10+ Cảm nhận ca dao khăn thương nhớ ai (điểm cao)

Tổng hợp 10+ Cảm nhận ca dao khăn thương nhớ ai điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

10+ Cảm nhận ca dao khăn thương nhớ ai (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Cảm nhận ca dao khăn thương nhớ ai

a) Mở bài: Giới thiệu bài ca dao “Khăn thương nhớ ai”. Dẫn dắt vào vấn đề cảm nhận

b) Thân bài:

* Khái quát chung:

+ Ca dao là thơ trữ tình dân gian, thường được kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.

+ Bài ca dao khăn thương nhớ ai: Nhân vật trữ tình: Cô gái đang sống trong tâm trạng thương nhớ khôn nguôi. Nội dung: Bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái, nhớ thương da diết, nhớ đến thao thức mà không dễ bộc lộ.

* Cảm nhận:

- Hình ảnh chiếc khăn:

+ Biểu tượng cho tình yêu, là vật trao duyên, là kỉ niệm hứa hẹn của đôi trai gái.

+ Chiếc khăn trong ca dao xưa khá quen thuộc, gắn với hình ảnh người phụ nữ vừa làm dáng vừa là biểu tượng cho số phận người phụ nữ xưa.

+ Mượn hình ảnh cái khăn, nhân hoá trở thành vật có tri giác biết nhớ, biết mong để nói về nỗi nhớ mong của người con gái với người yêu đến thấp thỏm, đứng ngồi không yên.

Quảng cáo

+ Hình ảnh ngọn đèn: Ngọn đèn không tắt là nỗi trằn trọc, băn khoăn trong nỗi nhớ thương đằng đằng với thời gian.

+ Hình ảnh đôi mắt không ngủ: Nỗi nhớ đong đầy, mắt không nhắm, không ngủ được, lo lắng cho người yêu.

+ Nhớ mong ngày đêm không nguôi.

+ Hai câu cuối: Nỗi nhớ thương thấp thoáng nỗi lo lắng của cô gái về số phận của mình, về duyên phận lứa đôi. Sự bùng phát của mỗi nhớ, sự lo lắng liệu tình yêu có đến được với nhau, có hạnh phúc trọn vẹn không.

+ Nghệ thuật: Điệp khúc “Khăn thương nhớ ai” tạo cảm giác khắc khoải, xoáy vào lòng người nỗi nhớ của cô gái; Điệp từ “ai” mang ý nghĩa phím chỉ gợi nỗi nhớ sâu thẳm, mênh mông; Những câu hỏi liên tiếp và cách gieo vần độc đáo, gợi cảm giác nỗi nhớ thương cứ mãi vang vọng, day dứt, ngân vang đến vô cùng tận.

c) Kết bài: Nêu cảm nhận, đánh giá, nhận xét. Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và cách liên tưởng của bản thân.

Cảm nhận ca dao khăn thương nhớ ai - mẫu 1

Kho tàng ca dao Việt Nam vô cùng phong phú, giàu giá trị tư tưởng, nghệ thuật, là “thơ của vạn nhà”, là tấm gương soi cho tâm hồn và đời sống dân tộc, là niềm tự hào khôn xiết về cái cách mà những con người lao động Việt Nam trực tiếp bày tỏ long mình mà không cần nhờ đến bất kì một khuôn khổ thơ chính quy nào.

Quảng cáo

Họ gửi gắm vào đó là yêu thương, sướng vui, đau khổ; là hoài bão, ước mơ, niềm mong mỏi… Không nằm ngoài chuỗi sáng tác mang đề tài thương nhớ làm nên bản sắc văn hoá dân gian, bài ca dao được nhà phê bình Hoài Thanh đánh giá là “hay nhất Việt Nam”, “ Khăn thương nhớ ai” cũng trĩu nặng niềm thương nỗi nhớ của người con gái đang yêu, sâu lắng và hay lạ lùng…:

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề.”

Quảng cáo

Ca dao về nỗi nhớ là hợp âm các nốt trầm lắng đọng lòng người trong cung bậc tình yêu – vốn là đề tài muôn thưở và quen thuộc của người bình dân. Nỗi nhớ nhung nào có buông tha một ai? Mọi cảnh huồng, mọi số phận, mọi trang lứa; và nó nhẫn tâm bủa vây, bám víu lấy người con gái đơn chiếc. Nỗi nhớ ấy như muốn thiêu đốt tan chảy cả cõi lòng nhưng lại được che giấu kín đáo và ý nhị, không bộc lộ một cách buông tuồng, suồng sã. Tâm trạng nàng, biết tỏ cùng ai? Những câu hỏi không có câu trả lời, cô dành để hỏi những vật dụng quen thuộc nhất kề bên mình trong lúc cô đơn :

“Khăn thương nhớ ai?…

… Đèn thương nhớ ai?”

Những câu hỏi cất lên rồi lại trôi dạt mãi vào hư vô im tiếng, cứ nén chặt niềm thương nỗi nhớ trong lòng, để rồi chực trào tuôn ra thành tiếng thở dài triền miên. Cái khăn được hỏi đến đầu tiên và cũng được hỏi nhiều nhất’ cô gái hỏi vật trao duyên mang ý nghĩa thiêng liêng duy nhất của mình. Chiếc khăn ấy phải chăng đã ấp ủ biết bao hơi ấm bàn tay, đã thấm đượm nhiều vô chừng những lời ân ái mặn nồng:

“Gửi khăn, gửi áo, gửi lời,

Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”

Giờ người đã xa, hơi ấm nồng đượm vương vấn nơi đây âu chỉ là nỗi buồn chờ đợi quá khứ, cái không gian cô quạnh cứ miên man trải rông trên nhiều chiều, nỗi nhớ cứ thế mà quanh quẩn trong tâm trí trăm mối tơ vò, khiến vật chứng nhân vô trí vô giác cũng động lòng mà:

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt.”

Ba hình ảnh đặc trưng cộng hưởng thêm ba câu thơ láy cô gái tự nhân hoá chiếc khăn lên rồi hỏi: “Khăn thương nhớ ai?”, cùng lối vắt dòng láy tổng cộng sáu lần từ “khăn” thành một điệp khúc tạo cảm giác dường như nỗi nhớ càng thêm triền miên. Mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ kia thêm trào dâng cuồn cuộn trong lòng. Ôi, sầu đong càng lắc càng đầy! Cô gái đang hỏi chiếc khăn trao duyên hay đang đối thoại với bản thân mình đây? Đằng sau nghệ thuật đảo thanh đầu uyển chuyển, cách sử dụng hình ảnh vận động trái chiều, đằng sau hết thảy các sử “xuống- lên”, “rơi- vắt” của khăn hiện lên hình ảnh một con người rất rõ, con người ấy đang tiếc nhớ khôn nguôi về mối tình đẹp đẽ. Nhớ đến mức không còn tự chủ được dáng đứng bước đi, không thề đứng yên ngồi ổn được, cứ thất thểu ra vào, bởi vậy người ta mới có câu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Nỗi nhớ cứ rừng rực trong lòng, len lỏi vào từng dòng máu thớ thịt, thế mà vẫn không đủ để cản ngăn dòng nước mắt khóc thầm:

“Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt”

Nước mắt em rơi từ khoé lệ u sầu, rơi trên tiếng cười đùa hôm qua, và rơi trên u buồn hôm nay, những “ hai hàng nước mắt đầm đàm như mưa: làm khổ em biết bao nhiêu đêm dài. Nỗi nhớ sâu trong tâm hồn réo thúc bùng sôi nhưng được bộc lộ ý nhị, nọt ngào, mang màu sắc nữ tính, nhẹ nhàng. Cô gái trong bài ca dao là một con người biết trân trọng những kỉ niệm, biết ghìm nén lòng mình, dẫu cho trái tim đã băng hoại vì nỗi buồn man mác gậm nhấm lủi tàn mất rồi. Cái khăn đã giãi bày hộ cô gái cái nghẹn ngào đọng mãi trong lòng không nói ra được. Cái thứ cảm gáic không gọi được tên nặng trĩu trong lòng là thế, vậy mà cứ nhẹ tênh lan toả rộng khắp, thấm đượm vào không gian, vào cả sự đồng cảm nơi người đọc…

Nhưng không chỉ có thế, nỗi nhớ ở đây còn được đong đếm theo bước chân thời gian chứ không chỉ thăng trầm theo từng bước đi của nhân vật. Ban đêm là thời khắc để bất kì con người nào cũng có thể suy ngẫm về người, về đời, rất thật. Đối với cô gái, đó là lúc niềm khắc khoải lại càng làm tim cô đau nhói. Niềm đau ở đây được diễn tả theo một cách riêng, nhất quán và không thể nhầm lẫn. Điệp khúc “thương nhớ ai” được giữ lại trọn vẹn còn tâm sự được gửi gắm tiếp vào ngọn đèn đêm:

“Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt”

Cả bài ca dao là một hệ thống các câu hát lẻ độc lập: khi đứng riêng chúng hoàn toàn có thể diễn đạt hết nghĩa, còn khi ghép chúng lại với nau, chúng thu hút người đọc và nỗi lòng trải rộng mãi hết không gian rồi lại sang thời gian. Trong sự ưu phiền vò võ của đêm khuya khắc vợi canh tàn, trong bóng đêm mịt mù đến hốt hoảng, đốm lửa ấm dù nhỏ nhoi trên đầu ngọn bấc kia chứng tỏ người thắp đèn vẫn chưa tài nào ngủ yên được. Cô gái gửi tâm tình ngổn ngang trăm mối những đêm thâu trằn trọc vào ngọn lửa nhỏ, hay chính ngọn lửa tình bất diệt luôn cháy mãi trong tâm can? Chừng nào lửa tình vẫn cháy thì chừng ấy lửa đèn kia tắt làm sao được. Vẫn là câu hỏi không có lời đáp, và vẫn là hình ảnh tượng trưng được nhân hoá, “ngọn đèn” cũng biết thổ lộ bao điều, buộc ta phải rung cảm suy nghĩ nhiều hơn, sâu sắc hơn những điều được đề cập trong lời ca da diết.

Bày tỏ, giãi bày hộ cô gái bằng giá trị tượng trưng rất biểu cảm theo lối nói vòng đầy cuốn hút, nhưng rồi rốt cuộc “khăn” và” đèn”cũng chỉ là cách nói gáin tiếp thông qua biện pháp nhân hoá. Đến dòng thơ thứ chín, không kìm lòng được nữa, thứ “cảm xúc không gọi được tên” trên kia chực vỡ oà, cô tự hỏi chính mình:

“Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên.”

Hình tượng các nghệ nhân dân gian sử dụng thật hợp tình hợp lý, nhất quán và xuyên suốt: “đèn chẳng tắt” vì “mắt không yên”, “mắt không yên” nên “đèn chẳng tắt”. Nỗi ưu tư còn nặng trĩu, khối tinh thần bất biến vẫn vẹn nguyên, tình yêu chung thuỷ chẳng đổi dời. Cứ khép đôi bờ mi đẫm lệ, hình bóng người thương lại hiện về, giấc ngủ dẫu có cũng vô cùng ngắn ngủi và mãi chập chờn những giấc vơ vô ảo vô thực. Năm lần hỏi, năm lần điệp từ “ai” vang lên thổn thức xoày vào lòng ta một nỗi niềm khắc khoải, đồg cảm bi ai. Bản thân từ “ai” mang ý phiếm chỉ, nên câu trả lời thực chất được khẳng địh ngay từn câu hỏi tưởng như không có lời đáp. Cách khẳng định này không được diễn đạt bằng ý chính mà mang tính nghệ thuật, thi vị hơn, mạnh mẽ hơn. Dẫu vậy, với tính chấ nghệ thuật rất riêng của văn học dân gian, chẳng mấy ai yêu quý bài ca dao này không tự lý giải được, rằng không ai khác ngoài chàng trai đã gây nên nỗi lòng cô đọng trong điệp từ “ ai” kia. Mười câu thơ bốn chữ còn hay về cách gieo vần: vần chân xen lẽ vần lưng, trong đó thanh bằng và thanh trắt lại xoắn quýt lấy nhhau tạn nên âm điệu luyến láy liên hoàn, bâng khuâng mãi. Và nếu cứ đi theo cung cách cấu tứ như thế, lòng cứ tự hỏi lòng, thì bài ca dao sẽ trải dài cùng nỗi sầu đến vô tận. Lần theo mạch xúc cảm xuyên suốt, qua tới mấy lần hỏi, điểm cao trào bất chợt xuất hiện đột ngột dưới hình thức câu tho8 lục bát, biến nỗi nhớ nhung dằng dặc kia thành:

“Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề”

Từ nhịp thơ bốn chữ dồn dập và gây rung động lạ kỳ chuyển sang lục bát nhẹ nhàng và xao xuyến, bởi lẽ, cô gái một mực thương nhớ người yêu vẫn biết lo lắng cho số phận trái ngang của mình. Cô nhớ lắm, đến nỗi:

“Qua cầu dừng bước trơng cầu

Cầu bao nhiêu nhịp lòng sầu bấy nhiêu”

Guồng quay cuộc sống thì cứ mãi lừng lững tiến về phía trước, hoàn cảnh trớ trêu không cho phép người con gái đơn thân mãi “ Thương thương nhớ nhớ sầu sầu”, xã hội không đồng ý để cô “Một ngày ba bận ra cầu đứng trông”. Từ “lo” được lặp lại đến hai lần, cùng chỉ từ số nhiều “những” chứng tỏ trong lòng cô gái đang có nhiều lo sợ mênh mông khi nghĩ về người mình yêu cùng một lúc; nhói cả tim khi nghĩ rằng anh sẽ thay đổi, sẽ như” vầng mây bạc giữa trời mau tan”; quặn cả lòng khi hay cả một xã hội phong kiến thối nát đang chực chờ ép duyên… Hạnh phúc quá mong manh và cái quyền tự do yêu đương cũng thật là bấp bênh, khi tình yêu tha thiết chân chính luôn bị nỗi sợ nơm nớp vô biên lấn át, “Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời”. Nỗi lo phiền trĩu nặng tâm can, xuất phát từ chính nỗi nhớ thươngkho6n nguôi, từ khát vọng yêu và được yêu, từ sự bức bối muốn được vùng dậy giải thoát. Tình yêu, nỗi nhớ nơi con tim mồ côi và nguội lạnh vẫn cứ chan chưa tình người, dạt dào sức sống mà không hề bị luỵ, đau thương, yếu hèn. Càng yêu, càng nhớ thì con người ta càng bộc lộ sự lạc quan trữ tình và chung thuỷ của mình:

“Chờ anh cho tuổi em cao

Cho duyên em muộn má đào em phai”

Để diễn tả được hết nỗi long cũng như tính nhân văn sâu sắc, bài ca dao mang những yếu tố thi pháp và biện pháp nghệ thuật quen thuộc: điệp từ, điệp ngữ gây cảm giác quyến luyến mà dồn dập; dùng hình ảnh tượng trưng và nhân hoá chúng đạt hiệu quả cao. Quan trọng hơn cả, ẩn chưa trong toàn bài ca dao là nét đẹp kín đáo, thu hút, đằm thắm nữ tính; khá đặc biệt so với các khúc ca thương nhớ khác dung hình thức biểu đạt trực tiếp…:

“Nhớ ai hết đứng lại ngồi,

Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân.”

“Nhớ ai nhớ mãi thế này?

Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?

Vì thế, “Khăn thương nhớ ai” luôn có một chỗ đứng nhất định trong ca dao nỗi nhớ nói riêng , toàn bộ kho tàng văn học dân gian nói chung và một vị trí riêng trong lòng người đọc. Vượt chặng đường “những mấy nghìn năm”, bài ca dao sẽ mãi là viên ngọc long lanh, tuy hình thành từ bàn tay thô kệch nhưng được gọt giũa bởi tấm lòng và tâm hồn đẹp đẽ cao quý của người bình dân Việt Nam.

Cảm nhận ca dao khăn thương nhớ ai - mẫu 2

“Khăn thương nhớ ai, Khăn chùi nước mắt.

…..

Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Mắt thương nhớ ai, Mắt không ngủ yên.

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề… ”

Bài ca nằm trong hệ thống ca dao về đề tài thương nhớ, một cung bậc trong ca dao tình yêu của người bình dân Việt Nam. Bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái. Nhớ thương da diết, nhớ đến thao thức, cồn cào gan ruột mà không dễ bộc lộ. Cô phải hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi cả mắt mình. Những câu hỏi ko có câu trả lời càng nén chặt nỗi thương nhớ, để cuối cùng trào ra trong nỗi lo âu cho hạnh phúc. Giọng thơ sâu lắng, dồn dập gợi nhiều cảm xúc.

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi ko yên một bề

Mở đầu, chiếc khăn được hỏi đến đầu tiên và được hỏi nhiều nhất:

Khăn thương nhớ ai,

khăn chùi nước mắt

Chiếc khăn thường là vật trao duyên, vật kỷ niệm gơi nhớ người yêu. Sáu câu thơ đc cấu trúc theo lối vắt dòng, láy lại 6 lần từ “khăn” ở vị trí đầu các câu thơ và láy lại 3 lần câu “khăn thương nhớ ai” như một điệp khúc bất tận, thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết.

Dường như mỗi lần hỏi là nỗi nhớ lại trào dâng thêm. Cái khăn, tự nó không biết “thương nhớ”, không biết tự “rơi xuống”, “vắt lên”, ” chùi nước mắt”, nhưng những hình ảnh vận động mang cảm xúc người đã hiện lên hình ảnh con người với tâm trạng ngổn ngang niềm thương nhớ cùng nỗi lo âu. Nhớ đến ngơ ngẩn, nỗi nhớ tỏa theo chiều hướng của ko gian (“khăn rơi xuống đất” rồi lại “khăn vắt lên vai”), cuối cùng thu lại trong cảnh khóc thầm (“khăn chùi nước mắt”).

Nỗi nhớ trong 6 câu lan tỏa vào không gian, đến 4 câu tiếp lại xuyên suốt theo thời gian. Nỗi nhớ ban ngày kéo dài sang cả ban đêm:

Đèn thương nhớ ai, mà không tắt

Vẫn là điệp khúc “thương nhớ ai”, nhưng nỗi nhớ đã chuyển từ ” khăn” sang “đèn”. Hình ảnh ngọn đèn gợi ra đêm khuya võ canh tàn, và cái đốm lửa đang cháy kia phải chăng là hình ảnh của nỗi nhớ cháy rực trong lòng cô gái? Ngọn đèn mãi không chịu tắt, nỗi nhớ cứ da diết khôn nguôi. Cũng như chiếc khăn, ngọn đèn đã giúp cô gái thổ lộ nỗi lòng.

Nhưng dù gợi cảm bao nhiêu, thì chiếc khăn và ngọn đèn cũng chỉ là cách nói gián tiếp theo lối biểu tượng, nhân hoá. Nỗi lòng của cô gái buộc phải bật ra trong cách nói trực tiếp:

“Mắt thương nhớ ai,

Mắt không ngủ yên”

Thuơng nhớ đến không ngủ được, cứ trằn trọc thao thức là cách thức biểu lộ quen thuộc trong ca dao:

“Đêm nằm lưng chẳng tới giường, Trông cho mau sáng ra đường gặp anh”

Tuy nhiên, cũng là 1 tâm trạng ấy, nhưng trong bài ca này, hình ảnh đôi mắt có sức gợi cảm sâu xa hơn nhiều. “Mắt ngủ ko yên” tạo nên 1 đối xứng rất đẹp với “đèn ko tắt” ở trên, gợi lên 1 khung cảnh rất thực: cô gái giữa đêm khuya 1 mình đối diện với ngọn đèn mà nhớ người thương. Vì “mắt ngủ ko yên” nên “đèn không tắt”. Nói đèn cũng chỉ là nói người mà thôi. Ngọn đèn soi chiếu vào đôi mắt, càng thấy nỗi nhớ thương vời vợi không nguôi.

Mười câu thơ là 5 câu hỏi không có lời đáp. Điệp khúc ”thương nhớ ai” trở đi trở lại như xoáy vào 1 nỗi niềm khắc khoải, da diết. Những lần ”thương nhớ” và 5 lần từ “ai” xuất hiện. Bản thân từ “ai” mang ý phiếm chỉ, gợi lên 1 nỗi nhớ thương sâu thẳm mênh mông, ko giới hạn. Từ “ai” ko xác định cụ thể đối tượng, nhưng người nghe hoàn toàn hiểu được “ai” ấy là ai. Hỏi không có trả lời, nhưng thực câu trả lời đã nằm trong giọng điệu khắc khoải, da diết kia. Không cần nói rõ, nhưng nỗi nhớ người yêu đã được bộc lộ một cách kín đáo mà gợi cảm, sâu sắc, mãnh liệt.

Cách gieo vần của bài ca cũng rất đặc sắc. Vần chân và vần lưng xen kẽ nhau (ai-ai, mắt-tắt), vần bằng vần trắc luân phiên, tất cả tạo nên 1 âm điệu luyến láy liên hoàn khiến cho nỗi nhớ thương của cô gái vừa nén lại, vừa như kéo dài ra mênh mông vô tận theo cả không gian và thời gian. Tưởng chừng nỗi nhớ ấy sẽ không có kết thúc… Nhưng bài ca phải có điểm dừng. Khi cô gái không hỏi nữa thì niềm thương nhớ trào ra thành nỗi lo phiền:

“Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề… ”

Từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, liên tiếp, lời ca chuyển sang nhịp thơ lục bát nhẹ nhàng hơn nhưng cũng xao xuyến hơn, giãi bày niềm lo ây của cô gái trước hạnh phúc lứa đôi. Không phải ngẫu nhiên mà chữ “lo” được nhắc đến 2 lần. Nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận của mình “không yên một bề”, tâm trạng của cô gái mang ý nghĩa phổ biến cho người phụ nữ trong cuộc đời xưa: yêu tha thiết nhưng lun lo sợ cho hạnh phúc bấp bênh.

Bài ca khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hóa để tăng thêm sức sống cho hình ảnh, cách gieo vần linh hoạt, cách cấu tạo truyền thống kết hợp những câu thơ bốn chữ với hai câu lục bát cuối cùng… Qua nỗi thương nhớ và niềm lo âu được diễn tả trong bài ca, ta nhận ra tiếng hát yêu thương và khao khát yêu thương của ngừơi bình dân xưa.

Cảm nhận ca dao khăn thương nhớ ai - mẫu 3

Trong nền văn học Việt Nam từ thời xa xưa cho đến nay, cũng như rất nhiều thể loại từ: ca dao, tục ngữ, thơ ca… cho đến văn xuôi đều có vô vàn những đề tài thú vị, nó gợi lên rất nhiều cảm xúc ngọt ngào, tâm tư tình cảm của ông cha ta, những con nguời sống bình dị với tình yêu quê huơng đất nuớc, tình cảm giữa nguời với nguời, với những hình ảnh đặc trưng cho những nguời nông dân. Đặc biệt hơn, tình yêu đôi lứa là đề tài muôn thuở, những bài thơ, ca dao mang đậm âm huởng tình yêu đôi lứa của nguời xưa nhưng luôn gắn liền với đất nuớc, với gia đình. Bài thơ “Khăn thuơng nhớ ai” cũng vậy, nói đến tình yêu, niềm thuơng nhớ của cô gái, nhớ đến da diết cồn cào mà không dễ dàng bộc lộ phải gửi gắm niềm nhớ ấy vào chiếc khăn, những câu hỏi như nén chặt nỗi thuơng nhớ vào trong.

Không phải tự nhiên bài ca dao này được người ta nhớ đến với tên gọi "Khăn thương nhớ ai". Hình ảnh chiếc khăn ấy không chỉ là biểu tượng khởi nguồn cho nỗi nhớ thuơng của cô gái mà còn là hình ảnh được lặp lại nhiều nhất với nhiều tình huống khác nhau. Mở đầu bài ca dao, tác giả đã nói đến nỗi nhớ thương ai đó của cô gái

Khăn thương nhớ ai?

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai?

Khăn chùi nước mắt

Trong xã hội phong kiến, phụ nữ luôn là tầng lớp duới, thấp cổ bé họng, kêu không ai nghe, than cũng không ai thấu. Bởi vậy họ chỉ biết gửi những dòng tâm sự, nỗi lòng ấy qua từng lời ca như xé ruột. Dễ cho chúng ta thấy, khăn là vật dụng rất quen thuộc đối với con người, nhất là đối với nguời phụ nữ. Trong những câu thơ trên,  hình ảnh chiếc khăn lại được lặp đi lặp lại nhiều lần như điệp khúc nhớ thương triền miên, da diết. Đối với những đôi lứa yêu nhau, khăn là vật gần gũi, là vật trao duyên giữa đôi trai gái. Ở đây, chiếc khăn là hình ảnh được nhân hóa, từ vật thể vô hồn trở nên có tâm trạng, biết đau, biết nhớ, biết vui, biết buồn và là đối tuợng để cô gái có thể thể hiện được tình cảm, cảm xúc của mình. Ba lần hỏi “khăn thương nhớ ai” mỗi lần nỗi nhớ lại càng dâng trào, ngổn ngang trăm mối, bao trùm khắp không gian: rơi xuống đất, vắt lên vai. Nguời xưa có câu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” và với cao độ là khi chiếc khăn giúp cô gái dấu đi những giọt nước mắt thầm khóc. Sáu dòng thơ đuợc tác giả sử dụng với đa số thanh bằng gợi nỗi niềm bâng khuâng da diết đậm màu sắc nữ tính, đầy kín đáo nỗi nhớ thương. Sau khi mượn hình ảnh khăn để nói lên nỗi niềm ấy, cô gái lại tiếp tục thể hiện nỗi niềm qua hai thứ quen thuộc gắn liền với khuôn mặt:

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Tác giả vẫn sử dụng biện pháp nhân hoá nhưng ở hình ảnh cây đèn này nỗi nhớ được trải dài theo thời gian. Hình ảnh đèn không tắt chính là hình ảnh ngọn lửa thương nhớ luôn đang cháy rực trong tim. Người con gái đang trằn trọc trong đêm nhớ thương đằng đẳng. Hình ảnh cuối cùng đuợc nhắc đến lại trở thành biểu tượng gần gũi nhất nói lên nỗi niềm tâm trạng cô gái là đôi mắt. Dù những câu hỏi đặt ra với chiếc khăn, ngọn đèn là sự phân thân trong tâm trạng cô gái nhưng đó vẫn chỉ là cách gián tiếp nhưng nỗi nhớ thì cứ da diết, cứ bồn chồn và đến lúc không thể kìm nén. Cô gái đã hỏi mình, trực tiếp bộc lộ nỗi lòng qua đôi mắt. "Mắt ngủ không yên" tạo nên sự đối xứng đẹp với "đèn không tắt" ở trên, hình ảnh đã gợi lên khung cảnh rất thực: một cô gái giữa đêm khuya đối diện với ngọn đèn mà nhớ đến người thương. Vì "mắt ngủ không yên" nên "đèn không tắt". Nói đến đèn cũng chỉ nhắc đến người thương ấy mà thôi. Ngọn đèn chiếu vào đôi mắt, càng thấy nỗi thương nhớ vời vợi khôn nguôi. Mười câu thơ cùng năm câu hỏi không lời đáp. Điệp khúc thương nhớ ai trở đi trở lại như xoáy vào nỗi niềm da diết. Năm lần thương nhớ và năm lần từ "ai" xuất hiện. Từ "ai" mang ý phiếm chỉ, gợi lên 1 nỗi nhớ thương sâu thẳm không giới hạn. Từ "ai" không xác định cụ thể đối tượng, nhưng người nghe hiểu được "ai" là ai. Hỏi không có câu trả lời, nhưng thực câu trả lời đã nằm trong giọng điệu câu ca kia. Không cần nói rõ, không quá cầu kì nhưng nỗi nhớ đã được bộc lộ 1 cách kín đáo, gợi cảm, sâu sắc, mãnh liệt. Kết thúc bài ca dao là hai câu thơ:

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề

Từ nhịp thơ bốn chữ dồn dập và gây rung động lạ kỳ chuyển sang lục bát nhẹ nhàng và xao xuyến, bởi lẽ, cô gái một mực thương nhớ người yêu vẫn biết lo lắng cho số phận trái ngang của mình. Chỉ với những dòng thơ ngắn mà bao cảm xúc được dồn nén chất chứa đuợc thể hiện. Cảm xúc của nhân vật cô gái không sử dụng những động từ mạnh để biểu đạt nhưng với những hình ảnh lặp lại và với tình cảm chất chứa trong đó được gửi gắm bao điều đẹp đẽ cũng như tâm lý chung của trai gái trong tình yêu. 

Bài ca với những lời lẽ bình dị, mộc mạc nhưng chân thành và sâu sắc. với sự lặp lại để diễn tả tâm trạng, những hình ảnh biểu tượng, phép nhân hóa đuợc sử dụng triệt để để tăng thêm sức sống cho hình ảnh, lối gieo vần linh họat, cấu tạo truyền thống kết hợp thơ bốn chữ với hai câu lục bát. “Khăn thương nhớ ai” đã lột tả được tâm trạng nhớ thương nguời yêu da diết khôn nguôi của nguời phụ nữ xưa dù rất kín đáo, ý nhị và nhẹ nhàng

Cảm nhận ca dao khăn thương nhớ ai - mẫu 4

Ca dao là tiếng hát trữ tình của người lao động. Niềm tự hào về quê hương đất nước, nghĩa tình gia đình, cộng đồng, sự rung cảm trước thiên nhiên tươi đẹp…đều được thể hiện qua những lời ca đằm thắm, thiết tha. Tình yêu lứa đôi với những cung bậc như nỗi nhớ thương, lòng chung thủy cũng là những giai điệu đẹp trong khúc hát trữ tình sau lũy tre xanh.

Thương nhớ vốn là một tình cảm khó hình dung, nhưng trong ca dao, có những bài đã hình tượng hóa nỗi nhớ bằng những hình ảnh cụ thể. Như bài ca dao sau:

Khăn thương nhớ ai?/Khăn rơi xuống đất/Khăn thương nhớ ai?/Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai?/Khăn chùi nước mắt/Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt/Mắt thương nhớ ai?/Mắt ngủ không yên

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề.

Bài ca dao diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái. Đó là nỗi nhớ thương đến tan chảy cả cõi lòng nhưng không tự bộc lộ một cách buông tuồng dễ dãi. Đó cũng là tâm trạng nỗi lòng biết ngỏ cùng ai, cứ hiện hình dần lên và sáng mãi ra từ trong cõi nhớ của riêng mình cô gái. Nỗi niềm thương nhớ người yêu của nhân vật trữ tình đã được cụ thể hóa bằng những hình ảnh nhân hóa, hoán dụ: khăn, đèn, mắt. Cô gái hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi mắt để bày tỏ tâm trạng của mình.

Bài ca dao có mười hai câu thì sáu câu đầu là hình ảnh chiếc khăn:

Khăn thương nhớ ai?/Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai?/Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai?/Khăn chùi nước mắ

Cái khăn được hỏi đầu tiên và được hỏi nhiều nhất trong 6 câu thơ( tức nửa bài ca dao). Cũng đúng thôi vì đây là vật gắn bó, gần gũi với người con gái. Trong tình yêu, khăn trở thành vật trao duyên: “Nhớ khi khăn mở, trầu trao. Miệng chỉ cười nụ, biết bao ân tình”. Sáu câu vãn bốn, được cấu trúc theo lối vắt dòng, láy lại sáu lần từ “khăn” và ba lần câu hỏi thẫn thờ “Khăn thương nhớ ai?” như một điệp khúc, làm cho nỗi nhớ thêm triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ lại trào dâng. Cố nhiên, cái khăn tự nó không làm nên chuyện. Nhưng đằng sau tất cả sự xuống, lên, rơi, vắt của cái khăn kia là một con người hiện lên rất rõ trong tâm trạng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Chiếc khăn rơi xuống đất, rồi lại được nhặt lên để vắt trên vai, để chùi nước mắt. Đó là nỗi nhớ có không gian. Hình ảnh khăn gợi lên tâm trạng bối rối, trông ngóng, thẫn thờ. Sáu câu, hai mươi bốn từ, có mười sáu thanh bằng mà hầu hết là thanh không, làm cho nỗi nhớ thương càng thêm bâng khuâng, da diết mà vẫn man mác, nhẹ nhàng. Nỗi nhớ bên trong réo thúc bùng sôi nhưng được nói ra thật ý vị, ngọt ngào. Đó là nỗi nhớ mang màu sắc nữ tính, nói lên nhân cách của một người nhớ mà biết trân trọng nâng niu nỗi nhớ, biết ghìm lại nỗi nhớ kín đáo trong lòng mình.

Ở hai câu tiếp, ngọn đèn gợi nỗi nhớ theo thời gian, từ ngày sang đêm, đèn không tắt chính là lòng người đang thao thức, trằn trọc :

Đèn thương nhớ ai?

Mà đèn không tắt

Điệp khúc “thương nhớ ai” được giữ lại, nhưng nỗi nhớ đã được đặt vào cây đèn. Trong cái khoảng ưu tư vò võ của đêm khuya khắc với canh tàn, cái đốm lửa cháy sáng trên đầu ngọn bấc kia cũng chính là nỗi nhớ vẫn đang cháy rực lên trong lòng cô gái. Chừng nào ngọn lửa tình vẫn cháy sáng trong trái tim người con gái thì ngọn đèn kia tắt làm sao được ? Đèn không tắt hay chính con người đang trằn trọc thâu đêm trong nỗi nhớ thương đằng đẵng với thời gian? Vẫn là câu hỏi không có lời đáp nhưng chắc chắn đã có sức đồng vọng mãnh liệt trong tâm hồn chàng trai cũng đang ngổn ngang trăm mối.

Khăn, đèn là những hình ảnh ngoại cảnh, được nhân hóa để bộc lộ lòng người. Đến đây, như không kìm lòng được nữa, cô gái đã hỏi trực tiếp chính mình :

Mắt thương nhớ ai?

Mắt ngủ không yên

Mắt là hình ảnh hoán dụ cho chính con người. Lời tỏ bày niềm thương nỗi nhớ đã chuyển từ gián tiếp sang trực tiếp. Xúc cảm càng lúc càng dâng trào, lời tự tình càng lúc càng thiết tha. Cuối cùng, nhân vật trữ tình buộc phải xuất hiện. Phải xuất hiện mới nói hết được lòng mình. Phải xuất hiện mới đúng là nỗi nhớ trong tình yêu cháy bỏng. Ở đây không còn là nghệ thuật nữa mà là tình người. Đúng hơn là tình người, hồn người đã là nghệ thuật cao cả nhất và chân chính nhất.

Hai câu lục bát kết thúc bài ca dao vãn bốn là lời lý giải cho nguyên cớ của tâm trạng thẫn thờ, thao thức, khắc khoải, suy tư:

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề.

Nhân duyên trong xã hội phong kiến chịu nhiều ràng buộc. Mọi việc liệu có sẽ yên một bề? Cô gái chỉ lo vì một nỗi ấy. Nhưng sao lại là “Đêm qua” mà không phải đêm nay? Phải chăng, từ lúc cô gái “khăn mở, trầu trao”, cô đã không nguôi lo lắng cho nhân duyên của mình. Nỗi nhớ mới chỉ là tâm trạng, nỗi lo phiền mới là những suy tính, phấp phỏng, lo âu. Cô gái lo về tình yêu của chàng trai, lo về phía gia đình, lo vì họ hàng cùng bao nhiêu nỗi lo âu, phiền muộn khác.

Bài ca dao khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hoá tăng thêm sức sống cho hình ảnh, cách gieo vần lonh hoạt. Bài ca dao có hình thức trình bày đặc biệt với mười câu thơ bốn chữ và một cặp lục bát. Hình thức đó đã tạo nên sự hài hoà, hiệu quả với thể hứng của bài ca dao.Đó là cách mượn câu chuyện của ngoại cảnh bên ngoài để bày tỏ tâm trạng, những nỗi niềm của nhân vật trữ tình.

Tóm lại, bài ca dao giàu hình ảnh đã thể hiện nỗi thương nhớ của một cô gái, qua đó, phản ánh một sự thực trong xã hội phong kiến xưa: đôi lứa yêu nhau, nhưng không thể tự do đến với nhau. Họ còn phải vượt qua nhiều rào cản của lễ giáo phong kiến. Bài ca dao khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ, đề cao giá trị của tình yêu chân chính tự do, ước mơ của tất cả những người yêu nhau trong mọi thời đại.

Cảm nhận ca dao khăn thương nhớ ai - mẫu 5

Có thể hình dung: nhật vật trữ tình đang đắm mình trong nỗi nhớ nhung sầu muộn. Mọi cử chỉ bỗng hoá thẫn thờ. Chiếc khăn vắt hờ hững trên vai vô ý rơi xuống đất. Nhân vật trữ tình cúi nhặt và bỗng nhiên nhìn thấy khăn như nhìn thấy chính cõi lòng mình.

Bài ca dao thể hiện nỗi nhớ người yêu của một cô gái. Không chỉ nhớ mà còn có lo phiền, phấp phỏng. Chính sự lo phiền, phấp phỏng ấy đã làm cho nỗi nhớ còn thêm chiều sâu, khiến nỗi nhớ có thể làm lay tỉnh toàn bộ nhân cách con người. Ca dao có rất nhiều bài nói về nỗi nhớ người yêu và mỗi bài lại toát lên một vẻ đẹp riêng. Thường thì nỗi nhớ ấy hay được thể hiện hoặc miêu tả một cách trực tiếp, dù các tác giả dân gian đã dùng rất nhiều ví von.

Ở bài ca dao này, cách bày tỏ nỗi nhớ có nhiều điểm khác lạ. sắm vai một người đọc ngây thơ, ta sẽ thấy hình như nhân vật trữ tình dồn toàn bộ sự quan tâm cho khăn, cho đèn, cho mắt, tức là cho những đối tượng mà người ấy nhận rõ là chúng đang nhớ một ai đó. "Khăn thương nhớ ai", "Đèn thương nhớ ai", "Mắt thương nhớ ai" - với chừng ấy câu hỏi đặt ra cho những "người bạn" (riêng với khăn, câu hỏi được nhắc tới ba lần), dường như nhân vật trữ tình không còn mối bận tâm nào khác ngoài việc vỗ về, an ủi khăn, đèn, mắt. Nhưng ta chợt nhận ra một sự vô lí: ngoài khăn và đèn là những vật vô tri không thể biết nhớ, ngay cả mắt (người) đâu có phải là một sinh thể độc lập có thể biết tương tư? Vậy là nhân vật trữ tình đang sống trong cõi ảo, đang trò chuyện với những nhân vật ảo. Hiện tượng này chỉ xảy ra khi con người có tâm sự quá đầy và bị "cầm tù" bởi tâm sự đó. Tâm sự tràn ra ngoại giới, phủ trùm cái bóng của mình lên tất cả, khiến mọi vật bỗng trở nên có hồn và có thể trở thành những đối tượng chuyện trò. Tuy nhiên, lúc này, chuyện trò với khăn, với đèn, với mắt thì cũng chỉ là chuyện trò với chính lòng mình mà thôi. Nói cách khác chuyện trò với ai, về cái gì, trong trường hợp này, cũng chỉ là một sự tự giãi bày.

Có thể hình dung: nhật vật trữ tình đang đắm mình trong nỗi nhớ nhung sầu muộn. Mọi cử chỉ bỗng hoá thẫn thờ. Chiếc khăn vắt hờ hững trên vai vô ý rơi xuống đất. Nhân vật trữ tình cúi nhặt và bỗng nhiên nhìn thấy khăn như nhìn thấy chính cõi lòng mình. Khăn ơi, tại sao mày lại rơi xuống đất? Mày đang nhớ thương ai vậy? Những câu hỏi rưng rưng nỗi niềm đã được đặt ra trong trạng thái mộng du của nhân vật trữ tình. Chúng không phản ánh cái gì khác ngoài cõi lòng người hỏi. Nói khăn và đèn được nhân hoá thì cũng đúng. Nhưng có lẽ đúng hơn nếu nói chúng là hình ảnh của nhân vật trữ tình được khúc xạ qua một tấm gương soi đặc biệt. Những động thái của chúng không có ý nghĩa độc lập mà chỉ là sự phản chiếu những cử chỉ và diễn biến tâm lí đa dạng, phức tạp của tác giả bài ca dao. Người ta thường nói ca dao có vẻ đẹp mộc mạc, giản dị. Trong trường hợp này, sự giản dị, mộc mạc vẫn thể hiện (đặc biệt qua hệ thống những hình ảnh gần gũi và qua lời nói "trong suốt", không trang sức), nhưng không vì thế mà cái ảo diệu biến hoá lại không để lại dấu ấn đậm nét.

Tuy đi sâu vào chốn u uẩn của cõi lòng, bài ca dao vẫn giữ được tính mạch lạc của cấu trúc. Các hình ảnh khăn, đèn, mắt không hề xuất hiện một cách ngẫu nhiên. Khăn vắt vai, khăn để chùi nước mắt, ngọn đèn thắp chong canh dài, đôi mắt đẫm lệkhông chịu nhắm ngủ - đó đều là những hình ảnh có tính đặc thù mà thơ ca (trong đó có ca dao) thường mượn để thể hiện tâm trạng nhớ nhung, thao thức. Chúng liên kết với nhau một cách chặt chẽ nhằm biểu đạt một chủ đề thống nhất. Giữa chiếc khăn và đôi mắt có mối liên hệ thế nào, chính bài ca dao đã nói rõ. Còn ngọn đèn? Nó cũng có thể được hiểu là một con mắt khác thức thi với mắt người giữa đêm thâu vời vợi. Chẳng phải ngọn đèn vẫn thường làm bạn với ta mỗi khi ta có điều lo nghĩ đó sao? Một điều đáng lưu ý nữa là trình tự xuất hiện của các hình ảnh. Khăn xuất hiện trước rồi đến đèn và sau cùng là mắt. Có một sự dịch chuyển từ xa đến gần của các hình ảnh, từ sự vật bên ngoài đến chính con người tác giả. Nỗi nhớ càng được thổ lộ lại càng nồng nàn đến mức làm rung lên toàn bộ thế giới tâm hồn của nhân vật trữ tình và xét về hiệu quả thẩm mĩ, nó cũng làm biến chuyển cả nhịp thơ. Sáu dòng thơ đầu dành để tâm sự cùng khăn. Chúng mang nhịp điệu kể lể đều đều, ri rả và có giọng bùi ngùi. Bốn dòng thơ sau được san đôi, dành sự "quan tâm" cho cả đèn và mắt. Nhịp thơ gấp gáp hơn trong một kiểu liệt kê hối hả. Nhân vật trữ tình đã chạm đến đáy tâm sự và niềm thao thức của mình. Trạng thái mộng du dần tan để trả con người về với sự kiểm soát của lí trí. Một giai đoạn của cảm xúc thế là đã qua đi.

Hai dòng cuối của bài ca dao là một câu lục bát mênh mang nỗi niềm. Con thuyền thơ, sau lúc tự để mình rơi vào vòng vây của nỗi nhớ chập chùng, đã thoát ra với không gian trầm tư lặng lẽ. Tuy nhiên, không thể bảo rằng nhân vật trữ tình - người chèo lái nó - đã tìm được sự bình yên. Những con sóng ưu phiền khác đang lao xao bủa đến... Nhìn chung, việc thay đổi thể thơ ở đây rất có ý nghĩa. Một mặt nó báo hiệu sự chuyển biến tinh tế trong dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình, mặt khác nó đảm bảo chức năng điều hoà nhịp thở của người diễn xướng, người đọc, không để tiếp diễn sự kể lể có nguy cơ kéo bài ca dao rơi vào tình trạng dài dòng, gây nên cảm giác căng thẳng không cần thiết. Sự bộc lộ trực tiếp tâm trạng dưới hình thức mờ tối, rối rắm của chính tâm trạng đã được thay thế bằng một nhận định khái quát về cái tính chất của tâm trạng đã được thay thế bằng một nhận định khái quát về cái tính chất của tâm trạng. Nhân vật trữ tình hiểu rằng mình đã lo phiền và cũng biết nguyên nhân của nỗi lo phiền ấy. Yêu nhau nhiều nhưng dễ gì đến được với nhau, lấy được nhau. Bao nhiêu chuyện phải bận lòng, bao nhiêu thứ có thể cản trở hạnh phúc. Cô gái nói "Lo vì một nỗi không yên một bề" - chỉ một bề nhưng lại bề bề nỗi lo, bởi bề ấy không thuộc bề (tức là phía) cô gái, mà thuộc về bề cô không thể làm chủ, không thể chi phối được.

Bài Khăn thương nhớ ai... ta vừa "đọc" đáng được xem là một trong những bài hay nhất trong kho tàng ca dao dân tộc.

Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học