5+ Phân tích Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa (hay, ngắn gọn)
Tổng hợp bài văn Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 1
- Dàn ý Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa
- Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 2
- Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 3
- Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 4
- Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 5
- Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 6
5+ Phân tích Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa (hay, ngắn gọn)
Xem thêm: Dàn ý Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa (hay, ngắn gọn)
Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 1
Ca dao là thể loại văn học dân gian diễn tả chi tiết đầy đủ nhất đời sống tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta. Ca dao đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau trong cuộc sống, nhưng nổi bật hơn cả là ca dao than thân yêu thương tình nghĩa. Đó là những câu hát thể hiện đời sống tình cảm, tiếng hát cất lên từ cuộc đời còn nhiều đắng cay, khổ cực,…
Trước hết, hai bài ca dao đầu tiên viết về chủ đề than thân. Cả hai bài đều mở đầu bằng motip thân em một motip quen thuộc, thường xuất hiện trong ca dao: Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai và Thân em như củ ấu gai/ Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen/ Ai ơi nếm thử mà xem/ Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi. Đây là tiếng than thân của những người phụ nữ, cho thấy số phận chịu nhiều bất hạnh, bất công. Câu thơ mang đến cảm xúc ngậm ngùi, thương cảm cho số phận bất hạnh của những người con gái. Cùng là tiếng than nhưng ở mỗi bài thơ có những nét riêng, không hòa lẫn. Bài thơ thứ nhất, người con gái tự ví mình với tấm lụa đào – miếng vải cao quý, hiếm và rất đẹp. Cô gái ý thức sâu sắc về vẻ đẹp, giá trị của bản thân. Ấy thế nhưng số phận của cô lại hết sức lênh đênh, bị phụ thuộc phất phơ giữa chợ - thân phận lệ thuộc, bị động, không được tự quyết định cuộc đời mình. Ở bài ca dao thứ hai, câu thơ thứ nhất dường như khiến người đọc chưa thể định hướng gì về vẻ đẹp hay phẩm chất của đối tượng. Câu thơ nói lên đặc điểm của củ ấu gai: bên ngoài xấu xí nhưng bên trong trắng trong, đẹp đẽ, đó cũng chính là vẻ đẹp phẩm chất của người con gái. Dù hình thức bên ngoài không hấp dẫn nhưng sức hấp dẫn nằm ở bên trong, ẩn sâu. Để tìm được vẻ đẹp ấy cần có con mắt tinh tế, tấm lòng thấu hiểu. Câu thơ cuối như một lời mời gọi, lời nói tha thiết, thể hiện mong mỏi của cô gái: Ai ơi, nếm thử mà xem/ Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi. Đằng sau lời đề nghị còn ẩn chứa cả một bi kịch: chính vì vẻ đẹp khuất lấp nên giá trị thực không có nhiều người nhận ra, trở thành vô giá trị trong mắt người khác. Qua đó tác giả dân gian đã khắc họa nỗi đau của người phụ nữ: xã hội không cho người phụ nữ thể hiện giá trị thực của mình. Từ bi kịch của hai cô gái trong bài ca dao, họ đã cất lên tiếng nói tố cáo xã hội: không cho họ quyết định cuộc đời, không cho họ thể hiện giá trị của mình, xã hội đã kiềm tỏa, khống chế người phụ nữ khiến họ không được hưởng hạnh phúc. Đồng thời còn cất lên lời ca ngợi và thể hiện thái độ trân trọng với vẻ đẹp của người phụ nữ.
Những bài ca dao còn lại thuộc chùm ca dao yêu thương tình nghĩa. Nhưng mỗi bài ca dao lại có cách thể hiện rất riêng, rất đặc sắc, biểu hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của nhân vật trữ tình. Bài ca dao thứ ba thể hiện tình nghĩa bền vững sắt son dù duyên kiếp không thành. Bài ca dao cũng bắt đầu bằng một motip quen thuộc Trèo lên đây là motip dùng để diễn tả những hành động trái với tự nhiên. Ở đây để diễn tả những cảm xúc xáo trộn, bất an trong tâm hồn của các chàng trai khi lỡ duyên, thất tình. Bài thơ sử dụng hàng loạt câu hỏi tu từ kết hợp với đại từ phiếm chỉ ai, đã xoáy sâu tố cáo các thế lực, đối tượng gây nên nỗi đau khổ của chàng trai, cũng tức là gây nên sự chia cắt tình yêu của đôi lứa, và đó không gì khác chính là những hủ tục, bất công, ngang trái của xã hội phong kiến. Hình ảnh ẩn dụ: mặt trăng – mặt trời ; sao hôm – sao mai, nhưng một lời khẳng định, nhấn mạnh dù chúng ta không thể nào trùng phùng, không thể đến được với nhau như mặt trăng và mặt trời, như sao hôm và sao mai thế nhưng chúng ta vẫn tương xứng trong vẻ đẹp vĩnh hằng. Và câu thơ cuối, nhân vật trữ tình đã khẳng định lòng thủy chung son sắt của mình: Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời. Bài thơ là lời khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt, gắn bó đồng thời lên án, tố cáo những hủ tục đã chia rẽ tình yêu đôi lứa.
Bài ca dao thứ tư lại diễn tả một cung bậc cảm xúc khác nữa của tình yêu chính là nỗi nhớ. Bài có cấu trúc khác so với những bài thơ trên, đó là sự kết hợp giữa thể vãn bốn và thể lục bát, giúp thể hiện rõ hơn tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của nhân vật. Tác giả đã kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, hoán dụ, câu hỏi tu từ và các biểu tượng khăn đèn, mắt cho thấy nỗi nhờ thường trực, da diết khắc khoải của cô gái với người mình yêu thương. Nỗi nhớ của nhân vật trữ tình được thể hiện kín đáo qua các vật dụng quen thuộc: khăn, đèn nhưng trạng thái của sự vật không tĩnh tại mà liên tục biến đổi: rơi xuống, vắt lên, chùi nước mắt,… cho thấy nỗi nhớ bồn chồn, khắc khoải của những kẻ đang yêu. Nỗi nhớ mong ấy còn được biểu hiện qua hàng loạt các câu hỏi: Đèn thương nhớ ai; Mắt thương nhớ ai. Dường như nỗi nhớ lúc này đã không thể kìm nén mà bật thành tiếng lòng thổn thức, khắc khoải nhớ thương: đèn không tắt vì nhớ thương, mắt ngủ không yên vì đèn, khăn cũng đang thao thức, đây chính là hình ảnh, biểu hiện cụ thể nhất của tình yêu đôi lứa. Hai câu thơ kết là những âu lo, dự cảm của cô gái: Đêm qua em những lo phiền/ Lo vì một nỗi không yên một bề. Cô lo lắng, bất an, dự cảm về những bất trắc vì người con gái không được tự quyết định tương lai, hạnh phúc của mình. Những vẫn thơ đã chứng tỏ tình yêu chân thành, tha thiết, khắc khoải của cô gái với người mình yêu.
Bài ca dao thứ năm thể hiện những mong muốn mãnh liệt trong tình yêu: “Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”. Câu thơ sử dụng hình ảnh biểu tượng quen thuộc: dòng sông – cây cầu. Dòng sông biểu tượng cho sự cách trở. Cây cầu là biểu tượng cho sự vượt lên cách trở để đến được với nhau trong tình yêu. Điều ước của cô gái thật chân thực mà vô cùng đáng yêu: Sông rộng một gang, dòng sông chỉ xuất hiện trong tưởng tượng, trong mong ước của cô gái. Ước muốn rằng khoảng cách của hai ta, những cách trở của đôi mình được rút ngắn một cách tối đa. Cầu dải yếm – để tương xứng với dòng sông rộng một gang. Cây cầu này là biểu tượng vượt lên những cách trở. Đây cũng là sản phẩm của trí tưởng tượng của cô gái. Nói lên ước muốn của cô gái – muốn rút ngắn khoảng cách: khoảng cách về mặt địa lí, khoảng cách của trái tim, vượt qua những ngáng trở để đón nhận tình yêu.
Bài ca dao cuối cùng không thể hiện những cảm xúc mãnh liệt, nỗi nhớ nhung trong tình yêu nữa mà thể hiện tình nghĩa gắn bó thủy chung của vợ chồng. Câu thơ sử dụng hình ảnh biểu tượng quen thuộc: muối – gừng, để nói về nghĩa tình sâu nặng, bền chặt, sự thủy chung, gắn bó của vợ chồng. Ngoài ra tác giả còn sử dụng biện pháp lặp cấu trúc: Muối ba năm muối đang còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay, cho thấy sự bền chặt của nghĩa tình vợ chồng. Bài ca dao là lời khẳng định, ngợi ca nghĩa tình vợ chồng gắn bó thủy chung, sâu nặng.
Các bài ca dao sử dụng các motip quen thuộc: thân em, trèo lên, ước gì kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,… giúp diễn tả tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình. Ngôn ngữ chọn lọc, giàu giá trị biểu cảm. Hình ảnh giàu giá trị biểu tượng. Nhịp thơ chủ yếu là 2/2/2 êm ái, dịu dàng diễn tả được đa dạng các cung bậc cảm xúc khác nhau của nhân vật.
Những bài ca dao trên đã bộc lộ một cách chân tình và sâu sắc nỗi niềm chua xót, đắng cay trong cuộc sống và tình yêu; tình cảm yêu thương, chung thủy của người bình dân trong xã hội cũ. Qua đó giúp người đọc biết thấu hiểu và cảm thông hơn với những đau khổ mà người lao động bình dân trong xã hội xưa phải gánh chịu, đặc biệt là người phụ nữ và hơn nữa biết trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của họ.
Dàn ý Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa
1. Mở bài
- Dẫn dắt từ kho tàng văn học dân gian của Việt Nam.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.
2. Thân bài
Phân tích nội dung, nghệ thuật từng bài ca dao:
* Bài ca dao số 1: "Thân em như tấm lụa đào... tay ai?"
- Mô típ quen thuộc trong chùm ca dao than thân của dân gian.
- Nội dung:
+ Hình ảnh "tấm lụa đào": Tượng trưng cho vẻ đẹp, sự trẻ trung phơi phới của người con gái mới lớn, đến tuổi cập kê
=> "Thân em như tấm lụa đào": Cô gái ý thức được vẻ đẹp, giá trị của bản thân.
+ "Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai": Sự vô định, mông lung, không được quyền quyết định số phận của mình; sự băn khoăn không biết số phận của mình sẽ đi về đâu.
=> Thái độ của dân gian:
+ Trân trọng người phụ nữ, chua xót, cảm thông trước số phận hẩm hiu của họ.
+ Tố cáo, phê phán xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống, quyền được hạnh phúc của con người.
- Nghệ thuật: So sánh, ẩn dụ "tấm lụa đào", "chợ"; sử dụng từ láy "phất phơ"; câu hỏi tu từ "biết vào tay ai".
* Bài ca dao số 2: "Thân em như củ ấu gai... ngọt bùi"
- Vẫn là mô típ "thân em" như bài ca dao số 1.
- Nội dung:
+ "Thân em như củ ấu gai... vỏ ngoài thì đen": Lời tự khẳng định giá trị và phẩm chất của bản thân.
+ "Không tin... ngọt bùi": Lời mời gọi táo bạo, tha thiết.
=> Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ; đồng cảm với số phận bất hạnh và niềm khát khao hạnh phúc của họ; gián tiếp tố cáo xã hội phong kiến bất công, chà đạp lên quyền hạnh phúc của người phụ nữ.
- Nghệ thuật: So sánh, ẩn dụ "củ ấu gai", "ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi".
* Bài ca dao số 3: "Trèo lên cây khế... chờ trăng giữa trời"
- Nội dung:
+ "Trèo lên cây khế nửa ngày": Hành động lạ => Diễn tả tâm trạng của chàng trai xót xa đến ngẩn ngơ.
+ "Ai làm... khế ơi": Lời tỏ bày trực tiếp của chàng trai.
=> Sự xót xa, đau khổ của chàng trai khi tình duyên lỡ làng, bị chia cắt.
+ Hình ảnh tương phản: Mặt trăng - mặt trời; sao Hôm - sao Mai
=> Tình yêu đầy trắc trở, ngăn cách giữa chàng trai và người yêu.
+ "sao Vượt chờ trăng": Tấm lòng thủy chung, son sắt không gì có thể đổi thay của chàng trai.
=> Ngợi ca sự thủy chung của những chàng trai trong tình yêu; gián tiếp tố cáo những hủ tục phong kiến chia cắt tình yêu đôi lứa.
- Nghệ thuật: Ẩn dụ, so sánh; câu hỏi tu từ; nghệ thuật đối lập, tương phản,...
* Bài ca dao số 4: "Khăn thương nhớ ai... không yên một bề"
- Nội dung:
+ Những cung bậc cảm xúc, nhớ thương da diết; sự đau đớn, xót xa; nỗi ưu tư, thao thức, bất an của người con gái trong tình yêu.
+ Ca ngợi vẻ đẹp trong tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam; kín đáo phê phán xã hội đối xử bất công với họ.
- Nghệ thuật:
+ Các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng: "khăn, đèn, mắt"
+ Sử dụng các cặp động từ, tính từ mang tính tương phản: "rơi - vắt", "lên - xuống"
+ Dấu chấm lửng cuối bài ca dao: Tạo kết thúc mở, chiều sâu cho tác phẩm.
* Bài ca dao số 5: "Ước gì.. sang chơi"
- Nội dung: Sự táo bạo, đầy chủ động nhưng cũng rất ý nhị, duyên dáng của người con gái khi yêu.
- Nghệ thuật: Hình ảnh ẩn dụ:
+ "sông": Sự cách trở, ngăn cách tình yêu đôi lứa.
+ "cầu dải yếm": Sự ý nhị, duyên dáng nhưng cũng rất táo bạo của người phụ nữ.
* Bài ca dao số 6: "Muối ba năm... mới xa"
- Nội dung: Ca ngợi tình cảm vợ chồng bền chặt, thủy chung, đồng cam cộng khổ không bao giờ chia lìa.
- Nghệ thuật:
+ Đại từ xưng hô "đôi ta": Chỉ đôi lứa/ vợ chồng.
+ Hình ảnh ẩn dụ: "Muối, gừng".
+ Hình ảnh hoán dụ: "Ba vạn sáu nghìn ngày".
+ Thành ngữ "nghĩa nặng tình dày".
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của những bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa.
- Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân khi đọc những bài ca dao đó.
Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 2
Trong kho tàng ca dao truyền thống của ta, bộ phận nói về chủ đề than thân của người phụ nữ chiếm một tỉ lệ rất lớn và trong đó, đáng chú ý nhất là loại bài ngắn (hai câu lục bát hoặc bốn câu). Đó là một trong những mảng ca dao hay nhất, giàu ý nghĩa xã hội và cũng giàu chất ca dao nhất. Chúng thường được mớ đầu bằng những mô típ truyền thống quen thuộc: "Em như..." hoặc "Thân em...". Đọc qua hoặc nghe qua thì thấy chúng có dáng dấp bề ngoài hao hao giống nhau, nhưng đi sâu vào từng bài cụ thể thì sẽ thấy mỗi câu, mỗi bài đều có những nét riêng không lặp lại về nội dung cũng như về nghệ thuật:
"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?"
Đây là niềm băn khoăn của cô con gái mới lớn, bước vào tuổi lấy chồng. Hình ảnh tấm lụa đào lộng lẫy tượng trưng cho nhan sắc và tuổi xuân phơi phới của người con gái đến tuổi dậy thì, chứng tỏ người con gái ý thức được rất rõ giá trị của mình. Nhưng đây không phải là tấm lụa đào cất trong rương, vắt trong nhà mà đem bán giữa chợ: phất phơ giữa chợ. Cô gái thấy mình đến tuổi gả bán. Trong điều kiện chưa có hôn nhân tự do, mà do mai mối đưa đường, người con gái cảm thấy như là đang ở giữa chợ. "Biết vào tay ai" là một băn khoăn, không phải sợ ế, sợ rẻ, mà chỉ sợ người chủ tương lai của đời mình sẽ thế nào. Đó cũng là câu hỏi của mọi cô gái đến tuổi lấy chồng, một băn khoăn rất thật, rất người.
"Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Không tin bóc vỏ mà xem
Ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi".
Người con gái trong bài này lại có tâm trạng lo lắng khác. Cô tự biết phẩm chất của mình thơm thảo, ngọt ngào, nhưng hình như cô có bề ngoài không lấy làm hấp dẫn cho lắm, cô phải tự giới thiệu, chào mời và hứa hẹn về phẩm chất của mình.
"Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Mặt trăng sánh với mặt trời,
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng
Mình ơi có nhớ ta chăng?
Ta như sao vượt chờ trăng giữa trời".
Người con gái trong bài này đã có người yêu, hai người đã khá tương xứng, đẹp đôi như mặt trăng sánh với mặt trời, sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng. Nhưng anh chàng hình như có gì trục trặc, giống như thay lòng đổi dạ. Nhưng người con gái thì kiên định chờ đợi một lòng.
Ca dao than thân, tình nghĩa là bách khoa thư về hàng nghìn, hàng vạn tâm trạng, số phận con người. Bài Khăn thương nhớ ai nói nỗi lòng tương tư nhớ thương bạn tình qua hình ảnh chiếc khăn, ngọn đèn, con mắt đã làm xúc động bao người. Hoài Thanh có lần nói, nếu chì hai câu sau: Mắt thương nhớ ai mà mắt không yên thì ta đã thấy hay rồi, nhưng là loại hay có thể hiểu được. Còn như hai câu đầu thì hay đẽn mức cơ hồ không hiểu được, không rõ hẳn là nói gì mà vẫn thấy hay. Tôi xem là một trong những câu ca dao hay nhất Việt Nam. Ca dao tương tư rất nhiều và cũng rất đa dạng. Chữ thương, chữ nhớ nói đi nói lại mãi vẫn cứ là mới và không lặp lại. Đây là bài ca dao rất độc đáo, nội dung và nghệ thuật của nó không trùng với bất kì bài ca dao nào khác. Ở đây hai từ thương, nhớ được dùng liền nhau, gắn với từ ai tạo thành một cụm từ điệp và điệp đến năm lần mà mỗi lần nghe đều thấy hay, không biết chán. Bởi vì cụm từ "thương nhớ ai" được gắn với một chủ thể riêng. Các chủ thể Khăn, đèn, mắt tuy khác nhau ahưng đều là một, cáu hỏi thay đổi nhưng câu trả lời thì vẫn giữ nguyên. Khi người ta yêu, mọi vật xung quanh như đều cùng yêu thương và thổn thức cả. Cái hay của bài này là ở đó. Thương, nhớ đều có nghĩa là yêu, nhưng nhớ là yêu mà xa cách, mà xa cách thì lo lắng không yên là rất dễ hiểu: Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi chưa yên mọi bề.
"Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi".
Sinh ra trong một nước có nhiều sông ngòi, kênh rạch, hoàn cảnh tự nhiên cũng tác động đến tư duy con người. Nhưng cái ước vọng sông rộng một gang tay thì thật là chưa đâu có. Bởi độ rộng con sông phải tương xứng với vật liệu xây đắp cái cầu là cái dải yếm. Trong ca dao đã có cầu tre, cầu ván, cầu xây, có cầu cành hồng, cầu mồng tơi, cầu sợi chỉ... nhưng độc đáo nhất bài này là cầu dải yếm. Khi thiết kế ra chiếc cầu dải yếm, cô gái kiến trúc sư Việt Nam hẳn đang độ tuổi mười tám, đòi mươi, tình yêu vừa chớm, sức tưởng tượng dồi dào. Chiếc cầu này chỉ tồn tại trong tưởng tượng, trong ước vọng thầm kín giữa chàng và em, chỉ bắc riêng cho chàng sang chứ không cho mọi người, không phải là cầu công cộng. Đó là chiếc cầu tình yêu. Tình yêu luôn luôn đầy sáng kiến và sáng tạo, nó đẻ ra cái cầu kì diệu.
"Muối ba năm muối vẫn còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu nghìn ngày mới xa".
Trong ca dao Việt Nam thường nói tới gừng cay, muối mặn khi nói về tình nghĩa. Muối không chỉ là khoáng chất thiết yếu của sự sống mà còn là thứ gia vị quý giá của thức ăn, có muối mới được đậm đà. Muối biểu tượng cho sự mặn mà, tình nghĩa. Người Nga đón khách quý thì đem bánh mì và muối ra mời khách nêm, coi như người trong một nhà. Gừng là biểu tượng của mọi sự cay đắng của cuộc đời. Gừng cay muối mặn tượng trưng cho cuộc đời cay đắng, ngọt bùi có nhau. Hai câu đầu bài ca dao nêu ra hai câu khởi hứng, vừa ẩn dụ, khẳng định vị mặn và vị cay vẫn có sức bền những ba năm, chín tháng. Cũng ví như "Đôi ta nghĩa nặng tình dày, Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu nghìn ngày mới xa". Ba vạn sáu nghìn ngày tức là trăm năm, cũng tức là suốt đời, "bách niên giai lão". Nói ba vạn sáu nghìn ngày không đơn giản chỉ vì cho hiệp vần, mà còn có ý nói tình đôi ta không phải tính năm, mà tính từng ngày, chúng ta yêu nhau từng ngày, có tính từng ngày thì mới ro được tình của ta. Nói mới xa mà thực là không xa hay nói cách khác chỉ đến chết mới cách xa.
Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa của Việt Nam thật phong phú, đa dạng. Chỉ tìm hiểu sơ sơ có sáu bài mà ta đã thấy biết bao tâm trạng của con người, biết bao khát vọng, lí tưởng, còn thấy được cái đẹp của biết bao hình ảnh, từ ngữ tài tình mà người bình dân đã sáng tạo ra. Đó là mảng ca dao chẳng những nuôi dưỡng cho ta những tình cảm đẹp đẽ, sâu sắc, đậm đà tính chất dân tộc, mà còn là cả một kho tàng nghệ thuật ngôn từ độc đáo đến bất ngờ, đủ cho ta yêu mến, khâm phục, kích thích ta sáng tạo.
Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 3
Trong kho tàng văn học dân gian đồ sộ của Việt Nam ta bên cạnh những câu truyện cổ tích nhiệm màu, những truyền thuyết xa xăm thì ca dao là một trong những thể loại chiếm số lượng nhiều nhất, đồng thời cũng có phạm vi đề tài rộng lớn. Không chỉ bộc lộ tấm lòng, tâm hồn của người lao động về tình cảm gia đình, quê hương, đất nước, tình cảm lứa đôi mà các thể loại ca dao trữ tình, có vần có nhịp gần như những câu hát còn nói lên những đắng cay, xót xa của con người dưới chế độ cũ, đồng thời cũng có một số câu là lời ca hóm hình, tươi vui đầy lạc quan về cuộc đời, dẫu còn nhiều khó khăn vất vả. Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa là một trong những thể loại chiếm số lượng lớn, bộc lộ vô cùng rõ nét đời sống tinh thần của người Việt xa xưa, đặc biệt là của người phụ nữ.
Có thể nói rằng ca dao than thân là thể loại văn học dân gian đặc biệt được đặc cách dành riêng cho người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, mà ở đó họ được tự do thể hiện cảm xúc, thể hiện những xót xa, đớn đau trong cuộc đời, và cả những nỗi niềm khao khát hạnh phúc mà không phải e ngại, dè chừng. Thông qua ca dao than thân người ta biết được nhiều tiếng nói, nhiều số phận, nhiều cuộc đời, và cả những nỗi bất công mà kiếp đàn bà phải gánh chịu. Ca dao đã trở thành một cánh cửa để người phụ nữ giải phóng tâm hồn mình, bởi tính dễ làm, dễ nhớ, dễ thuộc, không cần học vấn uyên thâm như Hồ Xuân Hương người ta vẫn có thể thốt ra những câu ca dao thật hay, thật ý nghĩa với những hình ảnh giản dị, mang đậm phong thái dân gian. Ví như câu hát dưới đây:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ được ví với hình ảnh “tấm lụa đào”, đó là một hình ảnh rất hay và vô cùng sâu sắc, nó khá tương tự với cái cách mà Hồ Xuân Hương ví người phụ nữ với “bánh trôi nước”. Tấm lụa đào là một vật phẩm đẹp đẽ quý giá, mềm mại, lụa đào là biểu trưng cho sự xuân sắc, kiều diễm của người con gái. Thế nhưng đọc câu ca dao người ta lại bỗng thấy xót xa, đau đớn khi số phận của người phụ nữ lại được ví như một tấm lụa, một loại hàng hóa, dẫu có đẹp đẽ trân quý, nhưng cuối cùng cũng chỉ là một món hàng mặc sức cho người ta lựa chọn, ngã giá không hơn. Thân phận đàn bà khi ấy rất đúng với câu “phất phơ giữa chợ, biết vào tay ai”, bởi họ nào được phép lựa chọn hạnh phúc cuộc đời mình, cũng lạc lõng bơ vơ giống hệt cái bánh trôi của bà chúa thơ Nôm “bảy nổi ba chìm với nước non”, phải chấp nhận “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”, phải phụ thuộc vào lễ giáo xã hội cũ, với tư tưởng trọng nam khinh nữ sâu sắc. Như vậy từ câu ca dao trên có thể nhận ra rằng người phụ nữ xưa đã có ý thức rất rõ về vẻ đẹp cả về tâm hồn lẫn ngoại hình của mình, thế nhưng đắng cay thay xã hội phong kiến bất công đã chèn ép, không cho họ được tự do, phóng khoáng, khiến cuộc đời của biết bao nhiêu kiếp hồng nhan phải chịu cảnh tủi nhục, ngẫm mà không khỏi xót thương, cảm thán.
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm ra mới biết là em ngọt bùi”
Đây cũng là một câu ca dao than thân, nhưng nó mang những ý nghĩa kín đáo hơn nhiều, vẫn biết ông bà ta thường có câu “cái nết đánh chết cái đẹp”, thế nhưng cuộc đời nào phải ai cũng nghĩ như vậy. Dưới chế độ phong kiến hà khắc, kẻ có nhan sắc cũng chưa chắc có được một cuộc đời sung sướng, vậy thì những người phụ nữ bất hạnh kém đi vài phần tư sắc lại càng trở nên thiệt thòi hơn cả. Thế nhưng họ không chịu chấp nhận số phận ấy, họ ý thức được giá trị bản thân, vẫn khao khát được yêu thương một cách sâu sắc, khi tự ví mình là “củ ấu gai”, tuy vỏ ngoài thì đen đúa xấu xí, thế nhưng bên trong lại “ngọt bùi”, trắng trẻo. Hình ảnh ấy chính là lời ẩn dụ sâu sắc của người phụ nữ về vẻ đẹp tâm hồn đáng quý bên trong cái vỏ ngoài có phần khiếm khuyết, không được bắt mắt của mình. Câu ca dao thể hiện những nỗ lực trong việc tìm kiếm hạnh phúc, đề cao vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ xưa bên cạnh nhan sắc mỹ miều. Đồng thời người ta cũng có thể cảm nhận được ở đây phảng phất có sự hờn trách, tủi hổ về thân phận đàn bà, về người phụ nữ thiếu đi chút phần tư sắc trong xã hội cũ.
“Trèo lên cây khế nửa ngày,
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.
Mình ơi! Có nhớ ta chăng?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”
Khác với hai bài ca dao trên thì ở bài này người ta lại dễ dàng nhận ra bóng hình của một chàng trai mang nỗi niềm tương tư sâu sắc với người con gái mình yêu. Hình ảnh “trèo lên cây khế nửa ngày” là một hình ảnh khá độc đáo và khác lạ, chính cái khác lạ, vô lý ấy đã đem đến cho chúng ta những lý giải chính xác về tâm hồn của chàng trai, yêu đến mức ngẩn ngơ thần hồn. Nỗi lòng không biết tỏ cùng ai đành chỉ biết tâm sự cùng cây khế “ai làm chua xót lòng này khế ơi”. Người ta cứ ngỡ anh chàng ngớ ngẩn này đang hỏi tại sao khế chua, nhưng thực tế là anh đang tự xót xa cho bản thân mình, đang bộc lộ cái niềm xót xa, chua chát của mình khi đối mặt với tình yêu. Vậy đó là một tình yêu như thế nào mà khiến chàng trai có vẻ vật vã, xót xa đến vậy? Trả lời rằng đó là một tình yêu ứng với hình tượng “mặt trời” và “mặt trăng”, ứng với “sao hôm” và “sao mai”, vốn đều là những hình ảnh tượng trưng cho sự xa cách, trắc trở, không thể đến với nhau. Yêu đương mà không được gặp nhau, không được gần nhau, cứ mãi xa cách, mãi chỉ nhớ vì nhau trong vô vọng thì có lẽ chính là sự giày vò kinh khủng nhất, không cách gì nguôi ngoai được. Thế nhưng chàng trai cũng chẳng từ bỏ, vẫn cố gắng tựa như vì sao Vượt, cố đợi chờ trăng lên, thế nhưng trái ngang sao, dẫu sao đã vò võ chờ ở đỉnh trời mà trăng kia mới đủng đỉnh chậm rãi mọc lên, không khỏi khiến lòng người xót xa. Trước sự ngăn cách, chia phôi, trước muôn ngàn khó khăn, nhưng có lẽ đắng cay nhất vẫn là sự thờ ơ của người con gái ấy chàng trai đã không cầm lòng được mà phải thốt lên “Mình ơi, có nhớ ta không?” để bộc lộ tình cảm, để bộc lộ những đắng cay mà bản thân phải chịu đựng, đồng thời cũng trông chờ đáp án của người trong mộng.
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề…”
Cũng tương tự như bài ca dao trên, đây cũng là bài thể hiện nỗi nhớ sâu sắc trong tình yêu, nhưng là tình yêu của người con gái với tình nhân. Thương nhớ đến mức thẫn thờ “đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” như lời Nguyễn Khoa Điềm viết, rồi nhớ thương đến mức nước mắt đã đẫm khăn tay, chong đèn chờ sáng, thao thức không yên. Có lẽ đó chính là nỗi lo lắng, không yên điển hình của mỗi người phụ nữ trong xã hội phong kiến, yêu thương ai đó thật lòng, nhưng biết dạ họ ra sao, cũng là nỗi sợ vụt mất tình yêu, vụt mất hạnh phúc, đâm ra cứ quanh quẩn bên cái lo sợ được mất thành ra nhiều cớ sự.
“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”
Cũng nói về tình yêu, nhưng ở câu ca dao này nỗi nhớ nó được thể hiện một cách bạo dạn, phóng khoáng và tình tứ hơn so với hai bài ca trên rất nhiều. Cái tình yêu ở đây, nỗi nhớ ở đây nó mãnh liệt đến mức người con gái có những suy nghĩ hết sức hoang đường, bởi có dòng sông nào chỉ rộng tày gang, lại có dải yếm nào bắc thành cầu được. Cuối cùng có thể tóm gọn lại cả ba bài ca dao tôi vừa phân tích nó đều thể hiện niềm khao khát mãnh liệt được ở bên người mình yêu, được gần gũi, là khát khao hạnh phúc lứa đôi rất chân thực được bộc lộ qua những hình ảnh bình dị, thân thuộc, qua lối nói có phần bông đùa hóm hỉnh. Mà ở đó ta thấy được nhiều cung bậc cảm xúc của tình yêu, có xót xa cay đắng, có lo lắng, ưu phiền, có nồng nàn, mãnh liệt, và bao trùm lên tất cả ấy là nỗi nhớ đặc trưng của tình yêu, thể hiện đời sống nội tâm vô cùng phong phú của ông cha ta trong xã hội cũ.
“Muối năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Đây là một câu hát rất đặc biệt về tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng sắt son, chung thủy, thông qua hai hình ảnh kinh điển là gừng cay, muối mặn. Vị cay của gừng chính là biểu tượng của những đắng cay trong cuộc đời mà con người ta đã cùng nhau vượt qua trong bao nhiêu năm tháng, còn vị mặn của muối có thể lý giải một cách đơn giản đó có là tình cảm mặn nồng giữa hai vợ chồng được xây dựng từ những năm tháng tân hôn, hoặc cũng có thể là vị mặn của giọt mồ hôi qua những ngày chung lưng đấu cật, phấn đấu vì gia đình. Ngoài ra gừng và muối còn là hai loại gia vị không thể thiếu và rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt gia đình, gừng mang vị cay, tính ấm, góp phần làm tình cảm gia đình thêm ấm cúng, muối vị mặn tính hàn có tác dụng trung hòa, làm bữa cơm thêm phần đậm đà, ngon ngọt. Hay đôi khi ta có thể ví gừng là tượng trưng cho người chồng, muối là người vợ, sự phối hợp của cả hai là nên một gia đình hạnh phúc đầm ấm. Tóm lại dù là cách hiểu nào, hai hình ảnh gừng và muối đều là tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng sâu sắc, thủy chung, thiết tha, nồng đượm, khẳng định bằng câu kết “Đôi ta nghĩa nặng tình dày/Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”. Người ta tinh ý có thể phát hiện ra rằng “ba vạn sáu ngàn ngày” chính là khoảng thời gian một trăm năm, mà theo quan niệm của người xưa chính là một kiếp người, như vậy có thể hiểu rằng tình cảm vợ chồng ở đây gắn bó sâu nặng, mà chỉ có cái chết mới có thể chia lìa.
Tổng kết lại những câu hát than thân, yêu thương tình nghĩa đã bộc lộ rõ nét những vẻ đẹp, những nét đặc sắc trong đời sống tâm hồn, tình cảm của ông cha ta từ ngàn xưa, bên cạnh lũy tre làng, con trâu, giếng nước, gốc đa, sân đình. Với cách sử dụng câu từ độc đáo, thể thơ lục bát của dân tộc, cùng với những hình ảnh ẩn dụ gần gũi thân thuộc, nhưng không kém phần sâu sắc, đã mang cho thể loại này những nét độc đáo cả về nội dung lẫn hình thức, đặc biệt là sự dễ nhớ, dễ thuộc, dễ đi vào lòng người.
Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 4
Trong kho tàng ca dao truyền thống của Việt Nam ta có một bộ phận chiếm tỉ lệ lớn chủ đề về than thân của người phụ nữ. Đó là một mảng ca dao hay và giàu ý nghĩa xã hội nhất, các câu mở đầu thường là “Thân em…”, “Em như…”, nghe qua có vẻ giống nhau nhưng khi tìm hiểu thật kĩ chúng ta mới thấy mỗi câu mỗi bài đều có nét riêng cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
Bài ca dao đầu tiên là niềm băn khoăn của một người con gái mới lớn khi bước vào tuổi lấy chồng:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Hình ảnh tấm lụa đào chính là hiện thân cho vẻ đẹp nhan sắc, tuổi xuân phơi phới của người con gái đến tuổi dậy thì, người con gái đã ý thức rất rõ về giá trị của mình. Tuy nhiên tấm lụa đào ấy lại không phải được cất trong rương báu hay vắt trong nhà mà đang được đem bán giữa chợ. Trong thời buổi hôn nhân không được tự do, phụ thuộc cha mẹ gả bán và mai mối đưa đường nên người con gái cảm giác mình đang ở giữa chợ, băn khoăn và sợ rằng không biết chủ của mình sẽ là người như thế nào chứ không phải sợ ế, sợ rẻ.
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen
Không tin bóc vỏ mà xem
Ăn rồi mới biết rằng em ngọt bùi”
Trong bài ca dao này, người con gái lại có tâm trạng lo lắng cho thân phận mình. Dù cô biết rằng phẩm chất của mình thơm ngọt, thảo bùi nhưng vì vẻ ngoài của cô không được hấp dẫn cho lắm nên cô đành phải tự giới thiệu, chào mời và hứa hẹn về phẩm chất của mình. Người con gái muốn được công nhận giá trị của mình nhưng vẫn đầy tự ti, lời mời mọc ấy còn đầy ngượng ngùng.
“Trèo lên cây khế nửa ngày…
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”
Bài thơ trên nói về người con gái đã có người yêu, hai người đã tương xứng hợp nhau như mặt trăng mặt trời, sao Mai với sao Hôm. Nhưng người con trai dường như có sự thay lòng đổi dạ, trong khi đó người con gái kiên định một lòng chờ mong. Tiếp theo đó là bài “Khăn thương nhớ ai”, đã nói lên nỗi lòng tương tư thương nhớ bạn tình qua hình ảnh chiếc khăn, ngọn đèn và đôi mắt. Chữ thương chữ nhớ trong ca dao nói chung và trong bài ca dao này nó riêng luôn có những nét mới, dù có lặp đi lặp lại những vẫn không thấy giống nhau. Bài ca dao này cũng có nội dung và nghệ thuật không giống với bất kì bài ca dao nào khác, “thương” và “nhớ” kết hợp với nhau, điệp đi điệp lại mà nghe hoài không chán. Khi người ta đang yêu, mọi vật xung quanh dường như cũng trở nên thân thương và thổn thức cả.
“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”
Chiếc cầu này chỉ có trong tưởng tượng mà thôi, trong những ước vọng thầm kín giữa hai người yêu nhau, đó là chiếc cầu tình yêu, tình yêu luôn mới mẻ và đầy sáng tạo, nó tạo ra một cây cầu kì diệu. Rồi hình ảnh gừng cay – muối mặn biểu tượng cho tình nghĩa sắt son trước những đắng cay của cuộc đời, “ba vạn sáu nghìn ngày” cũng ý nói sống với nhau cho tới đầu bạc răng long, yêu nhau từng ngày.
Mảng ca dao thân thân yêu thương tình nghĩa đã nuôi dưỡng cho ta những tình cảm sâu sắc đẹp đẽ, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời kho tàng nghệ thuật ngôn từ độc đáo đã kích thích lòng yêu mến và sự sáng tạo của chúng ta.
Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 5
Trong kho tàng văn học dân gian đồ sộ của Việt Nam, ngoài những câu chuyện cổ tích màu mè, truyền thuyết xa xăm, ca dao là một thể loại chiếm số lượng đáng kể, cũng như có phạm vi đề tài rộng lớn. Không chỉ khám phá tấm lòng, tâm hồn của người lao động về tình cảm gia đình, quê hương, đất nước, tình cảm lứa đôi, mà còn trong các thể loại ca dao trữ tình, có vần, nhịp như những bản hát, thể hiện những đắng cay, xót xa của con người dưới chế độ cũ. Cùng với đó là những câu ca dao lạc quan, tươi vui về cuộc sống, dù khó khăn nhưng vẫn đầy hy vọng. Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa là một thể loại rất phong phú, thể hiện rõ đời sống tinh thần của người Việt xưa, đặc biệt là của người phụ nữ.
Có thể khẳng định ca dao than thân là thể loại văn học dân gian đặc biệt dành riêng cho phụ nữ dưới chế độ phong kiến, nơi họ có không gian tự do thể hiện cảm xúc, nỗi niềm trong cuộc sống mà không sợ sệt, e ngại. Thông qua những câu ca dao than thân, người ta được chứng kiến nhiều hình ảnh, số phận, cuộc đời, và cả những nỗi bất công phụ nữ phải đối mặt. Ca dao trở thành cánh cửa giúp phụ nữ giải phóng tâm hồn, với tính dễ thuộc, dễ nhớ, không cần học vấn uyên thâm. Hồ Xuân Hương, một minh chứng, vẫn thể hiện ý nghĩa sâu sắc với những câu ca dao đơn giản, mang đậm phong cách dân gian. Ví dụ như câu hát dưới đây:
“Tấm lụa đào như thân em
Bay bổng giữa chợ, đâu vào tay ai”
Phân tích câu ca dao than thân yêu thương tình nghĩa để hiểu những tâm tư, thông điệp ẩn sau đó
Thân phận của người phụ nữ xưa được so sánh với hình ảnh “tấm lụa đào”, một biểu tượng của vẻ đẹp kiều diễm. Nhưng đọc câu ca dao, chúng ta nhận thức được sự đau đớn khi người phụ nữ chỉ là như một món hàng, bị đánh giá và chọn lựa. Như bánh trôi nước, họ cũng trải qua những khó khăn, lạc lõng trong cuộc sống, phải chấp nhận sự bất công và kiếp số trái ngang. Câu ca dao thể hiện ý thức sâu sắc về vẻ đẹp của người phụ nữ, nhưng cũng là nỗi đau của họ trong xã hội phong kiến.
“Thân em như củ ấu gai
Trắng ruột bên trong, vỏ đen bên ngoài
Ngọt bùi khi nếm thử mà xem
Ngọt đắng mới biết là em”
Đây là một câu ca dao than thân, mang ý nghĩa kín đáo. Dưới chế độ phong kiến, vẻ đẹp không đảm bảo cuộc sống sung sướng. Người phụ nữ nhận thức giá trị bản thân, tự tôn vẻ đẹp tâm hồn. Câu ca dao thể hiện sự tìm kiếm hạnh phúc và đánh giá cao vẻ đẹp nội tâm.
“Trèo lên cây khế nửa ngày,
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.
Mình ơi! Có nhớ ta chăng?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”
Bài ca dao này thể hiện nỗi niềm tương tư sâu sắc của chàng trai với người con gái. Hình ảnh “trèo lên cây khế” độc đáo, tượng trưng cho tình cảm xa cách. Yêu đương mà không gặp nhau, chịu đựng sự chia cách, nhớ mong nhau trong vô vọng. Chàng trai kiên trì chờ đợi như vì sao Vượt, nhưng trái ngang số phận khiến lòng người xót xa.
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề…”
Tương tự bài ca dao trước, đây là bài thể hiện nỗi nhớ sâu sắc trong tình yêu, đặc biệt là tình yêu của người con gái với tình nhân. Nỗi lo lắng, không yên của người phụ nữ trong xã hội phong kiến được thể hiện qua việc đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”
Câu ca dao này thể hiện nỗi nhớ một cách bạo dạn, phóng khoáng và tình tứ. Tình yêu, niềm khao khát được ở bên người yêu, gần gũi, và hạnh phúc lứa đôi được thể hiện qua những hình ảnh bình dị, thân thuộc, với lối diễn đạt hóm hỉnh.
“Muối năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Câu hát này đặc biệt về tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng sắt son, chung thủy, thông qua hình ảnh gừng cay và muối mặn. Gừng mang vị cay, biểu tượng cho những đắng cay cuộc đời vượt qua, còn muối là vị mặn của tình cảm giữa hai vợ chồng, xây dựng từ những năm tháng tân hôn. Gừng và muối cũng là hai gia vị phổ biến trong đời sống gia đình, góp phần làm ấm cúng tình cảm gia đình.
Tổng kết những câu hát than thân, yêu thương tình nghĩa, bộc lộ những vẻ đẹp, nét đặc sắc trong đời sống tâm hồn, tình cảm của ông cha ta từ xưa. Câu hát sử dụng từ ngữ độc đáo, thể thơ lục bát, cùng những hình ảnh ẩn dụ gần gũi, sâu sắc, mang đến sự độc đáo về nội dung và hình thức.
Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa - mẫu 6
Trong kho tàng văn hóa dân gian của chúng ta, phần nói về chủ đề tình thân của phụ nữ chiếm một tỷ lệ đáng kể, đặc biệt là những đoạn văn ngắn (hai câu lục bát hoặc bốn câu). Đây là một trong những lĩnh vực tục ngữ tuyệt vời nhất, chứa đựng ý nghĩa xã hội và có sự phong phú nhất về diễn ngôn dân gian. Những đoạn văn này thường bắt đầu bằng những cấu trúc truyền thống quen thuộc như 'Em như...' hoặc 'Thân em...'. Dù nghe qua hoặc đọc qua có vẻ giống nhau, nhưng khi khám phá sâu hơn từng đoạn cụ thể, ta sẽ nhận ra mỗi câu, mỗi đoạn văn đều có những đặc điểm riêng biệt không lặp lại về cả nội dung lẫn nghệ thuật:
'Thân em tựa như áo dài bay
Đẹp tựa hoa nở giữa sân ai biết?'
Đây là suy nghĩ của cô gái trẻ, chuẩn bị bước vào cuộc hôn nhân. Hình ảnh chiếc áo dài bay như cánh diều tượng trưng cho vẻ đẹp và sự tươi mới của tuổi trẻ, là minh chứng cho việc cô gái hiểu rõ giá trị của bản thân mình. Nhưng đây không phải là chiếc áo dài được giữ trong tủ, mà lại tự do bay bổng giữa sân: đẹp tựa hoa nở giữa sân ai biết? Cô gái cảm thấy như mình sắp bước vào cuộc sống hôn nhân nhưng không biết sẽ thuộc về ai. 'Ai biết' là một câu hỏi, không phải là lo lắng về việc ế hay rẻ, mà là lo lắng về tương lai với người sẽ là chồng tương lai của mình. Đó cũng là nỗi băn khoăn của mọi cô gái chuẩn bị bước vào hôn nhân, một lo lắng chân thành và rất con người.
'Thân em như trái ổi đâm gai
Chua cay bề ngoài, ngọt ngào bên trong
Không tin, hãy chẻ ra xem
Nếm thử rồi sẽ biết em ngọt lịm'.
Người con gái trong bài này đầy lo lắng. Cô tự nhận thức về vẻ đẹp thơm ngát và hấp dẫn bên trong mình, nhưng có vẻ bề ngoài không thu hút đối tác. Cô phải tự giới thiệu, mời gọi và hứa hẹn về những phẩm chất đặc biệt của mình.
'Trèo lên cây quýt suốt ngày
Ai chế biến chua cay lòng này quýt ơi!
Mặt trăng so sánh với mặt trời,
Sao Đất soi bóng sao Thổ chằng chằng
Mình ơi, còn nhớ anh chăng?
Ta như sao di chờ mặt trăng giữa bầu trời'.
Người con gái trong bài này đã có một tình yêu, họ là một cặp đôi đẹp như mặt trăng so sánh với mặt trời, sao Đất soi bóng sao Thổ chằng chằng. Tuy nhiên, có vẻ người đàn ông có một số khó khăn, giống như sự thay đổi trong tâm trạng. Thế nhưng, người con gái kiên trì đợi chờ với tình yêu không biến đổi.
Ca dao về tình thân, lòng thương mến là nơi thể hiện những tâm tư, chia sẻ của đời người xưa
Ca dao về tình thân, tình nghĩa là kho tàng tri thức về vô số cảm xúc, số phận con người. Bài Khăn thương nhớ ai nói lên lòng tương tư và nhớ thương bạn tình qua hình ảnh chiếc khăn, ngọn đèn, con mắt đã làm xúc động nhiều trái tim. Hoài Thanh từng chia sẻ rằng, chỉ cần hai câu cuối: Mắt thương nhớ ai mà mắt không yên, chúng ta đã cảm nhận được vẻ đẹp. Còn những câu đầu, mơ hồ nhưng vẫn thu hút. Cụm từ 'thương nhớ ai' kết hợp với các chủ thể như khăn, đèn, mắt tạo nên một diễn đạt độc đáo, mang đến nhiều cảm xúc và không lặp lại với bất kì ca dao nào khác. Bài ca dao này thực sự độc đáo, cả về nội dung và nghệ thuật. Trong tình yêu, mọi vật đều hòa mình trong sự thương nhớ và xao xuyến. Điều đặc biệt ở đây chính là điều đó.
'Ước gì sông mênh mông lớn lao
Dải yếm cầu bắc cho chàng qua đây'.
Sinh ra trong một đất nước nhiều sông ngòi, tâm hồn con người cũng chịu ảnh hưởng của thiên nhiên. Tuy nhiên, ước mơ về sông mênh mông, cầu dải yếm là điều hiếm có. Vì sự rộng lớn của con sông phải đồng điệu với vật liệu xây dựng cầu, nhưng trong bài ca dao này, ý tưởng về chiếc cầu dải yếm là độc đáo. Chiếc cầu này chỉ tồn tại trong tưởng tượng của một cô gái kiến trúc sư trẻ, đầy tình yêu và sự sáng tạo. Nó không phải là cầu công cộng, mà là biểu tượng của tình yêu đẹp. Tình yêu luôn là nguồn động viên và sáng tạo, tạo ra những điều kỳ diệu.
'Muối năm tháng, vẫn mặn đắng
Gừng chín tháng, cay mãi lòng
Tình ta nặng nề nhưng sâu rộng
Cách xa nhau đi, nhớ đến ba vạn sáu nghìn ngày mới là xa'.
Trong ca dao Việt Nam, muối mặn và gừng cay thường được nhắc đến khi nói về tình nghĩa. Muối không chỉ là nguồn khoáng chất quan trọng cho sức khỏe, mà còn là điều quý giá làm tăng hương vị của thức ăn. Gừng biểu tượng cho những trải nghiệm đắng ngắt trong cuộc sống. Bài ca dao nhấn mạnh sức mạnh của tình cảm, ví như muối và gừng vẫn giữ được vị mặn, vị cay sau ba năm, chín tháng. Câu cuối nhấn mạnh rằng khoảng cách không làm giảm đi tình cảm, chỉ là làm cho tình yêu trở nên đậm đặc hơn, như ba vạn sáu nghìn ngày mới là sự xa cách.
Ca dao về tình thân, lòng yêu thương tình nghĩa của Việt Nam vô cùng đa dạng và phong phú. Chỉ cần làm một cái nhìn sơ qua, ta đã cảm nhận được vô số cảm xúc, khát khao và lý tưởng của con người. Mảng ca dao này không chỉ là nguồn cảm hứng cho những tình cảm đẹp, sâu sắc, mà còn là kho tàng ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo và bất ngờ, đủ để làm cho chúng ta kích thích sự sáng tạo.
Lời giải bài tập lớp 10 sách mới:
- Giải bài tập Lớp 10 Kết nối tri thức
- Giải bài tập Lớp 10 Chân trời sáng tạo
- Giải bài tập Lớp 10 Cánh diều
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 10 Global Success
- Giải Tiếng Anh 10 Friends Global
- Giải sgk Tiếng Anh 10 iLearn Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 10 Explore New Worlds
- Lớp 10 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 10 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - KNTT
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - KNTT
- Giải sgk Toán 10 - KNTT
- Giải sgk Vật lí 10 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 10 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 10 - KNTT
- Giải sgk Địa lí 10 - KNTT
- Giải sgk Lịch sử 10 - KNTT
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - KNTT
- Giải sgk Tin học 10 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 10 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - KNTT
- Lớp 10 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 10 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - CTST
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - CTST
- Giải Toán 10 - CTST
- Giải sgk Vật lí 10 - CTST
- Giải sgk Hóa học 10 - CTST
- Giải sgk Sinh học 10 - CTST
- Giải sgk Địa lí 10 - CTST
- Giải sgk Lịch sử 10 - CTST
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - CTST
- Lớp 10 - Cánh diều
- Soạn văn 10 (hay nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - Cánh diều
- Giải sgk Toán 10 - Cánh diều
- Giải sgk Vật lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 10 - Cánh diều
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - Cánh diều