Top 20 Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện lớp 9 (điểm cao)

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện) lớp 9 hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện lớp 9 (điểm cao)

Quảng cáo

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 1

Đa số những câu chuyện truyền thuyết của dân gian Việt Nam đều mang một ý nghĩa nhân văn về giá trị lịch sử hoặc những bài học tôn vinh tinh thần dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Trong kho tàng của văn học dân gian chất chứa trong đó không biết bao những tác phẩm đã hoàn toàn chinh phục trái tim độc giả. Nổi bật trong đó phải kể đến Sơn Tinh Thủy Tinh, chính từ phần nhan đề của câu chuyện đã được coi là một đặc sắc, vì thế không kể đến giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật - một linh hồn tạo nên thành công của tác phẩm. Hơn thế nữa, bởi Sơn Tinh Thủy Tinh mang tính chất là thể loại truyền thuyết thế nên những đặc sắc về hình thức nghệ thuật được coi là một trong số yếu tố cốt lõi của tác phẩm.

Sơn Tinh Thủy Tinh kể về một vị Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, xinh đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua Hùng đã tổ chức một buổi kén rể với mong muốn tìm cho con gái một người chồng xứng đáng. Ngày nọ có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên – chúa miền non cao tên Sơn Tinh. Một người trị vì biển Đông – chúa miền nước thẳm. Hai người đều có tài năng, và đang thống trị nơi mà họ đang sống. Vì thế vua ra điều kiện, một trong hai ai mang sính lễ đến trước, vua sẽ gả con gái cho. Sơn Tinh đến trước và rước được Mị Nương về, Thủy Tinh đến sau đùng đùng nổi giận, giao tranh với Sơn Tinh. Sơn Tinh thắng, Thủy Tinh đành rút quân. Nhưng cũng vì lí do đó mà hàng năm Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh.

Quảng cáo

Qua câu chuyện trên ta thấy, Sơn Tinh Thủy Tinh không chỉ giải thích cho hiện tượng lũ báo hàng năm của nhân dân ta, đó còn nói lên khát khao chiến thắng được thiên tai bão lũ của người dân đất Việt thời bấy giờ. Không những thế sự ra đời của tác phẩm còn thay cho những niềm tự hào, niềm kiêu hãnh trước thành tựu trị thủy của nhân dân. Bởi vậy có thể nói Sơn Tinh Thủy Tinh như một tượng đài bất hủ trong thể loại truyền thuyết nói chung và văn học dân gian nói riêng.

L.Ton-xtoi độc giả nổi tiếng nói: “Chỉ có tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt cho mọi người những tình cảm mới mà họ chưa từng thể nghiệm thì mới là tác phẩm nghệ thuật đích thực”. Đúng vậy! Sơn Tinh Thủy Tinh đã ghi dấu giá trị qua từng nội dung từng nghệ thuật hấp dẫn. Nội dung thì nhân văn mà thực tế, nghệ thuật thì sẽ không thể bàn cãi được vì tính phong phú quá đỗi khác biệt. Tác giả dân gian đã không hạn chế sử dụng nghệ thuật, có lẽ Sơn Tinh Thủy Tinh là truyền thuyết lí tưởng để những tác giả ấy gửi gắm một loạt những nghệ thuật đặc sắc vào trong truyền thuyết này.

Quảng cáo

Đầu tiên chúng ta phải kể đến nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc, đặc sắc ở đây bởi cốt truyện có nhiều yếu tố kì ảo và li kì, không những thế đó còn nổi bật với tính cấp thiết và sự tò mò về kết quả của cuộc kén rể Vua Hùng đặt ra. Một tác phẩm, một câu chuyện mà không có sự tồn tại và xuất hiện của nhân vật thì có lẽ sẽ không để lại ấn tượng với người đọc, Sơn Tinh Thủy Tinh đã đi cùng chiều với sự thực đó, truyền thuyết là sự tồn tại của các nhân vật chính như Vua Hùng, Mị Nương, Sơn Tinh, Thủy Tinh - đó được coi như bốn điểm nhìn để độc giả hướng đến và cảm nhận. Ngoài ra đó còn là nghệ thuật xây dựng nhân vật mang dáng dấp thần linh với nhiều chi tiết tưởng tượng, kì ảo hai vị thần với nhiều phép lạ, những món sính lễ quý hiếm không thể gặp được ở cuộc sống bình thường.

Cách kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn, được ví như nhịp cầu kết nối người đọc với truyền thuyết này, đó là những từ ngữ chứa đầy tính tò mò bí ẩn, từ ngữ chứa hàm ý khiến người đọc phải tư duy và chiêm nghiệm để hoàn toàn thấu hiểu được nội dung. Không những thế Sơn Tinh Thủy Tinh còn là truyền thuyết mang đậm chất dân gian khi liên tục giải mã và lí giải những hiện tượng của đời sống. Bởi vậy những nghệ thuật trên đã góp phần tạo nên tính hấp dẫn và thu hút các thế hệ bạn đọc. Đặc biệt nghệ thuật trong Sơn Tinh Thủy Tinh sẽ là cơ sở để tạo nên sự phong phú trong cách sử dụng nghệ thuật đối với nhiều tác phẩm khác. Bởi nghệ thuật của truyền thuyết này thể như sự tiên phong về điểm nhìn mới mẻ trong thể loại truyền thuyết văn học dân gian.

Quảng cáo

Một tác câu chuyện hay là một câu chuyện nổi bật bởi những ấn tượng. Cho đến hiện tại ta có thể công nhận rằng Sơn Tinh Thủy Tinh là một câu chuyện hay. Bởi chất chứa trong tác phẩm là sự xuất hiện và tồn tại ấn tượng của nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt điểm nhìn được chú ý nhất ở đây là đặc sắc về hình thức nghệ thuật. Bởi những nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật độc đáo, dàn dựng tình huống truyện đặc sắc,… những sự kết hợp đó đã tạo nên những thành công nhất định nhất cho tác phẩm.

Dàn ý Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện

a. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm truyện (nhan đề, tác giả, thể loại) và nêu ý kiến khái quát về tác phẩm.

b. Thân bài:

+ Phân tích nội dung chủ đề của tác phẩm truyện (phân tích hiện thực đời sống; hình tượng con người; tư tưởng, tình cảm của nhà văn;...), có lí lẽ và bằng chứng.

+ Phân tích những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm (cốt truyện, ngôi kể, tình huống, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, không gian, thời gian,...) và hiệu quả thẩm mĩ của nó, có lí lẽ và bằng chứng.

c. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa, giá trị của tác phẩm truyện.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 2

Thạch Lam là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Văn chương của ông trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu lắng. Một trong những tác phẩm thú vị của ông là truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa.

Truyện được mở đầu bằng những câu văn miêu tả khung cảnh buổi sáng mùa đông. Sau một đêm mưa rào, trời nổi gió bấc, thời tiết chuyển lạnh. Sơn - nhân vật chính của truyện xuất hiện. Cậu thức dậy, thấy mọi người trong nhà, mẹ và chị Lan đều “đã mặc áo rét cả rồi”. Khung cảnh mùa đông được miêu tả tinh tế qua những hình ảnh đặc trưng:“gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những cái lá khô lạo xạo”; “bầu trời không u ám, toàn một màu trắng đục”; những cây lan trong chậu “lá rung động và hình như sắt lại vì rét”.

Tiếp đến, Thạch lam khắc họa cảnh sinh hoạt của gia đình Sơn. Mẹ Sơn đang ngồi quạt hỏa lò để pha nước chè uống, bảo Lan bê thúng quần áo ra. Lan vâng lời mẹ, vào buồng bê thúng quần áo ra. Còn Sơn thì kéo chăn lên đắp cho em, rồi lại ngồi xếp bằng bên khay nước. Không khí ấm cúng trong nhà trái ngược hẳn với cái lạnh lẽo ngoài trời. Cuộc trò chuyện được bắt đầu khi mẹ Sơn nhìn thấy cái áo bông của Duyên - đứa em gái đã mất của Sơn. Giọng của mẹ Sơn đầy xúc động, rơm rớm nước mắt: “Đây là áo của cô Duyên đây”. Còn người vú già đã “với lấy cái áo lật đi lật lại ngắm nghía, tay mân mê các đường chỉ”. Sơn nghe mẹ nói cũng thấy“nhớ em, cảm động và thương em quá”. Hình ảnh cái áo bông nhỏ bé nhưng chính là kỉ vật gợi lên tình cảm mẫu tử thiêng liêng, tình anh em sâu đậm và tình thương của vú già nhân hậu.

Khi Lan bê thùng quần áo vào. Mẹ Sơn đã mặc cho Sơn được mặc cái áo dạ chỉ đỏ lẫn áo vệ sinh, ngoài lại mặc phủ cái áo vải thâm. Chi tiết này cho thấy gia đình của Sơn có hoàn cảnh khá giả, cuộc sống khá đầy đủ. Dù vậy, hai chị em Sơn và Lan đều có tốt bụng, giàu tình yêu thương. Hai nhân vật này được nhà văn xây dựng để gửi gắm bài học ý nghĩa về tình yêu thương trong cuộc sống. Dù có hoàn cảnh gia đình khác nhau, Sơn và Lan vẫn thích chơi với những đứa trẻ con xóm chợ nghèo như Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc,... mà không tỏ ra kiêu kì và khinh khỉnh như các em họ của Sơn.

Ở đây, Thạch Lam cũng đã khắc họa được cuộc sống nghèo khổ của một bộ phận người dân lao động lúc bây giờ. Những đứa trẻ xóm chợ sống trong hoàn cảnh nghèo khổ, thiếu thốn. Mùa đông tới, chúng vẫn mặc những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Môi chúng “tím lại”, chỗ áo quần rách “da thịt thâm đi”. Gió lạnh thổi đến, chúng nó lại “run lên, hai hàm răng đập vào nhau”. Dù vậy, chúng không bất hạnh mà vẫn nhận được tình yêu thương của cha mẹ, những người xung quanh. Khi nhìn thấy Sơn và Lan, lũ trẻ con xóm chợ đều lộ vẻ “vui mừng”. Hai chị em Sơn tỏ ra thân thiết với chúng chứ không khinh khỉnh như các em họ của Sơn. Đặc biệt, điều này còn được thể hiện qua nhân vật Hiên.

Chị Lan là người đã phát hiện ra Hiên. Cô bé đang đứng “co ro” bên cột quán, trong gió lạnh chỉ mặc có manh áo “rách tả tơi”, “hở cả lưng và tay”. Thấy vậy, Sơn đã “động lòng thương” và chợt nhớ ra mẹ cái Hiên rất nghèo, nhớ đến em Duyên ngày trước vẫn cùng chơi với Hiên ở vườn nhà. Hai chị em còn bàn với nhau cho cái Hiên chiếc áo bông cũ. Sau đó, Lan đã “hăm hở” chạy về nhà lấy áo. Sơn yên lặng đợi chờ, trong lòng tự nhiên thấy “ấm áp vui vui”. Cái áo mà chị em Sơn đem cho cái Hiên chứa đựng biết bao tình yêu thường.

Ở phần cuối truyện, khi Sơn và Lan trở về nhà, người vú già nói rằng mẹ đã phát hiện. Hai chị em lo sợ bị mẹ mắng nên đã chạy sang nhà Hiên đòi áo. Điều này là phản ứng dễ hiểu của mỗi đứa trẻ khi phạm lỗi. Đến khi về nhà, điều ngạc nhiên là mẹ Hiên đã đem cái áo bông đến trả. Bất ngờ hơn khi hiểu rõ sự việc, mẹ Sơn đã không trách mắng chị em Sơn mà còn cho mẹ Hiên vay tiền để may áo cho con. Khi mẹ con Hiên ra về, mẹ Sơn đã “vẫy hai con lại gần, rồi âu yếm”. Các chi tiết trên cho thấy mẹ Hiên là một người có lòng tự trọng, dù nghèo khó nhưng vẫn “đói cho sạch, rách cho thơm”; còn mẹ Sơn là một người nhân hậu, giàu tình yêu thương.

Như vậy, truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa” của Thạch Lam là một câu chuyện nhẹ nhàng, nhưng lại đầy tính nhân văn, sâu sắc.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 3

Nguyễn Dữ là một trong những tác giả nổi tiếng về truyện truyền kỳ. Trong những tác phẩm của ông, có lẽ “Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện đặc sắc nhất. Tác phẩm viết về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của họ. Đồng thời, qua đó ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc của tác giả với hoàn cảnh của họ.

Vũ Nương là người con gái “tính tình thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chồng nàng là Trương Sinh, một người đa nghi và hay ghen. Mặc dù vậy, với tính cách dung hòa của mình, “nàng luôn giữ gìn khuôn phép”, cuộc sống gia đình của hai người luôn ổn định, không hề xảy ra bất hòa. Khi Trương Sinh phải sung binh, nàng lại là người vợ chung thủy, một lòng một dạ với chồng, chỉ mong chàng lên đường bình an trở về, không mong đeo được ấn phong hầu. Tình yêu và ước mơ của nàng thật giản dị và ý nghĩa. Chồng đi xa, nàng sinh con và chăm sóc mẹ chồng một cách chu đáo. Khi mẹ ốm, “nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần”, câu nói “Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.” của mẹ chồng nàng đã cho ta thấy Vũ Nương là một người vợ chu đáo, một người con hiếu thảo biết chừng nào. Khi mẹ chồng mất, nàng đau xót, lo liệu ma chay như với cha mẹ đẻ của mình.

Tuy nhiên, người phụ nữ đức hạnh ấy lại phải chịu đựng một nỗi oan và dẫn đến cái chết thương tâm của nàng. Trong thời gian chồng đi tòng quân, nàng thường hay đùa với con bằng cách trỏ vào bóng mình trên tường và nói đó là cha Đản. Khi bị Trương Sinh nghi ngờ, nàng vẫn cố gắng hỏi rõ sự tình và thanh minh với chàng: “Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói.” Tuy nhiên, khi Trương Sinh một mực không tin, nàng đã gieo mình xuống bến Hoàng Giang mà chết. Chi tiết này đã nói lên nét đẹp con người Vũ Nương, nàng sẵn sàng lấy cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Hành động mà Vũ Nương nhờ Phan Lang về nói với Trương Sinh yêu cầu của nàng cũng một lần nữa nói nên tấm lòng chung thủy, một lòng son sắt của nàng. Khi hiểu ra sự tình, Trương Sinh đã vô cùng ân hận, đàn giải oan đã khiến cho Vũ Nương được trả lại sự trong sạch, yên lòng, nàng đã được đức Linh Phi cho hiện về, dẫu không thể trở lại cõi trần được nữa.

Tác phẩm của Nguyễn Dữ, một tác phẩm truyền kỳ có sử dụng những yếu tố hoang đường kỳ ảo. Nhưng từ đó lại thấy được cái nhìn, sự trân trọng và cảm thông của tác giả đối với số phận người phụ nữ xưa, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của họ.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 4

Nguyễn Thành Long là một trong số những nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam nói chung và văn xuôi hiện đại nói riêng. Bằng lối viết nhẹ nhàng, giàu tình cảm cùng ngôn ngữ trong sáng, giàu chất thơ và những hình tượng nhân vật độc đáo, những sáng tác của Nguyễn Thành Long về cuộc đấu tranh chống Mĩ cứu nước của dân tộc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa", sáng tác năm 1970 là một trong số những sáng tác tiêu biểu của ông.

Trước hết, truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên Sa Pa đẹp, thơ mộng và tràn đầy sức sống. Bằng ngòi bút giàu chất thơ, tác giả Nguyễn Thành Long đã tái hiện lại khung cảnh Sa Pa thật tuyệt "Nắng bất ngờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe,..." Bằng thủ pháp liệt kê kết hợp với biện pháp nhân hóa, tác giả Nguyễn Thành Long như đã làm hiện lên trước mắt người đọc những nét đặc trưng, độc đáo rất riêng của mảnh đất Sa Pa. Tất cả cảnh vật như mang cái hồn điệu, dáng vẻ của Sa Pa và không gian rộng lớn ấy như bừng sáng, lung linh, rực rỡ.

Và để rồi, trên cái nền của thiên nhiên Sa Pa thơ mộng ấy, nhà văn đã khắc họa thành công chân dung các nhân vật với những vẻ đẹp đáng trân trọng. Trước hết đó chính là nhân vật anh thanh niên - nhân vật chính của truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa". Nhân vật anh thanh niên hiện lên với nhiều phẩm chất tốt đẹp. Đầu tiên, ở anh thanh niên, ta thấy hiện lên một con người yêu nghề, luôn đam mê và hết mình vì công việc. Có lẽ vì yêu nghề nên anh thanh niên chấp nhận làm việc trong một điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt và đầy sự khắc nghiệt của thiên nhiên, khí hậu. Anh sống và làm việc "trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo". Ở cái độ cao ấy, lại sống một mình nên với anh, công việc cũng chính là bạn của mình, "khi ta làm việc, ta với công việc là đôi" và có lẽ bởi vậy nên anh luôn tìm thấy niềm vui, tìm thấy ý nghĩa trong chính công việc ấy - "báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Với tình yêu và niềm đam mê với công việc, anh luôn hoàn thành công việc của mình một cách xuất sắc. Dẫu trong hoàn cảnh nào, anh vẫn báo kết quả công việc về nhà đúng giờ, mỗi đêm bốn lần.

Thêm vào đó, anh thanh niên còn là một người luôn tràn đầy tình yêu cuộc sống và sống lạc quan trong mọi hoàn cảnh. Sống một mình trên đỉnh núi cao, chắc hẳn nhiều người nghĩ anh sẽ sống cô đơn lắm, buồn lắm nhưng với anh lại hoàn toàn khác bởi lẽ anh luôn biết cách tự tạo ra niềm vui cho bản thân mình bằng những công việc rất giản dị, đời thường như trồng đủ các loài hoa với muôn vàn màu sắc quanh ngôi nhà của mình, nuôi gà, nuôi ong,... Cùng với đó, anh còn chăm chỉ đọc sách để tìm niềm vui cho bản thân và làm tăng thêm vốn sống, vốn hiểu biết của mình. Đồng thời, anh còn là người biết sắp xếp căn phòng, cuộc sống của mình một cách ngăn nắp, gọn gàng - "một căn nhà ba gian sạch sẽ khiến ông họa sĩ phải trầm trồ và bất ngờ".

Không dừng lại ở đó, anh thanh niên còn là một người chân thành, cởi mở và giàu lòng hiếu khách. Trong anh thanh niên luôn hiện hữu một "nỗi thèm người", muốn được trò chuyện cùng mọi người và vì vậy nên anh đã lấy khúc gỗ để chắn ngang đường để dừng những chuyến xe đi qua nơi đây. Khi gặp được người, anh vui mừng không xiết đến nỗi không thể làm chủ được cảm xúc của mình "anh chạy vụt đi, cũng tất tả như khi đến" hay "người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nói". Thêm vào đó, anh rất cởi mở, hiếu khách và quan tâm đến tất cả mọi người, cho dù đó là những người mới chỉ lần đầu gặp gỡ. Khi có khách đến nhà, anh hồ hởi pha trà, rồi lúc họ ra về anh còn tặng họ hoa, trứng và hoa quả để ăn dọc đường. Anh còn tặng cho bác lái củ tam thất cho vợ bác vì anh tình cờ biết được việc vợ bác bị bệnh.

Cuối cùng, anh thanh niên là một con người khiêm tốn. Mọi người, ai cũng biết, công việc của anh góp phần phục vụ cho sản xuất và lao động, tạo nên những bước chuyển mình cho đất nước mình. Nhưng anh lại cho rằng đó là công việc rất nhỏ bé, đơn sơ và giản dị. Chính vì vậy mà khi ông họa sĩ muốn được vẽ anh thì anh từ chối, e ngại và muốn được giới thiệu người khác mà với anh họ xứng đáng hơn mình.

Như vậy, có thể thấy anh thanh niên hiện lên với nhiều vẻ đẹp cao quý, anh là hiện thân cho thế hệ trẻ trong công cuộc đổi mới đất nước. Cùng với anh thanh niên, trong tác phẩm còn có sự xuất hiện của các nhân vật khác như ông họa sĩ, cô kĩ sư, bác lái xe,... Mỗi người hiện lên với những vẻ đẹp khác nhau trong tâm hồn, trong lối sống và góp phần làm bật nổi chủ đề của tác phẩm.

Đầu tiên không thể không nói đến đó chính là nhân vật ông họa sĩ. Mặc dù không phải là nhân vật chính của tác phẩm nhưng ông họa sĩ lại là nhân vật giữ vai trò đặc biệt quan trọng bởi ông mang điểm nhìn trần thuật của tác giả. Suốt cả câu chuyện, dường như, tác giả đã đặt mình vào vị trí của ông để quan sát và cảm nhận. Đồng thời, ở ông họa sĩ cũng hiện lên nhiều vẻ đẹp. Ông là một người họa sĩ chân chính, nghiêm túc, say mê và không ngần ngại khó khăn để đi tìm cái đẹp "Hơn bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc đời... Đối với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc và gian nan". Thêm vào đó, khi gặp anh thanh niên, chứng kiến công việc và cuộc sống của anh, ông họa sĩ xúc động và bối rối còn trước vẻ đáng yêu của anh, ông lại thấy "nhọc quá" vì những điều người ta nghĩ về anh. Những cảm xúc, suy tư của ông họa sĩ về nhân vật anh thanh niên đã góp phần cho chân dung nhân vật anh thanh niên hiện lên sáng rõ.

Cùng với ông họa sĩ, nhân vật cô kĩ sư cũng là nhân vật để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc. Cô chính là hiện thân, là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ. Cuộc gặp gỡ bất ngờ cũng những câu chuyện, những lời tâm sự của anh thanh niên đã khiến cô cảm thấy "bàng hoàng", giúp cô hiểu hơn về anh, về những con người như anh và có lẽ đó chính là động lực, là niềm tin để cô có thể tự tin vững bước trên con đường cô đã lựa chọn.

Cuối cùng, đó chính là nhân vật bác lái xe. Nhân vật bác lái xe xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm và cũng là người tạo ra cuộc gặp gỡ bất ngờ, thú vị giữa anh thanh niên, ông họa sĩ và cô kĩ sư. Bác là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc, bác đã làm nghề lái xe ba mươi năm và có vốn hiểu biết phong phú về Sa Pa. Bác còn là một người niềm nở và cởi mở và có tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Sa Pa. Đồng thời, bác còn là cầu nối giữa anh thanh niên với miền xuôi, với cuộc đời - bác mua sách cho anh thanh niên, giới thiệu với anh những người bạn mới,...

Tóm lại, với cách xây dựng tình huống truyện tự nhiên, hợp lí, lời văn mượt mà, giàu chất thơ, truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" đã khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động âm thầm, lặng lẽ trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 5

Truyện thơ Nôm được coi là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhân dân ta. Nhắc đến truyện thơ Nôm - một thể loại gắn bó sâu sắc với những người dân lao đồng bình dị - thì thật thiếu xót khi không kể đến tác phẩm Lục Vân Tiên của thi nhân Nguyễn Đình Chiểu. Đặc biệt, đoạn trích Lục Vân Tiên đánh cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga, người đọc vô cùng ấn tượng, cảm phúc trước đức tính, tài năng của Lục Vân Tiên qua ngòi bút tài hoa của nhà thơ:

Vân Tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy nhắm làng xô vô.

Kêu rằng: “Bớ đàng hung đồ,

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.

Nay đà rõ đặng nguồn cơn,

Nào ai tính thiệt hơn so làm gì.

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

Lục Vân Tiên là tác phẩm truyện thơ Nôm được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ 19. Đây được coi là áng thơ đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển của thể loại truyện thơ Nôm. Tác phẩm viết về cuộc đời nhiều bất trắc của người anh hùng Lục Vân Tiên, từ đó làm nổi bật những tấm gương tốt, khuyên con người nên học hỏi những phẩm chất, đức tính của những người như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga. Đoạn trích Lục Vân Tiên đánh cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga thuộc phần đầu của tác phẩm, từ câu 123 đến câu 180, kể lại sự việc Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi bọn cướp và thể hiện sự dũng cảm, không màng dang lợi của chàng.

Mở đầu đoạn trích, nhà thơ đã kể lại cuộc đụng độ giữa Lục Vân Tiên và toán cướp.

Vân Tiên ghé lại bên đàng,

Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.

Phong Lai chẳng kịp trở tay,

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.

Đây là trận đấu không cân bằng về số lượng, bởi một bên chỉ có Lục Vân Tiên, bên còn lại là mấy mươi tên cướp hung hãn; cũng không cân bằng về vũ khí, bởi chàng chỉ có trên tay cánh cây nhỏ “Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô”, còn bọn cướp lại gươm giáo đầy đủ. Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hoàn cảnh đặc biệt, vừa để Lục Vân Tiên rơi vào thế khó, nhưng cũng để chàng tự bộc lộ sự gan dạ của mình.

Bằng bút pháp xây dựng hình tượng nhân vật điêu luyện, thi nhân đã xây dựng hai hình tượng vô cùng đối lập: Lục Vân Tiên và tướng cướp Phong Lai. Phong Lai được miêu tả có ngoại hình “mặt đỏ phừng phừng”, lời nói thì hàm hồ, hống hách, thách thức, như muốn “ăn tươi nuốt sống” Lục Vân Tiên: “Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây”. Trong khi đó, Lục Vân Tiên lại rất bình tĩnh bẻ cành cây làm gậy, khuyên bọn cướp không nên làm điều ác “Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”. Chàng thật sự không muốn gây chiến với bọn cướp, nhưng nếu gặp điều không hay, chàng sẵn sàng diệt trừ cái ác.

Điều làm nên sự thu hút trong đoạn thơ này là trận chiến ác liệt, không cân sức giữa Lục Vân Tiên và bọn cướp. Nguyễn Đình Chiểu tập trung miêu tả những cú đánh tài nghệ, sự dũng mãnh của Lục Vân Tiên. Chàng “tả đột hữu xông”, “khác nào Triệt Tử phá vòng Đương Dang”. Chàng tấn công mạnh mẽ, tung hoành bốn phương, như một người anh hùng đang phá vòng vây của ngàn kẻ địch. Những đòn tấn công nhanh, mạnh của chàng khiến cho Phong Lai và thuộc hạ của hắn chịu đau đớn, mất mát, thất bại thảm hại “Lâ la bốn phía vỡ tan”, “quăng gươm giáp”, “tìm đàng chạy ngay”. “Phong Lai chẳng kịp trở tay”, “Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”. Phong Lai ban đầu hùng hổ, huênh hoang thế, nhưng cuối cùng, chỉ bị duy nhất một đòn của của Lục Vân Tiên, mà cũng chết không kịp nhắm mắt. Bọn cướp còn lại như rắn mất đầu, sợ hãi bỏ chạy tứ phía, tìm đường thoát thân. Lục Vân Tiên quả thật quá tài giỏi, binh pháp hơn người! Chỉ với một cành cây bẻ vội bên đường mà chàng đã dọn được ngay bọn cướp hung hãn, mà trong mắt chàng lại chỉ là “lũ kiến chòm ong”.

Sau trận chiến ác liệt, Lục Vân Tiên gặp người mình đã cứu - Kiều Nguyệt Nga. Khi này, Kiều Nguyệt Nga bày tỏ sự cảm kích và mong muốn được báo ơn chàng:

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,

Hỏi:”Ai than khóc ở trong xe nầy?”

Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.

Trước hết, Kiều Nguyệt Nga xưng danh, nêu lên những lí do khiến mình bị đẩy vào tình thế nguy cấp, gặp bọn tàn ác này

Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga,

Con nầy tì tất tên là Kim Liên.

Chẳng qua là sự bất bình,

Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.

Qua lời giới thiệu, ta có thể thấy Kiều Nguyệt Nga là cô tiểu thư danh giá, có bố làm chức quan tri phủ. Lần này nàng gặp nạn, cũng bởi do không muốn làm sai lời cha, sang miền Hà Tây để “định bề nghi gia”. Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng một Kiều Nguyệt Nga vô cùng ngoan ngoãn, hiếu thảo, lại ăn nói tế nhị, lịch sự, dịu dàng, âu cũng để khuyên dạy con người cũng nên có những phẩm chất đó.

Gặp được ân nhân, Kiều Nguyệt Nga nóng lòng muốn đèn báo ơn, bởi với nàng, đây là điều theo lẽ tự nhiên.

Trước xe quân tử tạm ngồi,

Xin chi tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.

Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”.

Nàng vốn là một cô tiểu thư, có địa vị cao trong xã hội, nhưng lại xưng “tiện thiếp”, gọi Lục Vân Tiên - một người dân bình thường- là “quân tử”. Nàng đã hạ thấp mình xuống, như một cách để cảm kích, trân trọng ân nhân của mình. Không những thế, Kiều Nguyệt Nga còn “lạy” và “thưa” với người anh hùng kia. Nhà thơ đã sử dụng từ ngữ rất khéo léo trong việc miêu tả cách xưng hô và hành động của Kiều Nguyệt Nga, như để bày tỏ đậm nét hơn sự mang ơn của nàng.

Kiều Nguyệt Nga mong muốn Lục Vân Tiên theo mình đến Hà Khê, để có thể lấy của cải, vật chất trả ơn cho chàng. Nàng cho rằng mình nên báo đáp ân nhân như thế, bởi thân nàng “liễu yếu đào tơ”, không giúp gì được chàng, mà đang trên đường đi, “của tiền chẳng có bạc vàng cũng không”. Không những chỉ muốn lấy vàng bạc để trả ơn, nàng lại thấy công ơn của Lục Vân Tiên quá to lớn, không có cái gì hơn để “phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Nàng đau đáu, sợ ân nhân sẽ thiệt, biết ơn sâu sắc đến người đã cứu giúp mình lúc hoạn nạn. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga như một biểu hiện của đạo lý “báo đức thù công” - một quan niệm mà Nguyễn Đình Chiểu tâm đắc và tuân theo đến cùng.

Đáp lại sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên lại không nhận, cho rằng cứu người là việc đương nhiên:

Vân Tiên nghe nói liền cười

Làm ơn há dễ trông người trả ơn

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Lục Vân Tiên quan niệm rằng, trách nhiệm của người anh hùng là trừng trị cái xấu, cái ác, không nên soi xét đến hơn thiệt. Đây là quan niệm rất đúng đắn và nhân văn, bởi khi đã cứu người thì tâm người đó phải sáng, không bao giờ màng đến danh lợi. Người nào mà giúp người với tâm thế muốn được trả ơn, thế là “phi anh hùng”. Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu đã phẩn nào có sự tiến bộ hơn so với các nhà Nho xưa, không chỉ dừng lại ở “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài” hay không cần có “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” như nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, mà còn cần có tấm lòng rộng mở, không đòi hỏi sự mang ơn của người khác, sẵn sàng xả thân vì cái tốt.

Như vậy, đoạn trích trở nên hấp dẫn không chỉ nhờ những đức tính tốt đẹp của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, mà nó còn thu hút người đọc bởi nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, sự kết hợp khéo léo giữa ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại, ngôn từ sắc bén, tinh tế. Ngoài ra, chính thể thơ lục bát cùng nhịp thơ nhẹ nhàng đã làm đoạn trích nói riêng và cả tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên nói riêng trở nên dễ nhớ, dễ thuộc và đi sâu vào tâm trí người đọc.

Tóm lại, đoạn trích Lục Vân Tiên đánh cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga đã làm sáng rõ hơn những tấm gương tốt, với những phẩm chất như anh dũng mạnh mẽ, biết mâng ơn người ân nhân của mình. Tác phẩm như một cuốn sách đạo làm người của Nho giáo, hướng con người đến cái thiện, tránh xa cái ác. Và những quan niệm ấy vẫn thật cần thiết cho đến tận ngày nay.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 6

Truyện Kiều là một trong những truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong Văn học Việt Nam. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát, gồm 3254 câu. Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm được Nguyễn Du thể hiện một cách nhẹ nhàng mà vẫn sâu sắc vô cùng.

Giá trị nội dung của truyện được thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. Sức mạnh của đồng tiền và số phận những con người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là người phụ nữ. Phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công, phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ.Gia đình nhà Vương Ông đang sống bình yên, chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, thế là cuộc sống yên lành bị phá vỡ, tai hoạ ở đâu ập xuống nhà Kiều. Để từ đó, khiến cho cuộc đời Kiều phải rẽ hướng, hướng đi mới của số phận Kiều nghiệt ngã, đau đớn, tủi hổ vô cùng.

Bên cạnh đó Truyện Kiều còn lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người, đề cao tự do và công lí. Thuý Kiều điển hình cho người phụ nữ trong xã hội xưa, mười lăm năm lưu lạc của nàng là một chuỗi bi kịch. Dường như bao nhiêu nỗi cực khổ của người đàn bà thời trước đều ập xuống vai nàng. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi Kiều bị lừa gạt bị rơi vào lầu xanh tới hai lần, đem thân đi làm lẽ, làm đứa ở, rồi bị đánh đòn, lăng nhục trở thành tội phạm ở công đường, bị sỉ nhục, đày đọa khiến cuối cùng phải tự vẫn. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân .Gia đình nhà Vương ông đang sống yên bình nhưng vì thằng bán tơ tham tiền đã buông lời “vu oan giá hoạ” thế là cả gia đình gặp biến cố lớn, cha và em trai Thuý Kiều vào ngục. Bọn quan sai cũng nhờ cái cớ đó mà tiến vào nhà Kiều cướp phá, đánh đập. Để cứu được cha và em, bọn quan lại yêu cầu ba trăm lạng bạc, Thuý Kiều phải bán thân từ bỏ mối nhân duyên đẹp với Kim Trọng để làm tròn chữ hiếu. Sau đó, Kiều bị bán vào lầu xanh nơi có Tú bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh đều là những người chạy theo đồng tiền, chà đạp lên thân phận người khác nhằm chuộc lợi. Không chỉ Kiều mà biết bao người con gái khác cũng bị chôn vùi tuổi thanh xuân nơi lầu xanh nhơ nhớp ấy. Ngoài ra, giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện ở việc Nguyễn Du tố cáo sự thối nát, mục ruỗng của chính quyền phong kiến, đại diện trong tác phẩm này là Hồ Tôn Hiến và bè lũ sai nha của hắn, chúng lộng quyền, tham lam hơn nữa còn trắc dâm ô tàn bạo.

Đồng tiền khi rơi vào tay kẻ xấu chính là công cụ gây ra tội ác cho “kẻ yếu” hơn. Và Truyện Kiều chính là một bản tự sự đầy nước mắt về cuộc đời người con gái tài sắc Thuý Kiều đang bị chính sức mạnh và sự bất nhân của đồng tiền gây ra.

Nhưng điều khiến tác phẩm này trở thành linh hồn chính là giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du truyền tới người thưởng thức.Thông qua nhân vật chính của tác phẩm là Thuý Kiều, Nguyễn Du muốn thể hiện niềm đồng cảm sâu sắc của ông với những số phận bất hạnh nhất là người phụ nữ. Trong xã hội phong kiến, trọng nam khinh nữ, thân phận người phụ nữ như chỉ mua vui, họ bèo bọt, rẻ rúng. Tuổi xuân của họ của người phụ nữ xinh đẹp như Kiều đáng phải được nâng niu, trân trọng thì nay lại bị những kẻ cậy quyền, tham lam lợi dụng, lừa lọc để làm công cụ kiếm tiền nơi lầu xanh.Nguyễn Du cũng là người “yêu” vẻ đẹp con người. Ông đã tạo dựng thành công hình ảnh chàng Kim Trọng hết mực chung tình với Thuý Kiều, chàng Từ Hải người anh hùng giỏi giang, đầu đội trời, chân đạp đất. Đặc biệt là người con gái thuỳ mị xinh đẹp Thuý Kiều sẵn sàng hi sinh bản thân để giữ trọn nghĩa hiếu. Và qua tác phẩm ta cũng thấy được niềm tin ở hạnh phúc của con người, người tốt thiện lương sẽ luôn được hưởng hạnh phúc còn kẻ ác, tham lam sẽ bị trừng trị thích đáng. Giá trị nhân đạo được thể hiện trước hết là sự trân trọng đề cao con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Mặt khác Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ. Nguyễn Du như khóc cùng tiếng đàn và cuộc đời của Thuý Kiều, ông cũng bày tỏ thái độ trân trọng Kiều cho dù có lúc nàng đã là hạng người dưới đáy của xã hội.

"Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mình về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy trong xã hội mà quan niệm hôn nhân phong kiến còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim Trọng, Thúy Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng đầy ức chế, tàn bạo. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải – người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả cái xã hội bạo tàn ấy. Từ Hải là khát vọng của công lí, là biểu tượng cho tự do dân chủ. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người: vẻ đẹp tài sắc, trí tuệ thông minh, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, ý thức vị tha, đức thủy chung. Thúy Kiều, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 7

Nhắc đến khoảng trời Trường Sơn là nhắc đến biết bao sự hy sinh mất mát, nơi mà lính Mỹ đã thả bom dồn dập nhằm ngăn cản bước tiến dũng mãnh của các đoàn quân tiến về Sài Gòn giải phóng miền Nam. Nhưng Trường Sơn đâu chỉ mang trong mình bao sự thương đau, Trường Sơn còn là nơi ghi dấu của những tâm hồn tự nhiên, lạc quan của những người chiến sĩ lái xe không kính, những chàng trai cô gái thanh niên xung phong đã hy sinh tuổi trẻ để cống hiến cho đất nước.

Là một người đã từng gắn bó với khoảng trời bom đạn ấy, nhà văn Lê Minh Khuê đã khai thác đề tài quen thuộc đã làm nên nhiều tên tuổi lớn trên văn đàn chống Mỹ nhưng cùng với sự sáng tạo và một chút lãng mạn của mình, “Những ngôi sao xa xôi” của bà, đã khắc họa hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong, mà tiêu biểu là nhân vật Phương Định với những vẻ đẹp hồn nhiên vốn có của tuổi trẻ Việt Nam trong thời chống Mỹ.

Câu chuyện kể về ba cô gái, ba cô gái thanh niên xung phong Nho, Thao và Phương Định, sống trên một cao điểm giữa mênh mông khói bụi Trường Sơn, nơi mà “màu đất đỏ, trắng lẫn lộn”. Công việc của họ là “ngôi đây”,”khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hồ bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”.

Trong lúc đơn vị thường làm việc khi mặt trời lặn, thì tổ trinh sát lại làm việc ban ngày, khi thần chết luôn “lẩn trong ruột những quả bom”, khi mà lính Mỹ thả bom nhiều nhất và cái chết luôn theo sát ba cô gái ấy. Công việc của họ là công việc quan trọng và cũng đầy gian khổ hy sinh, đòi hỏi tinh thần dũng cảm, sự nhạy bén quyết đoán và sự nhanh nhẹn. Trong hoàn cảnh ấy, ta mới thấy sáng ngời lên là những phẩm chất cao đẹp của ba nhân vật, và đặc biệt là Phương Định, nhân vật chính của truyện.

Phương Định là một cô gái Hà Nội, “một cô gái khá”, chỉ vừa mới bước ra khỏi cuộc đời hồn nhiên vô tư lự của mình. Cô có vẻ bề ngoài đáng yêu trẻ trung và xinh xắn, “hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”, còn đôi mặt thì có “cái nhìn sao mà xa xăm”.

Những nét đẹp của cô đã được những anh lái xe để ý đến, bằng chứng là những bức thư dài gửi đường dây mặc dù có thể chào nhau hằng ngày, nhưng Phương Định cũng không săn sóc vồn vã, cô gái vẫn hay đứng ra xa, khoanh tay trước mặt và nhìn đi nơi khác mỗi khi một đám con gái xúm lại đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy. Một hành động đó thôi đã làm Phương Định trở nên thật kiêu kì, cái điệu của cô thật đáng yêu và cũng thật phù hợp với một người con gái như vậy.

Tâm hồn cô giữa khoảng trời Trường Sơn thật làm cho người ta thật ngạc nhiên. Cô mê hát, “thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát”, lời cô bịa lộn xộn ngớ, ngẩn ngơ đến không ngờ, đôi lúc nó cũng làm cho cô bò ra mà cười một mình, cô thích “những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận”, cô thích “dân ca quan họ mềm mại dịu dàng” và kể cả “Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô”, "ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh””.

Và Phương Định hát khi có sự im lặng không bình thường, “tiếng máy bay trinh sát rè rè”, cô hát để cổ động viên hai người đồng đội Nho, Thao và cũng là hát để động viên chính bản thân mình. Chính những lúc mê hát ấy đã làm cô quên đi cái sự buồn chán của cuộc sống Trường Sơn, quên đi mùi khói bom đạn mà cô vẫn tiếp xúc hằng ngày, và đó cũng là bước đà để cô có được một tâm hồn mơ mộng khi cơn mưa đá vừa ập đến.

Mang theo tuổi trẻ của mình vào Trường Sơn, Phương Định còn mang theo cả những kỉ niệm đẹp về góc phố Hà Nội của mình, đó là hình ảnh người mẹ, cái cửa sổ, tiếng rao của bà bán xôi có cái mủng đội trên đầu, kể cả những cú sút vô tội vạ của bọn trẻ con trong một góc phố. Cơn mưa đá đi nhanh cũng như lúc nó vừa đến, nhưng lại mang những dòng kí ức tuổi thơ về cho Phương Định, và tất cả như xoáy mạnh trong tâm trí cô. Có lẽ chính những điều ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho cô gái, để cô luôn nghĩ rằng, gia đình, bạn thân và cả những kỉ niệm kia sẽ luôn theo cô trong suốt quãng đời ở Trường Sơn.

Tâm hồn, tính cách của Phương Định hồn nhiên như thế, nhưng nổi bật lên trên tất cả vẫn là tinh thần dũng cảm, vượt lên trên hiểm nguy luôn ẩn chứa trong thân hình nhỏ bé của cô gái Hà Nội kia. Đó là những lúc mà bom của giặc Mỹ vẫn còn chưa nổ, và cô phải làm nhiệm vụ của mình, còn thần chết thì có vẻ vẫn đang “lẩn trong ruột những quả bom” chờ đợi cô.

Tuy vậy, Phương Định vẫn tỏ ra thật bình thản, cái chết thì cô có nghĩ đến nhưng lại là “một cái chết mờ nhạt, không cụ thể”, mà cô quan tâm nhất là liệu bom có nổ hay không, không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai, cô luôn đặt nhiệm vụ của mình lên hàng đầu. Và trong những lúc phá bom như vậy, ta vẫn còn thấy thấp thoáng cái sự nhạy cảm, tinh tế trong cảm xúc của cô, “một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi.

Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí!! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành.”, phải là một người bình tĩnh mới có được những cảm nhận chân thực như vậy. Chính những lúc đó, ta mới thấy được cái sự dũng cảm của cô gái. Công việc không có một chút gì là an toàn, nhưng do “quen rồi”, ngày nào cũng phải phá bom đến năm lần, ngày nào ít thì ba lần, mà Phương Định luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Và trong cái sự dũng cảm ấy, ta vẫn thấy Phương Định luôn thường trực một tình cảm đồng chí đồng đội nồng ấm và chân thành. Đó là tấm lòng vị tha với mọi người mà cô quan tâm, cô lo lắng khi Thao lên cao điểm chưa về, cô tận tình, vỗ về chăm sóc Nho khi cô ấy bị thương lúc phá bom. Ngược lại, chính tình cảm đồng chí đồng đội, đã làm cho Phương Định thêm một chút tự tin, ấm lòng khi được sống giữa tình yêu thương của mọi người

Hiểu được công việc của mình là gian khổ, nhưng Phương Định vẫn luôn ngưỡng mộ “những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ” bởi họ là những đẹp nhất, thông mình, can đảm và cao thượng nhất. Những lúc chạy đi phá bom, vẫn mang một chút lo sợ trong người, nhưng nhờ những cái nhìn của những người chiến sĩ, đã đập tan đi nỗi sợ trong cô và chỉ còn một mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ, “ cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi mà có thể đàng hoàng mà bước tới”.

Trong truyện ngắn, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính, điều đó giúp cho tác phẩm càng trở nên chân thực, những cảm xúc, thế giới nội tâm của nhân vật đều được thể hiện tự nhiên rõ nét, vẽ lên một khoảng trời mộng mơ ngay giữa Trường Sơn mênh mông và ác liệt.

Mang trong mình những phẩm chất cao đẹp, Phương Định xứng đáng là biểu tượng của những cô gái thanh niên thời chống Mỹ, là hình tượng người con gái Việt Nam trong thời gian chiến đấu, là đại diện của thế hệ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ.

Cũng giống như tựa đề “Những ngôi sao xa xôi”, những con người được ví như vì sao lấp lánh giữa bầu trời đêm, mang trong mình những phẩm chất đáng quý, “xa xôi” là bởi vì phải ngắm nhìn thật kỹ thì mới có thể thấy được những tâm hồn cao đẹp ấy.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 8

Đề tài người phụ nữ được khai thác nhiều trong văn học nói chung và văn học trung đại Việt Nam nói riêng. Tác giả Nguyễn Dữ lại đem đến cho ta những cảm nhận thấm thía về số phận người phụ nữ qua câu chuyện đau đớn của nàng Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.

Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”. Mở đầu tác phẩm, tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ vẻ đẹp đời sống và tính cách nhân vật. Nguyễn Dữ đã khái quát vẻ đẹp của nàng: “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chàng Trương cũng bởi mến cái dung hạnh ấy, nên mới xin với mẹ trăm lạng vào cưới về.

Từ khi lấy nhau, Vũ Nương luôn thể hiện tình yêu thương, thủy chung với chồng. Nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên dù chồng nàng đa nghi, phòng ngừa quá mức nhưng gia đình chưa từng xảy ra bất hoà. Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén rượu đầy, thủ thỉ với chồng bao lời tình nghĩa: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Từ câu nói ấy, ta cảm nhận được sự cảm thông, thấu hiểu mà Vũ Nương dành cho chồng. Ngày qua tháng lại, nàng nhớ chồng khôn nguôi. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì lòng nàng lại đau đáu nhớ tthương. Về sau, nàng hạ sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản. Với mong muốn bù đắp cho đứa con trai thiếu vắng tình cha nên Vũ Nương đã chỉ cái bóng trên tường và bảo rằng đó là cha Đản.

Trong mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, Vũ Nương đã thể hiện tấm lòng hiếu thảo dành cho mẹ chồng. Nàng lễ bái thần phật và tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Người mẹ chồng đã ghi nhận tấm lòng thơm thảo của Vũ Nương: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp…. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

Những tưởng với những đức tính trên, Vũ Nương sẽ có cuộc sống vô cùng hạnh phúc. Thế nhưng, ngày đoàn tụ cũng là ngày đau đớn. Chỉ dựa vào một lời nói của bé Đản ngây thơ mà Trương Sinh nghi oan vợ thất tiết. Chiến tranh phong kiến và xã hội nam quyền đã đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng. Người chồng đầu gối tay ấp, siết bao thương yêu mà này sẵn sàng mắng nhiếc nàng rồi đánh đuổi đi. Vũ Nương tự coi mình là kẻ bạc mệnh hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ rồi gieo mình xuống dòng sông.

Yếu tố hoang đường kì ảo nằm ở chi tiết Vũ Nương chết đi và được sống dưới thủy cung. Tâm hồn cao đẹp của nàng đã làm thần linh cảm động. Những ngày tháng an nhàn ở chốn mây nước vẫn không thể nào làm nguôi ngoai nỗi nhớ nhà của Vũ Nương. Nàng vẫn khẳng định với chàng Phan rằng sẽ có ngày tìm về quê cũ. Đến khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương, nàng vẫn hiện lên nói lời tạ từ mà không oán trách. Chi tiết kì ảo này cho thấy cái nhìn nhân đạo của nhân dân ta, rằng những người tốt bụng sẽ luôn được thần linh che chở. Thế nhưng, một mặt, nó cũng nói lên hiện thực tàn khốc. Một khi bi kịch đã xảy ra thì không gì có thể cứu vãn được. Hạnh phúc đã vỡ tan, gia đình tan nát, người sống hóa thành kẻ chết. Điều ấy không gì bù đắp được.

Với “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã sử dụng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, chi tiết truyện thắt nút – mở nút gay cấn, miêu tả nhân vật khéo léo và kết hợp các yếu tố hoang đường kì ảo. Từ đó, tác phẩm là lời ngợi ca vẻ đẹp của những người phụ nữ trong xã hội xưa và lên án chiến tranh phi nghĩa, hủ tục phong kiến.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 9

Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các tác phẩm của bà thường viết về những người thanh niên trên tuyến đường Trường Sơn, trong đó tiêu biểu là tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”. Đến với truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi", ta không chỉ được chứng kiến những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất mà còn thấy được tình cảnh đồng đội thắm thiết và cả những người nữ thanh niên xung phong với tính cách trong sáng, tràn đầy lạc quan.

“Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm viết về “tổ trinh sát mặt đường” gồm Nho, Thao và Phương Định, làm việc trên một trọng điểm của tuyến đường Trường Sơn máu lửa. Hoàn cảnh sống và chiến đấu của các cô chứa đựng đầy những gian khổ, vất vả và nguy hiểm. Bởi tuyến đường này là nơi quân Mỹ tập trung đánh phá ác liệt nhất mà nhiệm vụ của các cô gái ấy lại là san lấp những hố bom, đánh dấu những trái bom chưa nổ và khi cần thì phá bom. Công việc hết sức nguy hiểm, luôn phải đối mặt với “thần chết rình rập” khi họ phải “chạy trên cao điểm giữa ban ngày” và máy bay địch thì có thể ập tới bất cứ lúc nào. Người ta có thể thấy ngay được sự nguy hiểm của tuyến đường này khi nhìn vào mức độ mà giặc Mỹ đánh phá nó “Ðường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc”. Có thể thấy rằng công việc của những người trinh sát ấy không chỉ là sự hiểm nguy về thể xác khi có thể bị bom vùi bất cứ lúc nào mà còn đòi hỏi ở họ sự tập trung cao độ, sự bình tĩnh, gan dạ và chính xác hết mực.

Thế nhưng, ba cô gái ấy, Nho, Thao, Phương Định dù trong gian khổ, hiểm nguy vẫn luôn mang trong mình vẻ đẹp, sự trong sáng của những cô gái tuổi mười bảy. Họ có những điểm chung, những điểm riêng khác biệt làm nổi bật lên hình ảnh của những đoá hồng nơi chiến trường bom đạn mịt mù.

Ở Nho, Thao và cả Phương Định nữa, ta thấy được rằng họ có chung một lí tưởng sống cao đẹp. Lí tưởng ấy đã dẫn dắt họ, để họ trở thành những người đồng đội gắn bó thân thiết trên cao điểm này. Họ đại diện cho lớp thanh niên yêu nước vào những năm 70 của thế kỉ trước, sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân phơi phới của mình cho sự nghiệp cứu quốc hào hùng. Công việc của những cô gái ấy là “Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất phải lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom” – một công việc chứa đựng sự nguy hiểm vô cùng, vậy mà chỉ cần nghe tiếng máy bay địch và nghe tiếng bom nổ là họ sẵn sàng lao ngay ra cao điểm để thực hiện nhiệm vụ của mình. Điều đó cho ta thấy được sự can đảm, kiên cường, dũng cảm và gan dạ, không hề sợ hãi trước nguy hiểm của những cô gái thanh niên xung phong ấy. Họ có nghĩ đến cái chết nhưng chỉ là cái chết “mờ nhạt và không cụ thể”. Bởi trên tất cả điều họ mong muốn là bom nổ, thông đường và những chuyến xe của những người lính sẽ lăn bánh qua những con đường an toàn.

Ba cô gái trẻ ấy còn khiến chúng ta bất ngờ bởi tinh thần trách nhiệm rất cao trong công việc của mình. Hình ảnh của chị Thao và Nho quyết đoán chạy ngay ra ngoài để đo khối lượng bom vừa được thả xuống. Hay Phương Định khi cô phá quả bom nằm một mình trên đồi vắng. Họ đều thực hiện rất nghiêm túc công việc của mình mà không hề sợ hãi, hay có bất cứ băn khoăn nào. Bởi họ ý thức được công việc của mình quan trọng như thế nào đối với tiền tuyến, và tuyến đường này là tuyến đường xương máu, dù có hi sinh cũng phải giữ cho đường được an toàn. Ý chí, lòng yêu nước của những cô gái ấy khiến ta phải cúi đầu khâm phục.

Ở những cô gái kiên cường này còn toát lên tinh thần đồng đội sâu sắc. Sống chung với nhau lâu ngày, cùng nhau chiến đấu, Nho, Thao, Phương Định dường như đã coi nhau như chị em ruột thịt thân thiết. Họ hiểu nhau, biết nhau thích gì, sợ gì, quan tâm đến đồng đội của mình từng chút một. Khi đồng đội bị thương, họ cũng chăm sóc cho nhau, lo lắng cho nhau. Đó là tình đồng đội ấm áp, vững chắc mà chắc hẳn chỉ có cùng nhau chiến đấu mới có thể khăng khít đến nhường ấy.

Và cuối cùng, ở họ, những cô gái trinh sát, ta thấy được một tâm hồn lạc quan, phơi phới mộng mơ, dù đang ở trong chiến tranh ác liệt nhất. Họ giữ trong mình những sở thích như ăn kẹo ngọt, thêu thùa, hát,… và bộc lộ khát khao về hoà bình, nơi không còn thấy khói lửa chiến tranh và họ sẽ được làm những công việc mà họ mơ ước.

Đó là điểm chung của những cô gái trong “tổ trinh sát mặt đường” trên tuyến đường Trường Sơn. Vậy những điểm riêng của họ là gì? Điều gì khiến họ trở nên khác biệt so với những cô gái khác?

Ở Phương Định, ta thấy được cô là một người con gái hết sức đặc biệt và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Phương Định là con gái Hà Nội, vừa rời ghế nhà trường đã xung phong ngay vào nơi chiến trường trọng điểm đánh phá của giặc Mỹ. Phương Định mới chỉ mười bảy tuổi, tâm hồn cô vẫn còn những thơ ngây, những mộng mơ, những nét hồn nhiên, tinh nghịch của tuổi học trò. Có lẽ bởi vậy điều mà cô thích nhất là hát: “dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng”, “Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên xô” hay “dân ca Ý trữ tình”, “thường cứ thuộc điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát”, dù rằng lời bịa ấy “lộn xộn mà ngớ ngẩn” đến mức chính cô còn “ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình”. Ở tuổi mười bảy, Phương Định tự ý thức được về bản thân mình, cô nhận định mình rằng: “Tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao kiêu hãnh như loài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”. Chẳng vậy mà các anh lính lái xe, pháo thủ luôn “hỏi thăm cô”và “viết những thư dài gửi đường dây” dù rằng cô và họ gặp nhau mỗi ngày. Điều đó đã khiến cho Phương Định cảm thấy vui mừng và tự hào, nhưng cô luôn giữ điều đó vào trong lòng mình. Điều cô thích chỉ là ngắm mình trong gương, “mím môi thật chặt” làm điệu khi thấy các cô gái khác chuyện trò cùng anh bộ đội nào đó. Có thể nói, Phương Định là một người con gái Hà Nội hết sức duyên dáng, nhạy cảm, biết quan tâm tới hình thức của mình nhưng cũng rất khiêm tốn và kín đáo.

Và không chỉ có những điều đó, ta còn thấy ở cô là người trinh sát vô cùng gan dạ, và điều đó biểu hiện trong một lần cô phá bom. Quả bom mà cô cần phá “nằm trên đồi”, đây là một vị trí vô cùng nguy hiểm bởi nó có thể thu hút máy bay địch bất cứ lúc nào nên việc phá bom cần rất nhanh chóng và chính xác. Nhận nhiệm vụ từ tay chị Thao, Phương Định chạy ngay lên đồi nơi mà “vắng lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác. Đất nóng. Khói đen vật vờ tùng cụm trong không trung”. Quả bom mà cô cần phá “nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô”. Khi bước đến gần quả bom, cô đã tự nhủ với mình rằng “không đi khom” mà phải “đàng hoàng” bước tới. Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, cô cũng cảm thấy hồi hộp và căng thẳng, bởi công việc của cô là đối mặt với tử thần khi bom có thể nổ bất cứ lúc nào. Nhưng khi tiến hành công việc, cô càng cho thấy bản lĩnh tự tin và dũng cảm của mình, cô không sợ chết bởi cái chết với cô “mờ nhạt và không cụ thể”. Và lần phá bom ấy đã chứng tỏ một bản lĩnh dũng cảm, kiên cường của một cô gái trẻ, tiêu biểu cho những tấm gương thanh niên lên đường cứu quốc.

Phương Định là một cô gái có tâm hồn đa cảm, dễ xúc động. Là người con gái của Hà thành vào nơi đây chiến đấu, vậy nên lúc nào Phương Định cũng mơ về Hà Nội của mình. Ở nơi Hà Nội xa xôi ấy có mẹ của cô, có căn gác nhỏ mà cô hay ngồi hát, có “những ngôi sao to trên bầu trời”, “vòm tròn của nhà hát”, bà bán kem”,… Những điều đó gợi cô nhớ về Hà Nội thân yêu, nơi có những phồn hoa mà cô đã phải rời xa để tiến bước vào nơi chiến trường này! Chỉ một cơn mưa đá chợt đến, chợt đi cũng đủ để gợi dậy trong lòng Phương Định bao nhiêu xúc cảm.

Còn ở Thao, người ta thấy chị là một người chị cả, người đội trưởng rất quyết đoán, mạnh mẽ trong công việc nhưng trong cuộc sống chị lại rất dịu dàng và hay làm dáng. Khi thấy tiếng “máy bay trinh sát rè rè”, “phản lực gầm gào” thì Thao đã biết chúng sắp thả xuống đây những đợt bom mới. Chị chỉ “móc bánh quy trong túi, thong thả nhai. Sự “bình tĩnh đến phát bực” của người đội trưởng Thao có lẽ là được tôi luyện trong những năm tháng sống trên cao điểm này. Cuộc sống nơi đây đã dạy cho chị bản lĩnh, sự điềm tĩnh, gan dạ của một người chị cả. Khi tiếng bom nổ, chị đã phân công công việc hết sức rõ ràng và quyết đoán, khiến cho Phương Định phải thốt lên mà công nhận rằng “ai cũng gờm chị: cương quyết, táo bạo”.

Vậy nhưng chị Thao ngoài công việc lại là một người chị cả rất dịu dàng. Chị hay làm điệu “Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị hay tỉa đôi lông mày của mình, tia nhỏ như cái tăm”. Và cũng như những người con gái trẻ khác, chị sợ máu và vắt, “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét”.

Với Nho, người em út của cả nhóm thì còn rất ngây thơ, rất trẻ con. Là một người lính trên tuyến đường máu lửa, ác liệt nhất trong kháng chiến chống Mỹ thế nhưng Nho lại mang trong mình sự ngây thơ, đáng yêu đến nỗi Phương Định coi Nho như là em gái của mình, dù rằng cả hai cô gái đều đang ở độ tuổi mười bảy. Nho thích ăn kẹo nên lúc nào Phương Định cũng phần sẵn cho cô trong túi áo. Với Phương Định, Nho như một “cây kem” mát mẻ giữa cái nóng “bức người” nơi chiến trường này. Trẻ con là thế nhưng khi trúng bom bị thương, cô cũng thể hiện bản lĩnh của một chiến sĩ. Bị mất máu, bị đau thế nhưng Nho không hề kêu than một lời, cô chỉ im lặng để đồng đội băng bó vết thương cho mình.

Về nội dung, truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” đã cho chúng ta thấy được cuộc sống và chiến đấu đầy gian khổ và hiểm nguy của những cô gái thanh niên xung phong Nho, Thao, Phương Định trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Thế nhưng dù ở trong hoàn cảnh như thế, ta vẫn thấy được tinh thần lạc quan, dũng cảm, tâm hồn mơ mộng, hồn nhiên của các cô gái ấy. Đó là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Về nghệ thuật, truyện được kể theo ngôi thứ nhất, thông qua con mắt nhìn của Phương Định, vậy nên khiến người đọc cảm thấy hết sức chân thực và sinh động. Ngôn ngữ đối thoại súc tích, ngắn gọn, bộc lộ sự quyết đoán, mạnh mẽ của các nhân vật trong công việc của mình. Việc lựa chọn miêu tả những hình ảnh tiêu biểu cũng đã giúp lột tả được vẻ đẹp cũng như bản lĩnh của những người con gái nơi đây. Hình tượng các nhân vật được xây dựng chỉ bằng vài nét chấm phá, thế nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được toàn bộ nội tâm cũng như tính cách của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng rất tinh tế, khéo léo.

Lê Minh Khuê đã xây dựng lên một câu chuyện về những người nữ thanh niên xung phong gan dạ trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ hết sức thành công. Họ là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng ấy và sẽ mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi theo.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 10

Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.

Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi.

Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.

Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.

Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thùy mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất hòa dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ … làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ

Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thủy chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tụy chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình).

Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó … mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin.

Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng … đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá….

Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giãi bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ.

Nhược bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ …” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa – con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.

Sau một năm ở thủy cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thỏa lòng nhớ chồng, con. Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam – một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, …. lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.

Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.

Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng "nam quyền", hơn nữa Trương Sinh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.

Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: "trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến..."

Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương

Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm.

Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong "Truyện Kiều'' của Nguyễn Du, người cung nữ trong "cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương,...

Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc.

"Thắt nút" truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiến phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trên một dòng sông.

"Gỡ nút" cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: "cha Đản lại đến kia kìa") thì bao nhiêu oan gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ. Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.

Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn "gỡ nút" truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích "Vợ chàng Trương", Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới.

Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là "ở hiền gặp lành", người tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thủy Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.

Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ Nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được.

Truyện "Người con gái Nam Xương" có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hội của thời đại mới.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 11

Có lẽ không nơi đâu như mảnh đất Việt Nam này, mỗi con đường, góc phố, cánh rừng đều in đậm vẻ đẹp của những con người hiền hòa mà anh dũng. Nhất là trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có biết bao con người trẻ tuổi khoác ba lô ra chiến trường để chiến đấu và làm việc, vì một lý tưởng cao cả là giành lại độc lập tự do cho quê hương mình. Rất nhiều tác phẩm văn học đã sinh ra từ không khí hào hùng của thời đại đó. Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi được Lê Minh Khuê viết vào năm 1971, khi cuộc chiến đấu của quân dân ta đang ở giai đoạn cam go, ác liệt nhất. Tác phẩm ra đời từ một ngòi bút trực tiếp tham gia công tác và chiến đấu tại tuyến đường Trường Sơn, nên đã chuyển tải được sự ác liệt của bom đạn và làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của những con người Việt Nam trẻ tuổi, mà đại diện tiêu biểu chính là Nho, Thao và Phương Định.

Hãy xem hoàn cảnh sống và chiến đấu của các nhân vật chính trong tác phẩm. Họ là ba cô gái sống trong một cái hang dưới chân cao điểm. Nơi này đạn bom luôn làm rung chuyển mặt đất. Công việc của họ là trinh sát mặt đường, đo khối lượng đất đá cần để lấp hố bom, phát hiện, đếm những quả bom nổ chậm, và tìm cách phá bom để bảo vệ con đường. Nơi ở là nơi nguy hiểm, công việc thì luôn phải đối đầu với cái chết. Bên cạnh đó, họ phải chịu đựng nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhưng ở họ, ta lại cảm nhận được một tinh thần đoàn kết sâu sắc. Họ như kết thành một khối, có sức mạnh để vượt qua tất cả.

Lê Minh Khuê miêu tả từng nhân vật với những nét tính cách khác nhau. Đầu tiên là chị Thao, tiểu đội trưởng. Thao xứng đáng là người chỉ huy của cả đội, bởi chị lúc nào cũng rất bình tĩnh. Tình thế càng nguy hiểm thì sự bình tĩnh đó càng lộ ra rõ rệt, "những khi biết rằng cái sắp tới sẽ không êm ả thì chị tỏ ra bình tĩnh đến phát bực". Sự bình tĩnh đó giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ lúc nào cũng chính xác và hiệu quả. Ấy vậy mà cô gái này lại "thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét, áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị lại hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm.", đó là vẻ đẹp mang màu sắc nữ tính của chị Thao. Thao điệu đà, thích chép những bài hát vào một cuốn sổ, nhưng trong công tác thì vô cùng táo bạo và cương quyết. Mệnh lệnh của chị Thao luôn được Nho và Phương Đinh tuân thủ chặt chẽ. Tính kỷ luật của tiểu đội được đặt lên hàng đầu.

Còn khi miêu tả Nho, nhà văn để cho nhân vật xuất hiện trong cái nhìn rất thương mến của Phương Định. Đó là lúc Nho đi từ dưới suối lên, cái cổ tròn, trông nhẹ "mát mẻ như một que kem". Nho có những mơ ước bình dị "Xong chiến tranh, sẽ xin vào một nhà máy thuỷ điện lớn. Nó làm thợ hàn, sẽ trở thành cầu thủ bóng chuyền của nhà máy. Nó sẽ đập thật giỏi. Và biết đâu lại sẽ được người ta tuyển vào đội bóng chuyền miền bắc". Vẻ đẹp của Nho giản dị như thế đấy, nhưng cô gái thanh niên xung phong này có thể đảm đương những nhiệm vụ khó khăn nhất. Khi phá bom: "Nho hai quả dưới lòng đường". Khi bị thương, Nho vẫn điềm tĩnh, đòi uống nước, và tinh nghịch trước cơn mưa đá bất chợt ào đến. Nho thật đáng yêu và đáng khâm phục.

Nhưng có thể nói nhân vật trung tâm mà Lê Minh Khuê miêu tả thật sâu sắc phải kế đến Phương Định, người ở ngôi thứ nhất kể lại câu chuyện này. Về nguồn gốc xuất thân, Phương Định vốn là một cô gái Hà Nội vừa rời ghế nhà trường đã xung phong ra trận, đó là vẻ đẹp lý tưởng ở những con người trẻ tuổi thuộc thế hệ đánh Mỹ. Ngoại hình của Phương Định khá xinh đẹp, "nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như cái đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: "Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!".... Vẻ đẹp tươi tắn đó của Phương Định hoàn toàn tương phản với khung cảnh chiến tranh, nó khiến cho người đọc thêm căm ghét cuộc chiến tranh xâm lược tàn ác mà kẻ thù đã gây ra.

Nhà văn miêu tả tính cách của Phương Định vẫn còn nhiều nét lãng mạn, tinh nghịch. Cô thích ca hát: "Tôi thích nhiều bài hát, dân ca quan họ dịu dàng, dân ca Ý trữ tình giàu có". Cô cũng thích ngắm mình trong gương. Nhiều anh bộ đội thầm thương trộm nhớ, nhưng Phương Định cũng không kiêu căng, vì đối với cô, các anh bộ đội chính là những con người đẹp nhất. Những cử chỉ, hành động và suy nghĩ của Phương Định cho ta thấy cô gái này là một con người giản dị, yêu đời, rất đỗi ngây thơ, trong sáng và có nội tâm phong phú.

Trong truyện ngắn, nhà văn Lê Minh Khuê đã khám phá ra đằng sau vẻ đẹp dịu dàng của Phương Định là một tâm hồn đầy sức mạnh và lòng dũng cảm của một người chiến sĩ. Điều này thể hiện trong những lần Phương Định phá bom. Quả bom của kẻ thù là phương tiện tàn ác gieo rắc cái chết, để có những con đường an toàn cho đoàn xe ra trận, Phương Định và đồng đội của cô đối mặt với những quả bom đáng sợ đó. Nhà văn Lê Minh Khuê không né tránh miêu tả thực tại phũ phàng trần trụi của chiến tranh. Đó là lúc Phương Định để lộ mình trên cao điểm, và cảm nhận sự hiểm nguy sát ngay bên cạnh. Nhưng cũng chính giây phút đó, cô gái thanh niên xung phong không thấy mình đơn độc, cô cảm thấy ánh mắt của các anh bộ đội đang dõi theo mình, động viên và bảo vệ. Vì thế, Phương Định không đi khom, cô giữ tư thế hiên ngang khi đến gần quả bom. "Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi lom khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới". Tâm trạng của Phương Định lúc đó thật bình tĩnh, dù rất căng thẳng. Những cử chỉ của cô khi phá bom rất chuẩn xác: cẩn thận bỏ gói thuốc nổ cạnh quả bom, khoan đất, chạy lại chỗ núp, nép người vào bức tường, nhìn đồng hồ... Những lúc như thế, Phương Định cũng có nghĩ đến cái chết, nhưng tinh thần trách nhiệm và khát khao hoàn thành nhiệm vụ mạnh mẽ hơn. Phương Định hiểu rõ ý nghĩa việc mình làm, thế nên đối mặt với cái chết, cô vẫn chủ động, bình tĩnh, dũng cảm và sẵn sàng hi sinh cho con đường ra trận được thông suốt. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn cao cả của cô và đồng đội!

Là một cô gái thanh niên xung phong anh dũng, nhưng trái tim Phương Định lại dịu dàng và chan chứa yêu thương, nhất là đối với những người đồng đội cô xem như ruột thịt. Khi thấy Nho bị bom vùi, Phương Định cuống cuồng bới đất cứu bạn, và chăm sóc Nho với tất cả tấm lòng người chị em gái. Đối với chị Thao, Phương Định cũng hiểu rõ tính cách, sở thích và những tâm tình của bạn, sẵn sàng giúp đỡ và sẻ chia tâm sự. Nghe giọng hát rất chua của chị Thao, Phương Định cảm thấy sự thân thiết và niềm động viên khi tình thế nước sôi lửa bỏng.Cũng như Thao và Nho, Phương Định có một tâm hồn trong sáng, nhạy cảm. Trong những ngày xa Hà Nội, cô nhớ da diết những hình ảnh thân thương của quê hương, nhớ xe bán kem, nhớ cả những ngôi sao xa xôi trên bầu trời Hà Nội. Đó là những kỷ niệm đẹp đẽ mà Phương Định đã gói ghém làm hành trang khi tham gia vào cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc đánh Mỹ.

Có thể nói, ở ba cô gái này, ta cảm nhận những nét tính cách đối lập: họ vừa là người chiến sĩ dũng cảm, gan dạ, sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc, vừa là ba cô gái hồn nhiên, đầy nữ tính và có lòng yêu quê hương đất nước lắng sâu da diết. Đó không phải chỉ là vẻ đẹp tâm hồn của riêng họ, mà là nét đẹp tâm hồn chung của những con người Việt Nam trẻ tuổi thời đại chống Mỹ cứu nước.

Lê Minh Khuê đã chọn cho mình một cách viết thật bình dị, với ngôn từ mang đậm hơi thở của chiến tranh. Ngôi kể của truyện là Phương Định - "tôi", thế nên lời kể thật tự nhiên và trẻ trung. Có lẽ bản thân nhà văn từng là một cô gái thanh niên xung phong, nên bà miêu tả tâm lý nhân vật rất thật, rất tinh tế. Từ đó, bà đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng hồn nhiên và lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn đầy khói lửa. Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi có thể được coi là một khúc ca ca ngợi vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam:

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai"

(Tố Hữu)

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 12

Phạm Quỳnh đã từng khẳng định: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn". Từ trước đến nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du được đánh giá là kiệt tác văn chương của dân tộc. Thật vậy, để làm nên giá trị đó là những đóng góp, sáng tạo mới mẻ của Nguyễn Du về cả nội dung và hình thức nghệ thuật.

Trước tiên, dù sáng tác dựa trên cốt truyện của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm tài nhân) song Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới với những sáng tạo về giá trị nội dung. Truyện Kiều mang giá trị hiện thực phản ánh bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam bất công, tàn bạo và xã hội kim tiền chà đạp lên quyền sống con người, đặc biệt là người phụ nữ. Đó là lời tố cáo các thế lực đen tối như sai nha, quan xử kiện, ... ích kỉ, tham lam, coi rẻ sinh mạng, phẩm giá con người. Tác phẩm còn cho thấy những tác động tiêu cực của đồng tiền: đó là những lời ngon ngọt "Có ba trăm lạng việc này mới xuôi", là những lần lừa gạt Thúy Kiều vào lầu xanh của Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,... Tất cả chung quy lại cũng vì đồng tiền làm tha hóa nhân cách của con người.

Không chỉ dừng lại ở giá trị hiện thực rộng lớn, tác phẩm còn mang những giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Truyện Kiều là tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa chà đạp con người như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,... Tác phẩm còn thể hiện tiếng nói thương cảm, xót xa của Nguyễn Du trước số phận bi kịch của con người: "Tiếc thay một đóa trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về", để rồi sau này ông thốt lên: Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung". Thúy Kiều là người con gái tài sắc nhưng số phận lại vô cùng éo le, lấy chữ hiếu làm đầu để rồi sau bao nhiêu trắc trở, nàng lại cô đơn vò võ một mình. Càng xót xa bao nhiêu, nhà thơ lại càng khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người: khát vọng về quyền sống, quyền tự do, công lý, khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Mối tình Kim Kiều vượt lên trên lễ giáo phong kiến cùng thái độ chủ động của người con gái khi yêu: "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" thể hiện khát vọng tình yêu của con người cùng hình ảnh người anh hùng Từ Hải ẩn chứa ước mơ của tác giả về một xã hội công bằng,... Bởi những giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả đó, Mộng Liên Đường chủ nhân đã từng ca ngợi Nguyễn Du là người "có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời".

Không chỉ có những đặc sắc về nội dung mà Truyện Kiều còn mang những nét sáng tạo vô cùng độc đáo về nghệ thuật. Tác phẩm là sự kết tinh các thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Về thể loại, tác phẩm được viết dưới hình thức một truyện thơ Nôm với thể thơ lục bát truyền thống quen thuộc. Về ngôn ngữ, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm có vận dụng kết hợp linh hoạt với các ca dao, thành ngữ quen thuộc. Nghệ thuật trong Truyện Kiều đã có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách, miêu tả tâm lí nhân vật. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhà thơ có sự kết hợp giữa ngôn ngữ độc thoại để miêu tả nội tâm và ngôn ngữ đối thoại để thể hiện tính cách, hoàn cảnh nhân vật. Với các nhân vật chính diện, Nguyễn Du sử dụng ngòi bút ước lệ, ẩn dụ tượng trưng quen thuộc trong thơ trung đại; với các nhân vật phản diện, nhà thơ thường sử dụng ngôn từ bình dân tả thực. Bên cạnh đó, ông còn có những đặc sắc nghệ thuật khi tả cảnh với bút pháp tả cảnh ngụ tình sinh động, giúp nhân vật thể hiện cảm xúc, tâm trạng của mình một cách gián tiếp. Tất cả đã làm nên một "Truyện Kiều" với những sáng tạo mới mẻ về hình thức thể hiện.

Với những đóng góp to lớn cả về nội dung và nghệ thuật, Truyện Kiều xứng đáng được coi là kiệt tác văn học của dân tộc. Thời gian cứ thế trôi và những gì là thơ, là văn, là tuyệt tác thì luôn còn mãi. Và "Truyện Kiều" cũng vậy.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 13

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai

Đó chính là tâm thế hào hùng, hiên ngang của tuổi trẻ thời kháng chiến chống Mỹ trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Đã có bao tác phẩm ra đời viết về tuổi trẻ thời chống Mỹ, Lê Minh Khuê cũng góp nhặt vào vườn hoa đó một bông hoa ngát hương, mà chỉ vừa nghe cái tên ta đã thấy rực sáng một bầu trời: "Những ngôi sao xa xôi".

Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Những tác phẩm đầu tay của chị ra mắt vào những năm 70, nội dung viết về cuộc sống chiến đấu sôi nổi, hào hùng của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Một số truyện ngắn đã gây được sự chú ý và tình cảm yêu mến của bạn đọc.

Truyện Những ngôi sao xa xôi phản ánh chân thực tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong. Đó chính là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa qua.

Cốt truyện đơn giản, mạch truyện phát triển theo diễn biến tâm trạng của người kể, kết hợp đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Có thể tóm tắt như sau:

Ba nữ thanh niên xung phong làm thành tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Tổ trưởng là chị Thao và tổ viên là hai cô gái trẻ tên Định và Nho. Nhiệm vụ của họ là quan sát máy bay địch ném bom, ước chừng khối lượng đất đá dùng để san lấp hố bom, đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá bom nổ chậm. Công việc hết sức nguy hiểm vì máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Họ phải đối mặt với thần chết trong mỗi lần phá bom, mà công việc này thì lại diễn ra thường xuyên. Các cô gái ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, cách xa đơn vị. Cuộc sống dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng họ vẫn có những niềm vui hồn nhiên, những giây phút thanh thản, mơ mộng. Đặc biệt là ba chị em rất gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính. Ớ phần cuối, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của các nhân vật, chủ yếu là của Phương Định trong một lần phá bom. Nho bị thương đã được đồng đội lo lắng và săn sóc. Cơn mưa đá ở cao điểm khiến cho Phương Định hồi tưởng về tuổi học trò ở Hà Nội: Chao ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thật xa…

Để cho nhân vật chính là Phương Định đứng ra kể chuyện, điều đó phù hợp với nội dung truyện và tạo thuận lợi để tác giả vừa miêu tả, vừa thể hiện đời sống tâm hồn của nhân vật. Truyện viết về chiến tranh nên có những chi tiết, hình ảnh về bom đạn, chiến đấu, hi sinh… nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người.

Ba cô gái sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa một vùng trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ trên tuyến đường Trường Sơn. Công việc của họ rất nguy hiểm vì giữa ban ngày, họ phải phơi mình dưới tầm đánh phá của máy bay địch. Nguy hiểm khôn lường nhưng các cô tự hào về công việc của mình và cái tên gọi mà đơn vị đặt cho là: tổ trinh sát mặt đường. Gắn với cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng ấy là công việc chẳng nhẹ nhàng, đơn giản chút nào.

Định hồn nhiên kể: Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng lóa lên trên khuôn mặt nhem nhuốc. Những lúc đấy chúng tôi gọi nhau là “những con quỷ mắt đen"

Sau mỗi trận bom, các cô phải lao ngay ra trọng điểm, đo đạc và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh từng trái bom để phá. Đó là một công việc mạo hiểm với cái chết, thần kinh luôn căng thẳng, đòi hỏi sự dũng cảm và hết sức bình tĩnh. Nhưng với ba cô gái thì những công việc khủng khiếp ấy đã trở thành bình thường

Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ… Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang.

Đối lập với cảnh tàn khốc do bom đạn giặc gây ra là sự bình tĩnh đến lạ lùng của các cô gái. Cảnh các cô sống trong hang sao mà lạc quan, thơ mộng đến thế: Bên ngoài nóng trên 30 độ, chui vào hang là sà ngay đến một thế giới khác. Cái mát lạnh làm toàn thân run lên đột ngột- Rồi ngửa cổ uống nước trong ca hay trong bi đông. Nước suối pha đường. Xong thì nằm dài trên nền ẩm lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc tử cái đài bán dẫn nhỏ mà lúc nào cũng có pin đầy đủ. Có thể nghe, có thể nghĩ lung tung… hình như ta sắp mở chiến dịch lớn.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 14

Truyện Kiều là một trong những truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong Văn học Việt Nam. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát, gồm 3254 câu. Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm được Nguyễn Du thể hiện một cách nhẹ nhàng mà vẫn sâu sắc vô cùng.

Giá trị nội dung của truyện được thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. Sức mạnh của đồng tiền và số phận những con người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là người phụ nữ. Phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công, phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ.Gia đình nhà Vương Ông đang sống bình yên, chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, thế là cuộc sống yên lành bị phá vỡ, tai hoạ ở đâu ập xuống nhà Kiều. Để từ đó, khiến cho cuộc đời Kiều phải rẽ hướng, hướng đi mới của số phận Kiều nghiệt ngã, đau đớn, tủi hổ vô cùng.

Bên cạnh đó Truyện Kiều còn lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người, đề cao tự do và công lí. Thuý Kiều điển hình cho người phụ nữ trong xã hội xưa, mười lăm năm lưu lạc của nàng là một chuỗi bi kịch. Dường như bao nhiêu nỗi cực khổ của người đàn bà thời trước đều ập xuống vai nàng. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi Kiều bị lừa gạt bị rơi vào lầu xanh tới hai lần, đem thân đi làm lẽ, làm đứa ở, rồi bị đánh đòn, lăng nhục trở thành tội phạm ở công đường, bị sỉ nhục, đày đọa khiến cuối cùng phải tự vẫn. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân .Gia đình nhà Vương ông đang sống yên bình nhưng vì thằng bán tơ tham tiền đã buông lời “vu oan giá hoạ” thế là cả gia đình gặp biến cố lớn, cha và em trai Thuý Kiều vào ngục. Bọn quan sai cũng nhờ cái cớ đó mà tiến vào nhà Kiều cướp phá, đánh đập. Để cứu được cha và em, bọn quan lại yêu cầu ba trăm lạng bạc, Thuý Kiều phải bán thân từ bỏ mối nhân duyên đẹp với Kim Trọng để làm tròn chữ hiếu. Sau đó, Kiều bị bán vào lầu xanh nơi có Tú bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh đều là những người chạy theo đồng tiền, chà đạp lên thân phận người khác nhằm chuộc lợi. Không chỉ Kiều mà biết bao người con gái khác cũng bị chôn vùi tuổi thanh xuân nơi lầu xanh nhơ nhớp ấy. Ngoài ra, giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện ở việc Nguyễn Du tố cáo sự thối nát, mục ruỗng của chính quyền phong kiến, đại diện trong tác phẩm này là Hồ Tôn Hiến và bè lũ sai nha của hắn, chúng lộng quyền, tham lam hơn nữa còn trắc dâm ô tàn bạo.

Đồng tiền khi rơi vào tay kẻ xấu chính là công cụ gây ra tội ác cho “kẻ yếu” hơn. Và Truyện Kiều chính là một bản tự sự đầy nước mắt về cuộc đời người con gái tài sắc Thuý Kiều đang bị chính sức mạnh và sự bất nhân của đồng tiền gây ra.

Nhưng điều khiến tác phẩm này trở thành linh hồn chính là giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du truyền tới người thưởng thức.Thông qua nhân vật chính của tác phẩm là Thuý Kiều, Nguyễn Du muốn thể hiện niềm đồng cảm sâu sắc của ông với những số phận bất hạnh nhất là người phụ nữ. Trong xã hội phong kiến, trọng nam khinh nữ, thân phận người phụ nữ như chỉ mua vui, họ bèo bọt, rẻ rúng. Tuổi xuân của họ của người phụ nữ xinh đẹp như Kiều đáng phải được nâng niu, trân trọng thì nay lại bị những kẻ cậy quyền, tham lam lợi dụng, lừa lọc để làm công cụ kiếm tiền nơi lầu xanh.Nguyễn Du cũng là người “yêu” vẻ đẹp con người. Ông đã tạo dựng thành công hình ảnh chàng Kim Trọng hết mực chung tình với Thuý Kiều, chàng Từ Hải người anh hùng giỏi giang, đầu đội trời, chân đạp đất. Đặc biệt là người con gái thuỳ mị xinh đẹp Thuý Kiều sẵn sàng hi sinh bản thân để giữ trọn nghĩa hiếu. Và qua tác phẩm ta cũng thấy được niềm tin ở hạnh phúc của con người, người tốt thiện lương sẽ luôn được hưởng hạnh phúc còn kẻ ác, tham lam sẽ bị trừng trị thích đáng. Giá trị nhân đạo được thể hiện trước hết là sự trân trọng đề cao con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Mặt khác Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ. Nguyễn Du như khóc cùng tiếng đàn và cuộc đời của Thuý Kiều, ông cũng bày tỏ thái độ trân trọng Kiều cho dù có lúc nàng đã là hạng người dưới đáy của xã hội.

“Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mình về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy trong xã hội mà quan niệm hôn nhân phong kiến còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim Trọng, Thúy Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc. Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng đầy ức chế, tàn bạo. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải – người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả cái xã hội bạo tàn ấy. Từ Hải là khát vọng của công lí, là biểu tượng cho tự do dân chủ. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người: vẻ đẹp tài sắc, trí tuệ thông minh, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, ý thức vị tha, đức thủy chung. Thúy Kiều, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 15

Một trong những áng văn được coi là "thiên cổ kì bút" vừa đặc sắc về nội dung vừa độc đáo về nghệ thuật trong văn học trung đại Việt Nam phải kể đến Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) của nhà văn Nguyễn Dữ. Khi đọc tác phẩm này, có ý kiến cho rằng: Tuy có nhiều yếu tố hoang đường, kì ảo nhưng tác phẩm vẫn có giá trị tố cáo và chứa chan tinh thần nhân đạo sâu sắc.

Tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tổng hợp tất cả những câu chuyện kì lạ trong thế gian đương thời với nội dung phản ánh tình hình xã hội lúc bấy giờ với những rối ren, nhiễu nhương của chế độ quan quyền khiến cho đời sống nhân dân khổ cực, điêu đứng. Bằng cách sử dụng những cốt truyện có sẵn trong dân gian và sự sáng tạo độc đáo, mới mẻ của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tác những câu chuyện không chỉ hấp dẫn bởi nội dung mà còn thu hút bởi yếu tố hoang đường, kì ảo. Truyện ngắn Chuyện người con gái Nam Xương là một trong số câu chuyện nằm trong tập Truyền kì mạn lục, bởi vậy nó là áng văn cổ chứa những nét hoang đường, kì ảo đặc sắc.

Yếu tố hoang đường, kì ảo là những yếu tố không có thật, hư cấu và hoàn toàn do tác giả tưởng tượng nhằm giúp cho câu chuyện thêm thú vị, hấp dẫn, mang màu sắc mới lạ cho việc thể hiện nội dung tư tưởng tác phẩm. Trong phần sau của Chuyện người con gái Nam Xương, khi viết về cuộc sống của Vũ Nương ở thủy cung sau khi quyên sinh dưới dòng Hoàng Giang và sự trở lại dương gian của nàng, tác giả Nguyễn Dữ đã hoàn toàn sáng tạo ra những chi tiết kì ảo nhằm tạo nên giá trị thẩm mĩ đầy mới mẻ cho truyện kể.

Những chi tiết Phan Lang - người cùng làng với Vũ Nương nằm mộng thả rùa, khi bị chết đuối, được cứu, được Linh Phi đãi yến tiệc, tại thủy cung chàng gặp được Vũ Nương, được nghe câu chuyện đầy oan khuất của nàng; nàng được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương gian và hiện về khi Trương Sinh lập đàn giải oan; đặc biệt cảnh Vũ Nương trở về dương thế: "Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện" đều là những yếu tố kì ảo, tưởng tượng mang màu sắc cổ tích vô cùng đặc sắc. Nếu như kết thúc câu chuyện chỉ dừng lại ở việc Vũ Nương trẫm mình xuống dòng sông, Trương Sinh hối hận đã quá muộn, thì truyện sẽ không còn hấp dẫn.

Việc sáng tạo thêm yếu tố cổ tích không chỉ thể hiện tài năng, trí tưởng tượng phong phú của tác giả mà còn mang giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Lời nói của Vũ Nương khi tạ từ chồng: "Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa" và khung cảnh sau khi nàng đi "bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất" đã cho thấy Nguyễn Dữ vô cùng trân trọng tài sắc, vẻ đẹp phẩm hạnh của người phụ nữ này. Vũ Nương khi sống có phẩm chất tốt đẹp và khi mất đi, lúc trở về cũng hiện diện vô cùng đẹp đẽ, điều này chứng tỏ tấm lòng của nàng luôn trinh bạch, trong sạch và dù có ở thế giới nào đi chăng nữa, nàng vẫn giữ được những giá trị cao đẹp nhất của mình. Nhưng tác giả cũng thể hiện nỗi đau xót, niềm thương cảm sâu sắc đối với nhân vật khi những yếu tố kì ảo mang lại màu sắc mới mẻ, cổ tích cho màn trở về của Vũ Nương chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi và hiện thực vẫn mãi là hiện thực, giờ đây âm dương đã cách biệt, hạnh phúc mà bấy lâu nay nàng trân trọng giữ gìn và khao khát cũng theo làn sương khói đó bay đi.

Trong lời nói của Vũ Nương, nàng không trở về là do cảm tạ tấm lòng của Linh Phi nhưng thực chất, lí do quan trọng nhất là xã hội đó đâu có xứng đáng để nàng quay lại, xã hội cường quyền đầy những hủ tục phong kiến đã khiến cho những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn như Vũ Nương phải chịu nỗi bất hạnh, ai oán. Nàng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc nơi trần thế nhưng không được, đành phải gửi bóng mình chốn thủy cung. Nỗi oan của nàng chỉ theo sương khói bay đi trong sự tưởng tượng, chứ nỗi oan trái của người phụ nữ ở xã hội hiện thực với những hủ tục không thể nào giải hết được, cho dù người chồng có lập đàn giải oan, có hối hận nhưng đã quá muộn màng. Lời từ biệt của Vũ Nương hay cũng chính là lời tố cáo đầy đanh thép của tác giả trước chế độ nam quyền đầy bất công, vô lí của xã hội phong kiến lúc bấy giờ.

Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện - mẫu 16

Trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời với bộ mặt giai cấp tàn bạo của những kẻ thống trị mất tính người. Sức mạnh của đồng tiền của danh lợi khiến cho những người phụ nữ khốn khổ trở thành món hàng cho bọn buôn phấn bán hương trong xã hội.

Gia đình nhà họ Vương đang có cuộc sống vô cùng hạnh phúc bình yên nhưng lại bị một người bán tơ vu oan giá họa tai ương ập xuống đầu, khiến cho một gia đình đang hạnh phúc vướng vòng lao lý. Sau khi gia đình xảy ra biến cố bọn quan chức nha sai triều đình đã tranh thủ cướp của nhà Thúy Kiều, chúng đã được một lũ quan lại tham ô dung túng thừa nước đục thả câu vơ vét tiền của của người dân vào túi mình. Tên quan xử kiện cho cha Thúy Kiều cũng là người ăn tiền, lợi dụng chức quyền để kiếm chác.

Sức mạnh của đồng tiền nặng tựa ngàn cân nằm trong tay kẻ tàn bạo, đồng tiền thành một thế lực vô cùng mạnh nó có thể chi phối mọi giá trị đạo đức của con người, làm mất lương tri của một con người. Những người mang chức trách giúp người dân lấy lại đạo lý nhưng lại vì tiền mà bẻ cong công lý. Cuộc sống vốn nhiều nước mắt của con gái tài sắc, mười phân vẹn mười Thúy Kiều bắt đầu dùng sức mạnh, quyền lực để tạo nên thế lực kiếm những đồng tiền dơ bẩn.

Giá trị nhân đạo của của Truyện Kiều thể hiện việc tác giả Nguyễn Du đề cao con người từ phẩm chất, tài năng, ngoại hình cho tới những ước mơ chân thành. Người đọc có thể cảm nhận được là Thúy Vân có vẻ đẹp vô cùng nền nã, đoan trang, hiền thục, thể hiện một con người hiền lành, có cuộc sống vô cùng bình yên hạnh phúc. Còn Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo thể hiện một vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn.

Thúy Kiều cũng là một người có tài năng xuất chúng. Xưa nay phụ nữ đẹp thường ít thông minh và tài năng. Nhưng Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều rất nhiều ưu điểm xưa nay hiếm thấy ở một người phụ nữ. Vương Thúy Kiều có tài năng cầm kỳ thi họa, tài sắc đều mười phân vẹn mười. Với vẻ đẹp một hai nghiêng nước nghiêng thành.

Qua nhân vật Thúy Kiều tác giả Nguyễn Du đã lên án tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo chà đạp lên con người, lên quyền hưởng thụ hạnh phúc của những người con gái tài sắc. Vương Thúy Kiều đã vướng phải mười lăm năm lưu lạc phải rơi vào chốn lầu xanh hết lần này tới lần khác khiến cho cuộc sống của cô sống không bằng chết. Qua mười lăm năm lưu lạc không có gì mà Thúy Kiều chưa trải qua nàng cũng đã tìm cách tự vẫn nhiều lần nhưng đều được cứu giúp.

Từ một cô gái con nhà tiểu thư khuê các Thúy Kiều trở thành hàng hóa để người ta mua bán, trao đổi bị lừa gạt hết lần này tới lần khác, đem thân đi làm vợ lẽ người ta, làm gia nô, rồi bị hành hạ tra tấn đánh đòn. Thúy Kiều bị lăng nhục trở thành tội phạm ở chốn quan trường bị sỉ nhục rơi vào cảnh giết chồng, nỗi oan chồng chất. Cuộc đời Thúy Kiều là một bản cáo trạng tố cáo tội ác của chế độ xã hội xưa. Chính xã hội bất lương đó đã xô đẩy người con gái tài sắc, có đức hạnh, hiếu nghĩa rơi vào hoàn cảnh khó khăn, mất đi hạnh phúc của đời mình chịu cảnh bể dâu phong trần.

Qua Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm của tác giả Nguyễn Du trước những đau khổ của con người nhất là số phận người phụ nữ như Thúy Kiều. Bên cạnh đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể người đọc khắc sâu trong lòng người đọc, bởi giá trị nghệ thuật và giá trị nhân đạo. Trong tác phẩm của ông thể hiện sự tài hoa vô cùng sắc sắc, tinh tế, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật vô cùng sâu sắc.

Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác lừng lẫy, với bút pháp của một nhà thơ thiên tài, nghệ thuật tự sự, thể hiện sự thành công trong sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Thông qua thiên truyện tuyệt tác này tác giả Nguyễn Du thể hiện một giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nó nhằm tố cáo tội ác của một chế độ phong kiến thối nát, mục ruỗng lợi dụng thân xác phụ nữ kiếm tiền.

Tác giả Nguyễn Du thể hiện sự đồng cảm xót xa của mình với người phụ nữ công dung ngôn hạnh, tài sắc vẹn toàn đáng lẽ ra phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Nhưng lại chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống, chịu cảnh lưu vong, cơ cực.

Xem thêm các bài văn mẫu 9 Kết nối tri thức hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 9 hay khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Soạn văn 9 Kết nối tri thức của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Ngữ văn 9 Tập 1 và Tập 2 (NXB Giáo dục).

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 Kết nối tri thức khác
Tài liệu giáo viên