ở đây, vì Thúy Kiều phải cứu cha và em nên đã chấp nhận bán mình để một phần đền đáp công ơn cha mẹ nên việc Kiều nhớ về Kim Trọng trước cũng có thể coi là hợp lý. Khung cảnh thiên nhiên dưới lầu Ngưng Bích chỉ có tấm "trăng gần" làm bạn khiến cho Kiều nhớ về Kim Trọng, nhớ về vầng trăng thề nguyện khi hai người cùng uống rượu hứa hẹn một lòng sắt son trọn đời. Nàng cứ ngỡ mọi chuyện như là mới hôm qua, nàng đau đớn khi Kim Trọng vẫn chưa biết tin nàng đã chấp nhận bán mình mà vẫn chờ đợi nàng chốn Liêu Dương xa xôi. Nàng một lòng sắt son nhưng tấm lòng sắt son ấy lại khiến nàng tủi hổ, vò xé tâm can trước nỗi nhớ Kim Trọng vì không biết "gột rửa bao giờ cho phai" vết hoen ố đó. Sau khi nhớ về Kim Trọng, nàng lại buồn da diết nhớ về gia đình, nhớ về những ngày còn được đoàn tụ sống hạnh phúc bên nhau. Nàng vẫn tự trách mình "Xót người tựa cửa hôm mai" vì chưa làm tròn đạo con, nàng không biết ai sẽ phụng dưỡng bố mẹ khi "gốc tử" ngày càng to ra cũng đồng nghĩa với việc cha mẹ nàng càng giá yếu đi mỗi ngày.

Có thể nói, 8 câu thơ cuối của đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" thể hiện rõ nhất bút pháp tả cảnh ngụ tình trong toàn bộ đoạn trích:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."

Mỗi một cảnh thiên nhiên lại khơi gợi Kiều ở những nỗi buồn khác nhau. Thời gian buổi chiều vốn đã gợi nỗi buồn nay nỗi buồn ấy lại trông ra "cửa bể" rộng lớn khiến cho nỗi buồn lan ra, tỏa vào vạn vật xung quanh. "Buồn trông cửa bể chiều hôm" gợi không gian bao la, mênh mông khiến Kiều nhớ về quê nhà mà không biết bao giờ mới được trở về. Giữa mênh mông sông nước lại thấp thoáng một cánh buồm nhỏ bé tượng trưng cho Kiều đang bơ vơ, lạc lõng giữa chốn xa lạ. Mỗi lúc nỗi buồn của Kiều càng trở nên nặng nề hơn, Kiều "trông ngọn nước mới sa" với cánh hoa trôi trên mặt nước gợi cho Kiều nỗi buồn về thân phận mình, nàng thấy mình giống như những cánh hoa vô định cứ trôi, cứ trôi dù bị sóng nước vùi dập nên chẳng biết về đâu. Thiên nhiên nơi đây như nhuốm màu tâm trạng của nhân vật, nàng trông thấy "nội cỏ rầu rầu" gợi màu héo úa của cảnh vật cũng chính là ẩn dụ về tương lai mờ mịt, mất phương hướng của Thúy Kiều. Thiên nhiên dữ dội "sóng cuốn mặt duềnh" bủa vây xung quanh nàng là tiếng sóng kêu "ầm ầm" khiến cho Kiều có những sự cảm chẳng mấy tốt lành vê tương lai, phải chăng tai họa sắp ập xuống với nàng. Điệp ngữ "buồn trông" được kết hợp cũng những hình ảnh thiên nhiên theo sau đã diễn tả thành công nỗi buồn ngày càng tăng tiến, nâng lên theo cấp độ đã trở thành điệp khúc của tâm trạng nàng Kiều.

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, éo le, buồn tủi đáng thương và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Ngòi bút Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc, sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật tâm trạng nhân vật.

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" của Nguyễn Du là thực cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Tác giả đã thực sự thành công và để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bởi bút pháp tả cảnh ngụ tình đầy đặc sắc và thú vị.

10+ Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình (hay nhất)

Dàn ý Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình

a) Mở bài:

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc, bậc thầy trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.

- Giới thiệu đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – nằm ở phần đầu Truyện Kiều, nói về cảnh cô đơn, tủi nhục của Thúy Kiều khi bị giam lỏng.

- Dẫn dắt vào vấn đề: Đoạn thơ là minh chứng rõ nét cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du.

b) Thân bài:

- Hoàn cảnh của Thúy Kiều

+ Bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh.

+ Bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, bơ vơ, không ai nương tựa.

→ Đây là cơ sở làm nảy sinh tâm trạng buồn tủi của Kiều.

- Cảnh ở lầu Ngưng Bích – không gian hoang vắng, cô độc

+ Trước – sau – dưới – trên đều là không gian rộng lớn nhưng vắng vẻ, xa lạ:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung…”

+ Cảnh rộng nhưng Kiều càng thấy nhỏ bé, lạc lõng.

→ Cảnh diễn tả nỗi cô độc của Kiều giữa nơi đất khách.

- Nhớ về Kim Trọng – nỗi đau tình yêu tan vỡ

+ Hồi tưởng kỉ niệm đẹp của mối tình đầu.

+ Dằn vặt vì lỗi hẹn, xót xa cho người yêu nơi quê nhà.

→ Cảnh trong tâm tưởng phản chiếu nỗi thương nhớ, thủy chung của Kiều.

- Nhớ về cha mẹ – nỗi hiếu thảo dâng trào

+ Hình ảnh cha mẹ tảo tần “tựa cửa hôm mai” → Kiều đau đớn, day dứt.

+ Nỗi khổ vì không thể phụng dưỡng, báo hiếu.

→ Cảnh gia đình gợi lên nỗi buồn vô hạn.

- Tám câu tả cảnh cuối – dự báo bi kịch, nỗi sợ hãi tột cùng

+ Những hình ảnh mang sắc thái u ám, dữ dội:

“Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
… Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

+ Cảnh thiên nhiên như đang đe dọa, vây hãm Kiều.

→ Cảnh diễn tả tâm trạng lo âu, hoảng sợ trước tương lai mù mịt.

c) Kết bài:

- Khẳng định lại nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc của Nguyễn Du.

- Đoạn trích thể hiện nỗi cô đơn, nhớ thương và dự cảm bất hạnh của Thúy Kiều.

- Góp phần dựng lên hình tượng nhân vật có chiều sâu nội tâm, lay động lòng người.

Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình - mẫu 2

Xin chào cô giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Hoa, học sinh lớp 9A, trường THCS An Thượng, hôm nay em xin trình bày ý kiến của mình về đề văn: Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho thấy Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Nguyễn Du không chỉ xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật mà còn là người có biệt tài miêu tả thiên nhiên, ngụ tâm tình, tình cảm của con người. Mỗi bức tranh dưới đôi bàn tay Nguyễn Du luôn luôn thực hiện hai chức năng chính: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm trạng. Tám câu thơ cuối trong bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã cho thấy rõ biệt tài này của ông.

Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều sống trong đau đớn, ê chề, với bản tính là con người trọng nhân phẩm, Kiều đã tìm đến cái chết để giải thoát nhưng không thành công. Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ đến ngày thực hiện âm mưu mới. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong đau đớn, tủi hổ, cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực.

Trong nỗi cô đơn, dường như ai cũng một lòng hướng về gia đình. Người con gái trong ca dao, dù lấy chồng, nhưng trong những khoảnh khắc ngày tàn vẫn tha thiết nhớ về quê mẹ:

Chiều về ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Huống chi là nàng Kiều, thân phận nổi trôi, bán mình cứu gia đình, thì nỗi nhớ gia đình lại càng da diết hơn bao giờ hết:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Không gian mênh mông của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thấp thoáng phía xa gợi lên không gian rợn ngợp, hoang vắng. Cánh buồm dường như trở nên nhỏ bé hơn trong không gian rộng lớn ấy. Thân phận nàng cũng chẳng khác gì cánh buồm kia, lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời bất định. Đồng thời ông cũng rất khéo léo lựa chọn thời gian cho nỗi nhớ, ấy là "chiều hôm". Trong văn học không gian buổi chiều thường gợi ra nỗi buồn man mác, ở đây trong hoàn cảnh của Kiều nỗi buồn ấy gắn với khát khao được sum họp, đoàn tụ, được trở về bên quê hương, gia đình.

Sau nỗi buồn tha hương, xa xứ, nàng nghĩ về thân phận mình mà lại càng đau lòng hơn: Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu? Hình ảnh ẩn dụ "hoa trôi" là biểu trưng cho thân phận của nàng Kiều. Ngọn nước mới sa kia có sức mạnh ghê gớm, là những giông bão, sóng gió trong cuộc đời đã vùi dập cuộc đời nàng. Những cánh hoa trôi man mác cũng như thân phận bé bỏng, mong manh của nàng. Cuộc đời nàng lênh đênh theo dòng đời, không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu. Câu hỏi tu từ "biết là về đâu" như một lời than, một lời ai oán cho số phận bất hạnh. Qua đó càng nhấn mạnh hơn nữa thân phận chìm nổi, bèo bọt của nàng.

Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh đã xuất hiện nhiều lần, mỗi lần xuất hiện đều mang ý nghĩa khác nhau. Nếu như trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, sắc xanh tượng trưng cho sự sống, tươi tốt mơn mởn, thì trong đoạn trích này màu xanh lại mang một ý nghĩa khác: Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Nội cỏ chỉ mang một màu tàn lụi héo úa. Sắc xanh cũng nối chân trời mặt đất với nhau nhưng lại nhạt nhòa, đơn sắc. Tất cả những màu sắc đó hòa điệu với nhau càng khiến cho tâm trạng Kiều trở nên ngao ngán, chán nản hơn. Kiều nhìn ra bốn phía để tìm được sự đồng điệu, tìm sự sẻ chia. Vậy mà, khung cảnh chỉ càng làm nàng thêm u sầu, ảo não. Quả thực "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Dưới con mắt tuyệt vọng của nàng, khung cảnh nào cũng chỉ thấm đầy nỗi buồn chán, bế tắc và vô vọng. Điều đó càng đẩy Kiều rơi vào sâu hơn hố sâu của sự sầu muộn, tuyệt vọng.

Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều đã được tác giả tập trung bút lực thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Cảnh cuối thiên nhiên hiện ra thật dữ dội, đó không chỉ còn là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh, Kiều tưởng mình không còn ngồi ở lầu Ngưng Bích mà đang ngồi giữa biển khơi mênh mông, xung quanh là sóng biển gào thét như muốn nhấn chìm nàng xuống biển. Đặc biệt từ láy "ầm ầm" vừa diễn tả một khung cảnh khủng khiếp vừa diễn tả tâm trạng buồn lo, hoảng loạn của Thúy Kiều. Nàng đang dự cảm những giông bão của số phận, rồi đây sẽ nổi lên và nhấn chìm cuộc đời mình.

Đoạn thơ đã vận dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải gánh chịu. Không chỉ vậy Nguyễn Du còn có sự miêu tả theo trình tự hợp lý: từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn da diết của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, lớp từ láy giàu giá trị tạo hình và biểu cảm. Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.

Tám câu thơ cuối, là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bằng những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.

Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình - mẫu 3

Xin chào cô giáo và các bạn, em tên là Nguyễn Thị Hoa, học sinh lớp 9A, trường THCS An Thượng, hôm nay em xin trình bày ý kiến của mình về đề văn: Từ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho thấy Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một minh chứng tiêu biểu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du. Qua ngòi bút tài hoa, cảnh vật thiên nhiên không chỉ được miêu tả một cách sinh động, mà còn trở thành bức tranh tâm trạng đầy tinh tế, thể hiện nội tâm phức tạp của nhân vật Thúy Kiều.

Bức tranh thiên nhiên hiện ra rộng lớn, hoang sơ, u buồn:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.”

Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:

"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."

Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Đó hẳn là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót xa. Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm cõi lòng như càng thêm quặn thắt. Thiên nhiên không còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như sống động, có hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều.

Tả cảnh là để ngụ tình. Bức tranh thiên nhiên thể hiện tâm trạng buồn bã, cô đơn, lẻ loi của Thúy Kiều:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Bằng lối điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn không hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa muôn dặm, tới cửa biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thoáng” mờ mịt, xa xôi. Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình ảnh con người cô đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào.

Cùng với nỗi nồi ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị sóng gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn quá trẻ, quá yếu đuối.

Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Màu không gian hay màu tâm trạng đang hắt hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến “kêu quanh ghế ngồi”.

Tiếng sóng gió ngoài biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về thân phận, cuộc đời mình không còn là nỗi lo lắng mơ hồ, nỗi buồn quạnh vắng mênh mang nữa mà nó đã biến thành nỗi kinh hoàng khiến tâm hồn nàng hoảng loạn. Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, và dập vùi nàng xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao, giúp “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trở thành một trong những đoạn trích hay nhất trong Truyện Kiều, đồng thời góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tả cảnh và miêu tả tâm lý: Cảnh vật không chỉ được miêu tả một cách khách quan, mà còn được thể hiện qua lăng kính tâm hồn của nhân vật. Sử dụng ngôn ngữ trau chuốt, giàu sức gợi: Ngôn ngữ góp phần thể hiện nội tâm phức tạp của Kiều, đồng thời tạo nên âm hưởng bi tráng cho tác phẩm.

Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình - mẫu 4

Nguyễn Du – đại thi hào của dân tộc, đã để lại cho văn học Việt Nam một di sản bất hủ: Truyện Kiều. Không chỉ mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, Truyện Kiều còn là đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình – mượn cảnh để gửi gắm tâm trạng nhân vật. Trong số những đoạn thơ thể hiện rõ nét nghệ thuật ấy, không thể không nhắc đến Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là bức tranh tâm trạng đầy đau thương của Thúy Kiều – người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh, bị cuốn vào vòng xoáy của xã hội phong kiến bất công. Qua cảnh ngụ tình tinh tế, Nguyễn Du đã phơi bày nỗi cô đơn, nhớ thương và dự cảm sóng gió trong lòng Kiều, khiến người đọc thổn thức không nguôi.

Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều được Tú Bà tạm đưa ra lầu Ngưng Bích giam lỏng nhằm chờ thời cơ “ép duyên”. Lầu Ngưng Bích hiện lên bằng hai chữ “khóa xuân”: tuổi xuân bị giam hãm, tự do bị tước đoạt, hạnh phúc bị vùi lấp. Từ một thiếu nữ sống giữa tình yêu và sự chở che của gia đình, Kiều nay bơ vơ giữa nơi xa lạ. Cảnh trước mắt nàng rộng lớn đến mênh mông:

“Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”

Không gian trải ra vô tận, chẳng một bóng người, càng khiến Kiều thấy mình lạc lõng, nhỏ bé. Biển cát, bụi hồng phủ kín chân trời – đó là không gian khắc nghiệt của thiên nhiên cũng chính là sự mịt mờ trong tương lai nàng. Rồi cảnh:

“Non xa, tấm trăng gần”

Trăng vốn là biểu tượng của tri kỉ, sẻ chia và vẻ đẹp thi vị, nhưng ở đây, ánh trăng lại càng làm nổi bật sự đơn độc. “Tấm trăng” treo lơ lửng như tách biệt khỏi Kiều – người không còn ai để nương tựa. Thiên nhiên hiện ra đẹp mà buồn, rộng mà vắng, gợi nỗi cô đơn sâu đến quặn lòng.

Trong cô đơn, Kiều nhớ về những gì thân yêu nhất. Trước hết là mối tình đầu dang dở với Kim Trọng. Những kỉ niệm gắn bó khi xưa giờ trở thành nỗi đau:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Nàng xót xa khi nghĩ đến người thương vẫn đợi chờ trong tuyệt vọng mà không hay biết mình đã rơi vào cảnh ngộ tủi nhục. Kiều tự trách bản thân vì đã “bán mình chuộc cha”, không giữ trọn lời thề nguyền:

“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Một câu thơ mà như cả trái tim rỉ máu. Tình cảm ấy thủy chung, son sắt, vượt lên mọi định kiến nghiệt ngã của xã hội phong kiến.

Nỗi nhớ gia đình càng làm trái tim Kiều rạn vỡ. Hình ảnh cha mẹ già yếu ngày ngày mong con trở về khiến nàng thắt lòng:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?”

Những hành động hiếu thảo thường ngày nay chỉ còn trong ký ức. Từ xa nơi đất khách, Kiều càng thấm thía nỗi đau của người con bất hiếu – điều mà bất kỳ ai trong xã hội xưa cũng coi là nỗi đau không gì lớn hơn. Qua nỗi nhớ gia đình, Nguyễn Du đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc đối với đạo lý làm người.

Tám câu thơ cuối là đỉnh cao nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Thiên nhiên biến đổi theo diễn biến tâm trạng Kiều, từ xót xa chuyển sang lo âu sợ hãi. Cảnh vật trở nên dữ dội, u ám:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Tiếng sóng không chỉ là âm thanh của biển, mà chính là tiếng gọi của số phận đang gào thét. “Gió cuốn”, “ầm ầm”, “kêu” – dường như mọi thứ đang đe dọa, bủa vây người con gái tội nghiệp. Cảnh vật biết nói, biết dự báo những phong ba sắp ập đến cuộc đời Kiều: bị ép tiếp khách ở lầu xanh, những chuỗi ngày đau khổ chưa có điểm dừng.

Trong chuỗi hình ảnh ấy, điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại bốn lần, vừa nhấn mạnh nỗi buồn vô hạn, vừa cho thấy những góc nhìn khác nhau của Kiều hướng ra: Trông gió: lo lắng về tương lai; Trông hoa: cảm nhận sự chia lìa; Trông cát bụi: nỗi đời mịt mờ; Trông sóng biển: sợ hãi trước hiểm ngụy

Tất cả làm thành bức chân dung nội tâm bi thương của Thúy Kiều – người phụ nữ tài sắc mà cuộc đời lại chìm trong bão tố.

Bằng ngòi bút nhân đạo và thấu cảm vô bờ, Nguyễn Du không chỉ kể chuyện bi kịch của Kiều mà còn lên án xã hội bất công đã đày đọa con người. Ông đặt Kiều vào cảnh ngộ cùng đường để người đọc nhận ra sự trân quý của tự do, phẩm giá và tình thân.

Qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, ta thấy rõ tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: Cảnh là nền tảng để tâm tình bật lên; Tâm tình làm cảnh trở nên sâu sắc hơn; Thiên nhiên và con người hòa quyện khó tách rời.

Không ai trong văn học trung đại Việt Nam dùng bút pháp này tinh tế và ám ảnh như Nguyễn Du.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những trang thơ buồn nhất nhưng cũng đẹp nhất của Truyện Kiều. Cảnh ở đây không chỉ là bối cảnh thiên nhiên mà chính là tiếng kêu thầm của tâm hồn Kiều. Nguyễn Du đã biến thiên nhiên thành chiếc gương phản chiếu nội tâm, gửi gắm nỗi đau và dự cảm sóng gió. Nhờ đó, hình tượng Thúy Kiều càng trở nên giàu sức lay động, khẳng định tầm vóc thiên tài của Nguyễn Du trong việc tả cảnh để ngụ tình, đưa Truyện Kiều vượt qua mọi giới hạn thời gian và không gian để sống mãi trong lòng người đọc.

Làm sáng tỏ ý kiến Nguyễn Du tả cảnh để ngụ tình - mẫu 5

Trong kho tàng văn học Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du là đỉnh cao nghệ thuật, là bản đại ca khúc viết bằng chữ Nôm đầy tinh hoa và xúc cảm. Đọc Truyện Kiều, ta không chỉ say mê bởi câu chuyện éo le của cuộc đời Thúy Kiều mà còn rung động bởi nghệ thuật miêu tả độc đáo của thi hào Nguyễn Du. Một trong những nét nổi bật của ông chính là bút pháp tả cảnh ngụ tình – mượn cảnh để bộc lộ tình. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một minh chứng tiêu biểu. Nỗi cô đơn, tủi hổ, xót xa của Thúy Kiều giữa những ngày bị giam cầm đã được Nguyễn Du gửi gắm trọn vẹn qua cảnh sắc thiên nhiên rộng lớn mà lạnh lẽo. Qua đó, ta càng hiểu sâu sắc tài năng và tấm lòng của Nguyễn Du đối với con người.

Sau những biến cố dồn dập, khi đánh mất tình yêu với Kim Trọng, chịu nỗi đau bán mình cứu cha, Kiều lại rơi vào tay kẻ buôn người và bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích hoang vắng. Hoàn cảnh ấy như chặn mọi lối thoát của nàng: “Khai phong vây hãm” – sự kìm kẹp về cả thân xác lẫn tinh thần. Giữa nơi cao vời và rộng thênh ấy, Kiều hiện lên thật nhỏ bé, đơn độc. Nguyễn Du đã mở đầu cảnh ngụ tình bằng những nét phác hoạ đầy tính tạo hình:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”

Chỉ hai câu thơ nhưng mở ra một không gian rộng lớn mà lạnh lẽo: non thì xa vời vợi, trăng dù ở gần nhưng lại chỉ khiến sự cô đơn của con người thêm rõ rệt. Từ “khóa xuân” gợi ra bi kịch: một tuổi xuân bị đoạt mất, bị giam cầm không lối thoát. Kiều không chỉ bị nhốt trong lầu mà còn bị khóa lại những khát vọng đẹp nhất của đời người con gái.

Không gian mênh mông, hoang vắng tiếp tục mở rộng:

“Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Không có sự sống của con người, chẳng có bóng dáng một mái nhà, chỉ có cát vàng – gió bụi làm bạn. Những sắc màu của cảnh sắc cũng đặc quánh nỗi bất an: vàng khô khốc, đỏ bụi mờ – tất cả như sẵn sàng cuốn con người trôi đi vô định. Thiên nhiên không còn là nơi nương tựa, mà trở thành nỗi đe dọa, nuốt chửng mong manh của phận người.

Không chịu nổi nỗi cô quạnh, Kiều hướng lòng mình nhớ về quá khứ: nhớ về Kim Trọng – mối tình đầu dang dở; nhớ về cha mẹ già không ai chăm sóc. Nỗi nhớ được diễn tả bằng điệp từ “buồn trông” – lặp lại bốn lần như từng đợt sóng cuộn trào trong lòng:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Thuyền và biển – biểu tượng của tự do, của ngày trở về – lại hiện ra mờ nhòe, xa thẳm. Kiều nhìn mà bất lực: con thuyền ấy có thể đang về nơi hạnh phúc, còn nàng thì bị bỏ lại phía sau, cách biệt với thế giới.

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Hoa – hình ảnh của Kiều: đẹp nhưng yếu mềm, bị sóng nước cuộc đời xô đẩy. Câu hỏi tu từ bộc lộ nỗi hoang mang về chính số phận: cuộc đời nàng sẽ trôi dạt về đâu? Ai sẽ cứu nàng đây?

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Cảnh vật mang màu xanh nhưng là xanh úa, rầu rầu – màu của tuyệt vọng. Không gian tuy rộng vô cùng nhưng lại không chứa nổi một hy vọng nhỏ nhoi. Kiều nhìn đâu cũng chỉ thấy mịt mờ tương lai.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Nếu ba bức tranh trên là nỗi buồn của nhớ thương thì cảnh cuối là nỗi buồn sợ hãi. Sóng đã dâng lên, gió cuốn ào ạt như báo hiệu phong ba đang chực ập vào đời nàng. Từ láy “ầm ầm” tăng cường cảm giác bị bủa vây, bất an, lo lắng đến nghẹt thở.

Điệp từ “buồn trông” không chỉ là nhãn tự của cả đoạn mà còn khắc sâu nhịp điệu tâm trạng: nỗi buồn như sóng dâng từ thấp đến cao, từ mơ hồ đến dữ dội; từ nhớ người thân đến sợ chính bản thân bị vùi dập. Cảnh vật là tâm trạng – đó chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du.

Đi sâu vào từng nét cảnh, ta nhận ra mỗi cảnh giống như một tấm gương soi rõ hơn một lớp tâm trạng của Kiều: cảnh mỗi lúc một xa xăm hơn, buồn hơn, dữ dội hơn – cũng chính là dự báo cuộc đời Kiều sẽ tiếp tục chìm trong giông tố. Tài năng của Nguyễn Du không chỉ ở ngôn từ, hình ảnh mà còn ở trái tim thấu suốt nỗi đau con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị chà đạp tàn nhẫn. Ông cảm thông và yêu thương Kiều bằng cái nhìn nhân đạo sâu sắc, đưa tiếng nói của phận người lên thành tiếng khóc thời đại.

Đọc xong đoạn trích, ta không chỉ thấu hiểu số phận Kiều mà còn nhận ra giá trị vượt thời gian của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Những bức tranh thiên nhiên đầy cảm giác “ngột ngạt trong rộng lớn” mà Nguyễn Du tạo nên đã chạm đến trái tim nhiều thế hệ, khiến mỗi người thấy được phần nào nỗi cô đơn từng trải trong cuộc đời.

Có thể nói, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một minh chứng tiêu biểu cho bút pháp tài hoa của Nguyễn Du. Cảnh thiên nhiên được dựng lên không phải để làm đẹp cho câu chuyện, mà để cất lên tiếng lòng của con người bị dồn đến bước đường cùng. Nhờ vậy, Kiều không chỉ là nhân vật trong văn học, mà là một con người sống động, khiến ta thương – không chỉ thương số phận nàng, mà thương cho cả kiếp người trôi nổi.

Từ đoạn trích này, ta càng hiểu sâu sắc hơn ý kiến: “Nguyễn Du tả cảnh là để ngụ tình.” Đó là nét bút của một thiên tài – người “thấy một giọt lệ rơi đủ làm nghiêng cả non sông”.

Xem thêm các bài Soạn văn 9 Cánh diều hay nhất, ngắn gọn khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 9 hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Soạn văn 9 của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Ngữ văn 9 Tập 1 và Tập 2 Cánh diều (NXB Đại học Sư phạm).

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 Cánh diều khác