10+ Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng (điểm cao)

Tổng hợp 10+ Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

10+ Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng

1. Mở bài

+ Giới thiệu về tác giả Trương Hán Siêu: Là người cương trực, học vấn uyên thâm được vua và dân nhà Trần tin cậy.

+ Giới thiệu bài thơ Bạch Đằng Giang phú: hoàn cảnh ra đời, nội dung.

2. Thân bài

* Cảm xúc của nhân vật khách trước sông Bạch Đằng

- Nhân vật "khách": Là sự tự xưng của tác giả, tạo nên lối chủ-khách đối đáp thường dùng trong thể phú.

- Tâm thế du ngoạn: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.

→ Tư thế ung dung, tự do. Tác giả là người có tâm hồn tự do, phóng khoáng.

- Hành trình du ngoạn của tác giả:

+ Các địa danh Trung Quốc: Nguyên Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng.

→ Những địa danh được biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng. Tác giả là người có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng.

Quảng cáo

+ Các danh lam thắng cảnh Đại Việt: Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng - dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.

→ Tác giả yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ hào hùng của dân tộc.

+ Cách nói cường điệu: Sớm Nguyên Tương – chiều Vũ Huyệt, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày.

→ Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách, say sưa, chủ động đến với thiên nhiên.

- Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng

+ Hùng vĩ, tráng lệ:

- "Sóng kình muôn dặm": Địa thế hiểm trở, dữ dội của con sông Bạch Đằng.

- "Đuôi trĩ một màu": Những con thuyền nối đuôi nhau trên dòng sông.

+ Thơ mộng, trữ tình

- Thời gian "ba thu": Tháng thứ ba của mùa thu, thu chín nhất.

- "Nước trời một sắc": Bầu trời, mặt nước đều hòa chung một màu trong xanh.

+ Hoang vu, hiu hắt

Quảng cáo

- Từ láy "san sát, đìu hiu": Cực tả khung cảnh hoang vu, lạnh lẽo đầy lá lách, lau sợi

- "Giáo gãy, xương khô": Chiến trường xưa, chốn tử nạn của quân thù.

- Tâm trạng của khách:

+ Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống

+ Tư thế "đứng lặng giờ lâu" cho thấy nhà thơ đang đắm chìm vào thế giới nội tâm với sự tiếc nuối ngậm ngùi.

* Các bô lão kể về những chiến tích trên sông Bạch Đằng

- Hình ảnh bô lão: Có thể là những nhân vật có thật, là các vị cao niên ở hai bên bờ sông, cũng có thể là hư cấu, sự phân thân của tác giả để khách quan kể về những chiến công trên sông Bạch Đằng.

- Thái độ của các bô lão với khách: "vái", "thưa"- hiếu khách, tôn kính khách.

- Các chiến công tiêu biểu: Ngô quyền đánh quân Nam Hán, Hoằng Tháo thua trận và chết ở sông Bạch Đằng năm 938 và Trùng Hưng nhị thánh bắt sống Ô Mã năm 1288.

- Không khí chiến trường xưa:

+ Sự chuẩn bị của quân nhà Trần: thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới, hùng hổ sáu quân, gươm giáo sáng chói

Quảng cáo

→ Chuẩn bị kỹ lưỡng, binh lực hùng hậu, hào khí ngút trời.

+ Diễn biến trận đánh:

- Cách nói "được thua chửa phân", "bắc nam chống đối", hình ảnh phóng đại "nhật – nguyệt phải mờ, bầu trời đất sắp đổi"

→ Trận đánh gay go, quyết liệt, giằng co căng thẳng.

- Quân giặc: "những tưởng gieo roi một lần quét sạch Nam bang bốn cõi"

→ Kiêu căng, hống hách, ngạo mạn

- Kết thúc trận đánh: Hung đồ hết lối, khác nào...chết trụi.

→ Thủ pháp so sánh tăng cấp tô đậm, nhấn mạnh thất bại thảm hại, nhục nhã, ê chề của kẻ thù.

→ Khẳng định tình yêu và niềm tự hào dân tộc.

* Lời suy ngẫm, bình luận của các bô lão về những chiến công

- Nguyên nhân thắng lợi: đất trời cho nơi hiểm trở, nhân tài giữ được cuộc điện an, đại vương coi thế giặc nhàn.

→ Nhấn mạnh ba yếu tố làm nên thắng lợi thiên thời – địa lợi – nhân hòa, trong đó nhấn mạnh vai trò của con người.

- Gợi lên hình ảnh Trần Quốc Tuấn và so sánh với những người xưa

→ Khẳng định sức mạnh, tài năng của con người nhất là người lãnh đạo. Thể hiện giá trị nhân văn của tác phẩm.

* Suy ngẫm về hưng vong của đất nước.

- Lời của các bô lão.

+ Hình tượng sông Bạch Đằng: mênh mông, rộng lớn, hùng vĩ, hiểm trở

→ Tình yêu, niềm tự hào về cảnh sắc quê hương, về dòng sông lịch sử.

+ Mượn quy luật của tự nhiên để khái quát quy luật của con người: Mọi dòng sông đều dồn về biển cả, những kẻ bất nghĩa sẽ tiêu vong, anh hùng lưu danh muôn đời.

- Lời của khách:

+ Ca ngợi sông Bạch Đằng dòng sông lịch sử, dòng sông anh hùng.

+ Ca ngợi đức độ, tài năng hai vị thánh quân Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông.

+ Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc.

* Nghệ thuật:

- Bố cục chặt chẽ, cách kể tả sinh động

- Xây dựng các hình tượng nhân vật sinh động, đặc sắc mang ý nghĩa triết lí.

- Ngôn ngữ cô đọng, trong sáng, hào hùng.

3. Kết bài

+ Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

+ Mở rộng: Sông Bạch Đằng là đề tài, niềm cảm hứng lớn trong văn chương với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng khác.

Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng - mẫu 1

“Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm tiêu biểu cho đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam. Tác giả Trương Hán Siêu đã dùng hoài niệm quá khứ để thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc về chiến công lừng lẫy trên sông Bạch Đằng. Bài phú chứa đựng những giá trị tư tưởng nhân văn sâu sắc, bao gồm truyền thống anh hùng bất khuất và đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Bài Phú sông Bạch Đằng mở đầu với lời giới thiệu nhân vật “khách”, đó là tác giả – một người thích du ngoạn, khám phá và tự do.

“Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết”

Trong chuyến đi dạo của mình cả trong thực tế lẫn trong tưởng tượng, người khách đã đi qua nhiều danh lam thắng cảnh, bao gồm cả ở Trung Quốc (Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng,…) và ở Đại Việt (Đại Than, Đông Triều, Bạch Đằng,…). Khi đến đây, người khách đã được đắm chìm trong không gian cảnh sắc đa dạng của sông Bạch Đằng:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm…

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”

Cảnh sắc nơi chiến tích sông Bạch Đằng vừa mang vẻ hùng vĩ với hình ảnh “sóng kình muôn dặm”, một khung cảnh đầy ấn tượng và có sức hút đặc biệt với những người yêu thích vẻ đẹp thiên nhiên. Hình ảnh của đuôi trĩ một màu thướt tha đầy trang nhã, kết hợp với không gian đất trời vào độ chín nhất, bầu trời mặt nước cùng một màu xanh, đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp và đầy cảm xúc.

Tuy nhiên, không khí của nơi chiến tích xưa vẫn còn đọng lại trong không gian này. Những hàng lau sợi bên sông cực tả vẻ hoang vu, lạnh lẽo, tạo nên một khung cảnh đầy u ám và đáng sợ. Thêm vào đó là cảnh “giáo gãy, xương khô” nơi chiến trường xưa đẫm máu, đã làm cho không khí của nơi đây trở nên đau đớn và nuối tiếc.

Khi đứng trước cảnh tượng ấy, vị khách không khỏi cảm thấy buồn thương và nuối tiếc trước sự thay đổi của cảnh vật. Nhưng cũng chính những hình ảnh đó đã mang đến cho người ta nhiều cảm xúc và suy nghĩ sâu sắc về cuộc chiến trên sông Bạch Đằng và những người đã hy sinh vì đất nước.

Hình tượng các bô lão xuất hiện đã mang đến những câu chuyện kể về chiến tích trên sông Bạch Đằng. Những câu chuyện hào hùng và đầy cảm xúc về cuộc chiến đó đã được tái hiện lại một cách sống động và chân thực. Các bô lão đã kể lại diễn biến trận đánh cho thấy đây là một trận đánh quyết liệt, căng thẳng, quân giặc là những kẻ hống hách, hung tàn và ngạo mạn đã phải chịu thất bại thảm hại, nhục nhã ê chề.

Với bài “Bạch Đằng giang phú”, người ta có thể ôn lại những trang lịch sử dân tộc vẻ vang, hào hùng, củng cố thêm niềm tự hào và tự tôn dân tộc. Nơi đây trở thành một nơi lưu giữ những kỷ niệm đẹp, những câu chuyện lịch sử và những hình ảnh đẹp của quê hương Việt Nam.

“Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã

Cũng là bãi đất xưa, Ngô chúa phá Hoằng Thao…”

Các bô lão kể lại chiến công lịch sử hào hùng, sống động, tái hiện khung cảnh chiến trường và diễn biến trận đánh căng thẳng, quyết liệt. Quân giặc bị đánh bại thảm hại vì hống hách, hung tàn và ngạo mạn. Các bô lão nhận định về nguyên nhân dẫn đến thắng lợi.

“Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”

Ba yếu tố cơ bản là thiên thời, địa lợi, nhân hòa, với vai trò quan trọng của con người. Hình ảnh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được so sánh với những người hùng thời xưa. Hai bài ca cuối được chuyển sang thể lục bát: bài ca của các bô lão và lời ca của kẻ khách.

“Sông Đằng một dải dài ghê…

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”

“Anh minh hai vị thánh quân…

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao”

Các bô lão ca ngợi con sông Bạch Đằng rộng lớn, hiểm trở và có ý nghĩa lịch sử. Họ tin rằng kẻ bất nghĩa sẽ tiêu vong và người anh hùng sẽ được tôn vinh. Kẻ khách tiếp tục ca ngợi anh hùng Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông, hy vọng mang lại sự bình yên vĩnh viễn cho dân tộc.

Qua bài “Bạch Đằng giang phú”, ta có thể hồi tưởng và tôn vinh lại những trang lịch sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trận Bạch Đằng năm 938. Trận chiến này đã chứng minh sức mạnh và tài năng của tướng quân Ngô Quyền, đánh bại quân Nam Hán xâm lược và đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập và chủ quyền của Việt Nam. Ngoài ra, bài phú “Bạch Đằng giang phú” còn là một tác phẩm văn học kinh điển của thời Trần, được viết bằng chữ Hán, với nội dung tôn vinh chiến công của tướng quân Ngô Quyền và khát khao giành lại độc lập cho đất nước.

Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng - mẫu 2

Phú sông bạch đằng là cảm nhận sâu sắc hào hùng của tác giả về lịch sử dân tộc và cảnh sắc nơi đây. Trong một lần dạo chơi, Trương Hán Siêu đã có cảm hứng viết bài phú về dòng sông này: Vừa tự hào, vừa hoài niệm, vừa thương tiếc anh hùng xưa.

Nhân vật khách là sự phân thân của tác giả, là nhân vật do tác giả tạo nên để hợp thức hóa suy nghĩ, tâm tư, của tác giả một cách khách quan. Mục đích là du ngoạn thiên nhiên, đến các chiến địa, thưởng thức vẻ đẹp, tìm hiểu cảnh đất nước, bồi thêm tri thức cho bản thân. Các địa danh lịch sử được lấy trong các điển cố Trung Quốc tác giả đi qua chủ yếu bằng tri thức của sách vở của trí tưởng tượng phong phú. Khách tự họa bức chân dung tinh thần của mình là hồn thơ, một khách hải đồ, một kẻ sĩ tha thiết với đất nước và lịch sử dân tộc. Thể hiện là một người có vốn hiểu biết phong phú, yêu thiên nhiên, say đắm thưởng ngoạn, mang trong mình tâm hồn khoáng đạt, có hoài bão lớn lao. Thiên nhiên, quang cảnh nơi sông Bạch Đằng luôn hùng vĩ, tráng lệ, có chút thơ mộng nhưng phảng phất nét đìu hiu, ảm đạm của thời gian của lịch sử. Tâm trạng của tác giả trước cảnh sắc có sợ đổi lập của thiên nhiên. Phấn khởi, tự hào trước bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, trong sáng, thơ mộng. Buồn thương, nuối tiếc trước vẻ ảm đạm, hắt hiu hoang vu.

Hình tượng các bô lão trong tác phẩm có thể là các nhân vật có thật, họ có thể là những người dân địa phương ven sông Bạch Đằng mà tác giả gặp hay có thể là nhân vật hư cấu từ tâm tư của chính tác giả về các trận chiến trên sông Bạch Đằng trở nên khách quan. Họ là những người chứng kiến chiến tích lịch sử, là người kể lại tất cả các chiến tích hào hùng đó cho khách nghe. Người dân nơi đây, đại diện là các bô lão, họ luôn nhiệt tình tiếp khách và tôn kính khách. Hai chiến tích Ngô chúa phá Hoằng Thao và Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã được tác giả nhắc tới. Mở ra khung cảnh các trận chiến gam go, khốc liệt. Các hình ảnh so sánh, đối lập khẳng định chiến thắng hào hùng, vang dội của ta và bày tỏ niềm tự hào dân tộc. Các bô lão kể lại các chiến tích bằng chất giọng hào hùng đó là sự tự hào mang nguồn cảm hứng của người trong cuộc. Nguyên nhân làm nên thắng lợi đó là thời thế thuận lợi, địa thế sông núi hỗ trợ, Con người – người tài, có đức lớn giữ vai trò quyết định quan trọng nhất đến thắng lợi của dân tộc. Tác giả gợi lại hình ảnh của Trần Quốc Tuấn và những hình ảnh so sánh để khẳng định sức mạnh và tài năng của con người nhân tố quyết định thắng lợi.

Đoạn kết là tuyên ngôn về chân lý của các bô lão, những người bất nghĩa nhất định sẽ bị diệt vong, những người anh hùng, nhân nghĩa thì mãi được lưu danh thiên cổ. Đó là chân lí có tính chất vĩnh hằng như sông bạch đằng ngày đêm chảy siết, đổ về bể lớn, đó là một quy luật tự nhiên, bất biến, nghìn năm không thay đổi. Ca ngợi chiến tích trên sông Bạch Đằng để khẳng định chân lý, khẳng định sức mạnh của con người góp phần quan trọng trong công cuộc gìn giữ non sông. Xuất phát từ lòng biết ơn, sự tự hào về những thắng lợi của lịch sử dân tộc và sự hùng vĩ của non sông. Với bố cục chặt chẽ, câu từ đơn giản nhưng hấp dẫn, xây dựng các hình tượng nghệ thuật sinh động vừa gợi sắc trực tiếp vừa mang ý nghĩa khái quát, triết lý. Ngôn ngữ vừa lắng đọng, vừa gợi cảm nhưng cũng không kém phần hào hùng. Bài phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.

Bài phú thể hiện lòng yêu nước sự tự hào dân tộc về truyền thống anh hùng bất khuất và thể hiện đạo lý nhân nghĩa cao đẹp, Mang lại tư tưởng nhân văn sâu sắc. Con người đóng và trò là bước đệm của mọi thành công và nỗi niềm cảm khái trước sông Bạch Đằng ở hiện tại.

Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng - mẫu 3

Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều đóng góp lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng, nhưng Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu được xếp vào hàng kiệt tác. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm bộc lộ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc.

Bài thơ được viết theo thể thơ phú. Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Phú thường đạm chất trữ tình. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết bằng chữ Hán, theo lời phú có thể, có vần và đăng đối theo cặp câu thơ tạo nên tính quy phạm rất rõ trong thể phú. Hiện nay, chưa rõ Trương Hán Siêu viết Bạch Đằng giang phú vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài: Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá – Tiếc thay dấu vết luống còn lưu, ta có thể đoán được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất tức là vào khoảng 1301 – 1354. Nội dung bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của tác giả trước những chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Thông qua việc đề cao vai trò và vị trí của con người trong lịch sử, đề cao đạo lí chính nghĩa, tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc.

Mở đầu bài phú là cảm xúc của nhân vật khách trước khung cảnh hùng vĩ của sông Bạch Đằng. Đó là cảm xúc dạt dào cảm hứng lịch sử của một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do. Nhân vật khách chính là tác giả đã được khách thể hoá trong vai một nghệ sĩ thích ngao du, yêu mến cảnh sắc thiên nhiên, đồng thời cũng say mê tìm hiểu lịch sử oai hùng của dân tộc.

Bằng bút pháp khoa trương, cường điệu, tác giả đã nêu bật sở thích ngao du sơn thuỷ và trình độ hiểu biết, trải nghiệm sâu rộng của nhân vật trữ tình :

Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Mở đầu bài phú là ba chữ “Khách có kẻ”, nhân vật khách xuất hiện nơi nhánh sông này, chính là Trương Hán Siêu, đây là nhân vật trữ tình. Mặc dù ông là người cương trực, học vấn uyên thâm nhưng con người ông phóng khoáng và cũng luôn hết mình vì thiên nhiên. Từ khách mang cái thú vui thưởng ngoạn, ngao du trên thuyền ngắm nhìn, thăm thú những cảnh đẹp hòa cùng đất trời. Biết bao vùng miền lữ khách đã đặt chân đến. Sự phóng khoáng ấy còn được thể hiện rõ hơn trong câu thơ “Giương buồm giong gió chơi vơi”, khách là một tao nhân khoáng đạt chơi với cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông nước, sống hết mình với thiên nhiên. Vị khách này là người đã đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, nhưng những hình ảnh ở đây chỉ mang tính tượng trưng để làm nổi bật lên cá tính, làm nổi bật lên con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước lấy việc du ngoạn làm thú vui ở đời, tự hào về thói giang hồ của mình. Đêm thì mải miết chơi với ánh trăng kia, ngày sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều thăm chừ Vũ Huyệt. “Nơi có người ở - Đâu mà chẳng biết” chứng tỏ một điều rằng ông là người đi nhiều nơi, biết nhiều chỗ, nhưng ở đây chỉ là hình ảnh tượng trưng nói lên tâm hồn người thi sĩ, một cá tính, yêu thiên nhiên thiết tha, lấy việc đi du ngoạn bốn phương là niềm vui thú. Các địa danh: Nguyên Tuơng, Ngũ Hồ… mà tác giả nhắc tới đều mang tính chất ước lệ, tượng trưng lấy trong sử sách Trung Quốc. Tác giả đi thăm các danh lam thắng cảnh này chủ yếu bằng sách vở và trí tưởng tượng của mình. Điều đó càng khẳng định vẻ đẹp thiên nhiên có thể lọt vào mắt xanh của tác giả vốn rất khó tìm.

Thế nhưng tác giả lại đặt chân đến những địa danh quen thuộc của đất nước như: cửa Đại Than,… bến Đông Triều,…và dừng lại ở sông Bạch Đằng… Khung cảnh thiên nhiên vùng sông nước Bạch Đằng hiện lên trước mắt tác giả mỗi lúc một rõ nét:

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.

Bạch Đằng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc. Cuối thu (ba thu) nước trời một màu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu - Nước trời: một sắc - Phong cảnh ba thu”. Câu văn tả thực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “ Đằng Vương các” “ Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với trời xa một màu). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết: “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối - Lầm tưởng rằng máu người chết vẫn chưa khô”(Bạch Đằng giang - Dịch nghĩa). Con sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng: mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ.

Trở lại chiến trường xưa, nơi ghi dấu bao chiến công hiển hách vào thời điểm cuối mùa thu, tác giả thấy khung cảnh thiên nhiên tuy không có gì thay đổi nhưng đã đượm vẻ lạnh lẽo, hoang vu, vì vậy mà động lòng hoài cổ:

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.

Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu !

Thời gian vô tình, nghiệt ngã đã và đang làm phai mờ những dấu tích lịch sử khiến lòng người trầm lắng, suy tư. Đây là nơi diễn ra bao trận đánh, chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những hy sinh, mất mát. Những “giáo gãy”, “xương khô”, “trời nước”, “lau lách đìu hiu” như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Trương Hán Siêu bày tỏ nỗi tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước. Tâm trạng buồn, thương tiếc, cảm xúc đứng lặng giờ lâu của khách biểu lộ niềm xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xương máu bảo vệ dòng sông cùng sự tồn vong của dân tộc

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Khách đang đắm chìm trong tâm trạng hoài niệm thì các bô lão từ xa đi tới làm cho khách giật mình sực tỉnh trở về với hiện tại. Trận thủy chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng năm xưa được các bô lão kể lại cho khách nghe một cách hào hứng. Cảm xúc chủ đạo của bài phú là sự ngợi ca chiến công lẫy lừng của cha ông ta trên dòng sông lịch sử này. Chính vì thế, đến đoạn thơ thứ hai, tác giả chuyển sang mượn lời các bô lão – những người đã từng chứng kiến và tham gia trận Bạch Đằng kể lại trận chiến oai hùng này:

“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”

Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

… Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi

Chỉ với một đoạn thơ ngắn mà tác giả đã tái hiện được không khí hào hùng của trận đánh với sự đông đảo của lực lượng tham chiến và sự dữ dội của cuộc chiến “thư hùng chưa phân” khiến cho cả trời đất mờ mịt, như sắp đổi dời. Các trận đánh tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo., sự đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước luôn trong tình trạng lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc. Nghe các bậc tiền bối kể lại diễn biến từng trận đánh.

Ngay từ đầu, quân ta và quân địch đã tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Nghệ thuật đối đã nêu bật không khí chiến trận bừng bừng:

Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,

Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến lũy bắc nam chống đối.

Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí: quân dân ta với ý chí quyết tâm cùng lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa; quân địch thì thế cường với bao mưu ma chước quỷ. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt:

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Đây là những hình tượng kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ lớn lao, được đặt trong thế đối lập: nhật nguyệt / mờ, trời đất / đổi, báo hiệu một cuộc thuỷ chiến kinh thiên động địa.

Nguyên nhân của cuộc đối đầu quyết liệt ấy chính là mưu mô thâm hiểm của quân xâm lược phương Bắc, cho dù có khác nhau về thời gian nhưng thống nhất ở mục đích cướp nước Đại Việt bằng được:

Kìa:

Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi!

Tác giả chỉ rõ sức mạnh ghê gớm của quân Nguyên – một lực lượng vô cùng tinh nhuệ dưới sự chỉ huy của Hốt Tất Liệt, đồng thời cũng nhắc lại chuyện thời Ngô Quyền, Lưu Cung tức vua Nam Hán lập chước lừa dối để nhằm xâm lược nước Nam. Chuyện Bồ Kiên nước Tần khi dẫn quân vào đánh nước Tấn huênh hoang tuyên bố: “Cứ như số quân của ta thì chỉ ném roi ngựa xuống sông cũng ngăn dòng nước lại được”. Tác giả mượn ý này để nói những đạo quân xâm lược trước đây và hiện nay đều ỷ thế quân đông tướng mạnh, đều ngạo mạn tưởng rằng chỉ một trận đánh là dẹp được bốn cõi, thu phục nước Nam. Nhưng chúng đâu có ngờ sức mạnh “Sát Thát” của quân dân nhà Trần đã được đất trời ủng hộ:

Thế nhưng:

Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối!

Bằng cách sử dụng điển cố và lối nói khoa trương, tác giả đã ngầm so sánh chiến thắng trên sông Bạch Đằng với những trận thuỷ chiến vang dội nhất trong lịch sử phương Bắc:

Khác nào khi xưa:

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Hình ảnh đặc tả tan tác tro bay và hoàn toàn chết trụi nhấn mạnh tính chất khốc liệt của trận chiến và sự thất bại thảm hại của quân giặc.

Theo quy luật của trời đất, cuối cùng thì người chính nghĩa chiến thắng, còn lũ hung đồ hết lối, chuốc nhục muôn đời:

Đến nay nước sông tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi!

Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.

Đến nay nước tuy sông chảy hoài đối lập với hình ảnh “Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”. Câu thơ vừa tả thực, vừa tạo sự liên tưởng so sánh thú vị. Dòng nước cứ mải miết trôi đi, thời gian qua đi, người xưa cảnh cũ rồi cũng thay đổi nhưng mưu mô xâm lược cùng thất bại của quân thù thì mãi mãi không gì gột rửa nổi. Đó là bài học đắt giá cảnh tỉnh tham vọng xâm lược phi nghĩa. Bên cạnh đó thì những câu thơ trên cũng khẳng định sức mạnh to lớn và niềm tự hào dân tộc sâu sắc của những người chiến thắng.

Thái độ, giọng điệu của các bô lão trong khi kể về chiến công Bạch Đằng đầy tự hào, tạo cảm hứng phấn khích cho tác giả. Lời kể không dài dòng mà xúc tích, cô đọng, tuy khái quát nhưng vẫn gợi lại được diễn biến, không khí của trận đánh một cách sinh động. Các câu trong đoạn này tuy dài ngắn khác nhau nhưng đều mang âm hưởng hào hùng, đanh thép.

Nhà thơ từ miêu tả, tự sự rồi suy ngẫm về sự vĩnh phục, về sự thắng bại trong lịch sử ta:

Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.

Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,

Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.

Đoạn thơ này nhắc lại ý thức về chủ quyền độc lập của đất nước đã được đặt ra và khẳng định trong bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt. Một cõi sông núi nước Nam tồn tại độc lập bên cạnh các quốc gia phương Bắc, điều ấy đã được phân định rõ ràng trong sách Trời (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư). Quan niệm về mối quan hệ giữa Thiên – Địa – Nhân (Trời – Đất – Người) cũng tiếp tục được khẳng định. Trong đó, trời đất hiểm trở giữ vai trò quan trọng, nhưng chính con người mới là chủ thể trong sự nghiệp giữ nước: Nhân tài giữ cuộc điện an. Con người làm nên chiến thắng ở đây là những tấm gương trung nghĩa, những tài năng lỗi lạc. Tác giả đưa ra bằng chứng lịch sử xác thực: Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm. Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung…đều là nhân tài. Điện an là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước. Tác giả sử dụng lối so sánh, nhắc đến vai trò to lớn của lã Vọng, Hàn Tín để lại võ công lừng lẫy, tác giả ngợi ca Hưng đạo Vương vĩ đại thuở bình Nguyên oanh liệt. Đoạn văn miêu tả dòng sông, kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất, màu sắc tráng lệ, hình ảnh kì vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình biểu lộ niềm tự hào dân tộc – sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Tác giả đã bày tỏ quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về cái vinh và cái nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả thật tráng lệ nên thơ tạo nên vẻ đẹp văn chương trong Bạch Đằng giang phú:

Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,

Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.

Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,

Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.

Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.

Việc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn mở hội nghị tướng sĩ, vương hầu ở bến Bình Than cũng giống như vương sư Lã Vọng, người đời Ân, đã giúp vua Vũ hội quân các nước chư hầu ở Mạnh Tân và diệt được vua Trụ tàn ác; tựa như bậc quốc sĩ Hàn Tín, người đời Hán, đã giúp Lưu Bang đánh tan quân Tề ở Duy Thuỷ.

Nguồn cội của chiến thắng to lớn ở Bạch Đằng chính là do tài trí sáng suốt của người lãnh đạo. Sự thật là sau hai lần thất bại, năm 1287 giặc Nguyên lại kéo sang xâm lược nước ta. Vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc đến làm thế nào?”. Hưng Đạo Đại Vương tâu: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Cách nhìn nhận thế giặc dễ đánh không phải là thái độ chủ quan mà dựa trên tài thao lược và niềm tin vào sức mạnh toàn dân cùng kinh nghiệm trải qua hai cuộc kháng chiến trước đây. Đó là một câu nói, một chi tiết của hiện thực đã đi vào văn chương muôn đời, thể hiện được tinh thần, hào khí Đông A và tầm vóc của một dân tộc anh hùng.

Hai bài ca ở đoạn cuối là niềm tự hào về non sông hùng vĩ gắn với các chiến công lịch sử và thể hiện quan niệm của tác giả về yếu tố quyết định trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước chính là con người.

Bài ca đầu là lời bình luận của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên ngôn về chân lí: những kẻ bất nghĩa như Lưu Cung thì tiêu vong, còn những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo thì lưu danh thiên cổ:

Sông Đằng một dải dài ghê,

Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Phần cuối bài phú là những lời ngợi ca của các bô lão và lữ khách về dòng sông huyền thoại, về đất nước và con người Việt Nam anh hùng. Tác giả đã dành những lời khen tặng, ngợi ca dành cho những vị anh hùng mà đứng đầu là hai vị vua nhà Trần:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Hai vị “thánh quân” ở đây là vua Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3. Nhờ những nhân tài mà đất nước được “điện an”; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh minh mà Đại Việt được “thanh bình muôn thuở”. Một lần nữa tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước: “bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”. Đức cao là lòng yêu nước thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm hoạ ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn đời Trần là ngoài “hào khí Đông A” còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước: “Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu” (Trần Quang Khải). “Đức cao” là nguyên nhân thắng lợi, như Trần Quốc Tuấn đã nói: “Vua tôi đồng long, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” – đó là nguồn sức mạnh Việt. Điều đó cho thấy, chiến thắng không phải chỉ do thuận lợi về địa thế hiểm trở mà quan trọng nhất là ở con người, ở cái “đức cao” lòng yêu thương con dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc. Đó mới chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng lầy lừng và vẻ vang nhất.

Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc. Với bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm xúc, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao cả nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam.

Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng - mẫu 4

Trương Hán Siêu tên thật là Thăng Phủ, quê ở làng Phúc Âm, phủ Yên Khánh, nay thuộc Phúc Thành, xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Ông làm quan trong suốt bốn đời vua Trần. Vì tính tình ông cương trực và học vấn uyên thâm nên được các vua thời Trần rất tin cậy và kính trọng. Vào thời kì nhà Trần suy yếu, các vua hậu Trần chỉ lo ăn chơi, hưởng thụ mà quên trách nhiệm trấn hưng đất nước. Trong dịp du ngoạn sông Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy nơi quân ta hai lần đánh tan quân xâm lược Mông-Nguyên, Trương Hán Siêu nhớ đến các bậc anh hùng xưa, vừa tự hào vừa viết nên bài phú sông Bạch Đằng. Ở thời trung đại, bài phú này được đánh giá là hay bậc nhất. Chưa có thông tin chính xác Trương Hán Siêu viết Bạch Đằng giang phú vào năm nào, nhưng qua giọng văn “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá / Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể nhận định được, bài phú này ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất.

Mở đầu bài phú là ba chữ “Khách có kẻ”, nhân vật khách xuất hiện nơi nhánh sông này, chính là Trương Hán Siêu, đây là nhân vật trữ tình. Mặc dù ông là người cương trực, học vấn uyên thâm nhưng con người ông phóng khoáng và cũng luôn hết mình vì thiên nhiên. Từ khách mang cái thú vui thưởng ngoạn, ngao du trên thuyền ngắm nhìn, thăm thú những cảnh đẹp hòa cùng đất trời. Biết bao vùng miền lữ khách đã đặt chân đến. Sự phóng khoáng ấy còn được thể hiện rõ hơn trong câu thơ “Giương buồm giong gió chơi vơi”, khách là một tao nhân khoáng đạt chơi vơi với cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông nước, sống hết mình với thiên nhiên. Vị khách này là người đã đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, nhưng những hình ảnh ở đây chỉ mang tính tượng trưng để làm nổi bật lên cá tính, làm nổi bật lên con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước lấy việc du ngoạn làm thú vui ở đời, tự hào về thói giang hồ của mình. Đêm thì mải miết chơi với ánh trăng kia, ngày sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều thăm chừ Vũ Huyệt. “Nơi có người ở / Đâu mà chẳng biết” chứng tỏ một điều rằng ông là người đi nhiều nơi, biết nhiều chỗ, nhưng ở đây chỉ là hình ảnh tượng trưng nói lên tâm hồn người thi sĩ, một cá tính, yêu thiên nhiên thiết tha, lấy việc đi du ngoạn bốn phương là niềm vui thú. Các địa danh: Nguyên Tuơng, Ngũ Hồ... đều trên đất Trung Hoa không chỉ đẹp, mà gợi ra một không gian bao la, rộng lớn, chỉ những người có tâm hồn phóng khoáng, trí nơi bốn phương. Hoà cùng với tâm hồn người thi sĩ hình ảnh “bờ lau san sát- bến lách đìu hiu- Sông chìm giáo gãy- Gò đầy xương khô”, sông Bạch Đằng để lại rất nhiều những dấu tích lịch sử. Đó là những dấu mốc oai hùng của lịch sử chống giặc ngoại xâm mang niềm tự hào hào khí của dân tộc, Trương Hán Siêu bày tỏ nỗi tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước. Tâm trạng buồn, thương tiếc, cảm xúc đứng lặng giờ lâu của khách biểu lộ niềm xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xương máu bảo vệ dòng sông cùng sự tồn vong của dân tộ, đây cũng chính tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn” được thể hiện qua những câu thơ:

Buồn vì cảnh thảm

Đứng lặng giờ lâu

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,

Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Không những vậy, những năm tháng một thời oanh liệt theo cứ lớp sau xô lớp trước mà trở về. Các trận đánh tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo. Điều này cho thấy thời đó dân tộc ta phải đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước luôn trong tình trạng lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc. Nghe các bậc tiền bối kể lại diễn biến từng trận đánh. Ban đầu, quân ta và quân địch đều tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Đây là sự đối đầu không riêng về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí: quân ta với lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa, quân địch thế cường bạo với bao mưu mô xảo quyệt. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt: “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ / Bầu trời đất chừ sắp đổi”.

Nhà thơ từ miêu tả, tự sự rồi suy ngẫm về sự vinh phục, về sự thắng bại trong lịch sử ta. Tổ quốc bền vững là nhờ hai nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá. Bạch Đằng, Chi Lăng... là đất hiểm. Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung...đều là nhân tài. Điện an là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước. Tác giả sử dụng lối so sánh, nhắc đến vai trò to lớn của lã Vọng, Hàn Tín để lại võ công lừng lẫy, tác giả ngợi ca Hưng đạo Vương vĩ đại thuở bình Nguyên oanh liệt. Đoạn văn miêu tả dòng sông, kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất, màu sắc tráng lệ, hình ảnh kì vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình biểu lộ niềm tự hào dân tộc – sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Tác giả đã bày tỏ quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về cái vinh và cái nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả thật tráng lệ nên thơ tạo nên vẻ đẹp văn chương trong Bạch Đằng giang phú. Kết thúc bài phú, tác giả đã ca ngợi hai vị vua Trần, Sông Bạch Đằng hùng vĩ một dải dài, mồ chôn lũ xâm lăng. Máu giặc như nhuộm đỏ cả dòng sông. Một cách nói hào hùng, giặc bất nghĩa nhất định sẽ bị tiêu vong:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Hai vị “Thánh quân” được nhắc đến là Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, hai vị vua này đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2- thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Họ là hai vị vua yêu nước thương dân, họ đã khơi dậy sự đoàn kết, sức mạnh dân tộc lòng yêu nước đem lại bài học giữ nước cho muôn đời.

Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật thể phú trong văn học Việt Nam thời trung đại: với ngôn từ đẹp, dễ đọc, bố cục chặt chẽ, câu từ linh hoạt mang đậm tính triết lý. Chất trữ tình sâu lắng cùng với giọng điệu hùng ca, không khí trang trọng, tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, rung động cùng cảm xúc, sáng suốt khi bình luận là những thành công của Trương Hán Siêu. Từ đó, tác giả bày tỏ niềm tự hào dân tộc, đây cũng là lời nhắc nhở những thế hệ mai sau tiếp nối truyền thống cha anh để lại.

Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng - mẫu 5

“Trăm năm bia đá cũng mòn

Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!”

Trong số các bài văn viết về trận thủy chiến Bạch Đằng, bài phú của Trương Hán Siêu ra đời sớm hơn tất cả và cũng là một bài văn không thể lãng mạn hơn. Bạch Đằng giang phú là tác phẩm mà tính chất trữ tình và màu sắc anh hùng ca được kết hợp một cách tinh tế.

Từ những câu chữ đầu tiên nhân vật khách xuất hiện đầy hào phóng, kiêu hùng. Khách rất “đam mê khám phá”, “mở cánh buồm vươn ra biển”, “khám phá vùng biển dưới ánh trăng sáng”. Gót chân đi rất xa:

Cửu giang, ngũ hồ

Tam ngô, Bách Việt.

Nơi có người qua lại,

Khắp nơi đều biết

Ở đây, thông qua hình ảnh của các không gian rộng lớn, những địa danh nổi tiếng và các hành động mạnh mẽ, số từ dày đặc, số lượng nhiều, kết hợp với cách diễn đạt quyết liệt, tác giả đã rõ ràng mô tả tính cách của một người lanh lợi, sáng tạo, ham học hỏi và năng động của khách. Điều này cũng làm nổi bật tên tuổi của khách so với cách sống kín đáo của các nhà học. Bởi vì các cuộc phiêu lưu của khách không chỉ là niềm vui vô bổ mà còn vì mục đích tăng cường, mở rộng kiến thức về lịch sử quốc gia mong muốn đạt được sự đồng tình với Tư Mã Thiên.

Tiếp theo, tác giả đưa người đọc vào một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm và độc đáo: cuộc chơi trên sông Bạch Đằng. Nếu ở phần đầu tiên thời gian đã trở nên trừu tượng thì ở đây, tác giả tạo ra một cảnh cụ thể (cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng) với thời gian được xác định rõ ràng (tháng chín) và một phong cách cụ thể (bầu trời và đất đều một màu, bờ lau sát bên) cùng với những dấu vết của trận chiến được miêu tả một cách hình tượng. Phong cảnh Bạch Đằng vẫn rực rỡ, đầy hào quang nhưng cũng trầm lặng, yên bình theo thời gian với tất cả sự trầm tư và nhạy cảm, buồn bã, đau đớn:

Xót vì cảnh bi thảm,

Đứng lặng suy tư mấy giờ.

Thương nhớ anh hùng lẻ loi ra đi

Đau lòng vì dấu vết nơi vùng đất.

Như vậy, nhân vật khách bước vào tác phẩm với sự trang nghiêm, tôn trọng, là một nhân vật được tôn vinh. Dường như đây cũng là lời khẳng định từ tác giả – người dũng sĩ mang trong mình tình yêu sâu đậm với đất nước và lịch sử dân tộc.

Sự xuất hiện của nhân vật khách với tâm trạng trầm ngâm như một lời gợi ý, mở đầu cho sự xuất hiện của các bô lão. Họ đến từ mọi lứa tuổi: từ người già phải dựa vào gậy, đến những người trẻ có thể lái thuyền nhỏ, nhưng tất cả đều tràn đầy nhiệt huyết, nhạy cảm và đón tiếp khách một cách nồng hậu. Họ hỏi thăm khách:

Bên bờ sông các bô lão,

Hỏi ta về chuyến đi.

Tác giả không trực tiếp đề cập đến câu hỏi của các bô lão, nhưng qua sự nhiệt tình của họ, qua cách trò chuyện giữa khách và các bô lão, chúng ta có thể hiểu chủ đề của câu chuyện: các bô lão, là những người địa phương, có thể đã trải qua trận chiến khốc liệt và dẫn khách đi tham quan các chiến trường cũ, giải thích về trận đánh lịch sử với những chiến công:

Có người với gậy đỡ trước mặt

Có người lái thuyền nhẹ sau lưng

Vái mình trước ta và nói rằng

– Đây chính là nơi của trận chiến Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Và cũng là mảnh đất đã từng chứng kiến chiến thắng của Ngô chúa trước Hoằng Thao.

Những bô lão đã đầy hào hứng, phấn khởi kể lại trận đánh “ngày xưa” với sự phấn khích, lòng tin và tự hào về truyền thống yêu nước và tinh thần chiến đấu của dân tộc:

Thuyền bè dày đặc như muôn ngàn đội

Tinh kỳ rộn ràng huyền diệu

Bước sói đội quân

Thanh gươm lung linh sáng rực

Trận đánh kinh điển chưa thể chia định,

Chiến lũy từ Bắc đến Nam đều đối diện

Đó chính là trận chiến dữ dội “chốn diệu huyền của trời đất”:

Ánh sáng mặt trời và ánh trăng dường như sắp phai mờ

Bầu trời và mặt đất dường như sắp sụp đổ

Tính chất dữ dội của trận chiến đến từ quy mô, lực lượng so sánh và cũng đến từ sự đối đầu về ý chí của hai bên đối phương. Và ở trận Bạch Đằng, quân nhà Trần cũng như quân Ngô Quyền trước đó phải đối đầu với một đối thủ tinh ranh, ám muội:

Nhìn đây:

Không gì có thể ngăn cản sức mạnh vững chắc,

Những kẻ thù nhỏ bé phải đối mặt.

Đánh giặc một cú đủ sức làm sạch sẽ vùng Nam bốn phương.

Trận chiến gay go, đầy thử thách và tổn thất đến mức “sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”, mãi mãi sau này các nhà thơ vẫn cảm nhận nước sông vẫn còn đỏ máu như Trần Minh Tông từng viết:

Màu đỏ của hoàng hôn soi sáng dòng nước,

Như là máu của kẻ thù chưa khô

Vì tính chất khó khăn, quyết liệt đó, hơn ai hết, các bô lão nhận ra rằng chiến thắng của dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong thời điểm đó mà còn kéo dài mãi sau:

Tương tự như thế này:

Chiến thắng tại Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác như lá rơi.

Chiến thắng tại Hợp Phì, quân Bồ Kiên bị tiêu diệt trong phút chốc.

Cho đến nay, dòng sông vẫn chảy mãi,

Nhưng dấu vết của quân thù đã không thể giặt sạch.

Công lao của các anh hùngSẽ được ca tụng mãi mãi.

Vậy, trận chiến trên sông Bạch Đằng, còn được biết đến là cuộc chiến chống lại quân Nguyên Mông, không chỉ thể hiện ý chí kiên cường và bền bỉ của quân đội mạnh mẽ mà còn nhờ vào sự giúp đỡ từ linh thiêng của núi sông, cũng như ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

Ở đây, các bô lão cũng nhấn mạnh vai trò của con người, của những người sẵn sàng chiến đấu và chịu trách nhiệm với đất nước. Đó là những người tương tự như 'Vương sư họ Lã' trong hội Mạch Tần; như 'Quốc sĩ họ Hàn' trong trận Duy Thủy và đặc biệt là Đại vương Trần Quốc Tuấn, một tướng lĩnh có tầm nhìn xa trông rộng về tương lai:

Trận Bạch Đằng đã đem lại chiến thắng lớn lao,

Bởi vị vua đã nhìn nhận thế lợi của kẻ địch.

Âm vang tiếng ca hào hùng

Bia đá không mòn điều đó đem lại

Cảnh thứ nhất là Bạch Đằng trong thời đại hiện tại, vẻ đẹp tự nhiên hùng vĩ như 'trong mơ' nhưng đối với tình hình hiện tại, nó đã mang hơi thở của biển cả, nhưng cũng đã chìm vào im lặng, để lại cảm giác buồn bã trong lòng như thơ đã ghi lại. Bạch Đằng hiện đại mang trên mình vẻ đẹp đơn giản nhưng đầy tình cảm. Cảnh thứ hai là Bạch Đằng trong lịch sử được tái hiện trong kí ức của các bô lão với tính cách anh hùng. Nhưng khi họ nhớ lại quá khứ và bình luận về nó, họ phải lật tung từng trang của quá khứ, trở về với kỷ niệm để sống lại một thời tuổi trẻ trên non sông:

Hoài niệm vẫn mãi vương vấn,

Dấu tích lưu lại mãi sau này.

Với tư cách là những người tham gia, là những nhân chứng của mảnh đất anh hùng, các bô lão cảm thấy đau lòng, hối tiếc khi thấy đất nước anh hùng bị bỏ rơi đến nỗi những dấu vết hào kiệt trở thành hoang phế, những người hy sinh cho sự sống còn của dân tộc bị lãng quên trong 'cốt khô gầy gò', và họ cũng hổ thẹn trước bản thân vì trách nhiệm quá lớn trên đôi vai nhỏ bé khi phải tiếp tục truyền thống vĩ đại của tổ tiên để xây dựng đất nước.

Khi cuộc chơi trên sông Bạch Đằng kết thúc, dòng sông lịch sử trở thành điểm tựa cho sự nhớ nhung, và bài thơ kết thúc bằng hai câu hát, thể hiện quan điểm tổng quan của các bô lão và của khách. Nếu các bô lão, những người dân bình thường, nhấn mạnh một sự thật vĩnh viễn như dòng sông cuồn cuộn chảy về biển cả, đó là:

Những người không công bất công tiêu vong,

Chỉ có anh hùng lưu danh mãi mãi.

Riêng khách, một thi nhân, một người có văn hóa và cũng là “một phương diện của quốc gia đã bổ sung thêm vai trò của hai vị thánh quân, nhấn mạnh đến cái đức cao mà một vị vua cần phải có để mang lại 'hòa bình muôn đời' cho dân chúng và hoàng tộc. Không chỉ vậy, với khách, 'đức cao' còn bao gồm tài năng, đạo đức, là những phẩm chất cần thiết của một người có tài, có phẩm chất.

Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu đã mô tả một cảnh đẹp của Tổ quốc với hình bóng chiến công của quân dân thời Trần. Đây là một tác phẩm mẫu mực, thể hiện rõ hào khí Đông Á của văn học thời Trần và có giá trị lớn trong lịch sử văn học Việt Nam

Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng - mẫu 6

Mỗi người chúng ta thường có một nơi để gửi gắm kí ức của mình. Các nhà văn, nhà thơ cũng vậy, họ thường chọn một miền đất hoặc một con sông để gợi nhớ. Và ở đó, có bao nhiêu kỷ niệm tâm hồn đã được vun đắp. Vào thế kỷ XIV, văn học dân tộc đã có một nhà thơ như vậy. Đó là Trương Hán Siêu - nhà thơ trân trọng con sông Bạch Đằng hùng vĩ qua bài thơ nổi tiếng Phú sông Bạch Đằng. Ông đã dành cả cuộc đời của mình để tạo ra một tác phẩm vĩ đại về thơ văn dân tộc.

Bài thơ Phú sông Bạch Đằng được dự đoán ra đời khoảng 50 năm sau chiến thắng của nhà Trần trước quân Mông Nguyên. Sông Bạch Đằng đã từng là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ như Trần Minh Tông, Nguyễn Sưởng và sau này là Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, trong bài thơ Phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu đã thể hiện được những cảm xúc chân thành, sâu sắc và tình cảm, thể hiện niềm tự hào, lòng yêu nước và những tư tưởng cao đẹp về con người. Có nhiều người cho rằng, Trương Hán Siêu đã sáng tác bài thơ này trong giai đoạn đất nước suy thoái dưới thời nhà Trần. Là một người trọng thần uyên thâm, Trương Hán Siêu đã có những chuyến đi để hoài niệm về quá khứ vinh quang của dân tộc. Vì vậy, bài thơ này mang đậm dấu ấn của một tâm hồn nghệ sĩ, một người yêu thương quá khứ và một con người nhân văn.

Với cấu trúc cổ điển của loại thơ Phú, Phú sông Bạch Đằng có 4 phần (mở đầu, giải thích, nhận xét, kết luận) và sử dụng đối thoại giữa nhân vật 'khách' và 'các vị bô lão'. Tuy nhiên, điểm nổi bật của bài thơ là cảm xúc và tâm trạng của nhân vật 'khách' được thể hiện suốt từ khi đặt chân tới sông Bạch Đằng cho đến khi nghe được những câu chuyện hào hùng từ 'các vị bô lão'. Vì vậy, nhiều người cho rằng cấu trúc của bài thơ giống hơn là một bài văn tả cảnh, kể chuyện.

Nhân vật 'khách' đem đến sự cảm hứng thơ, một tâm hồn thơ dại như một Học Tử Hách hải hồ:

Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Trường chừ thú tiêu dao

Qua loạt hình ảnh ước lệ, giấc mơ giương buồm giong gió, lướt sóng trăng, thuyền gõ buổi sớm, chiều thăm, mở ra không gian, thời gian rộng mở. Những từ chơi vơi, mải miết thể hiện tâm hồn của một mặc khách, tao người đi dạo cùng với thiên nhiên. Khách như mang theo một giấc mơ biển rộng, đắm chìm vào với tự nhiên. Kẻ lãng du kéo theo hàng loạt địa danh, phong cảnh của Trung Hoa chỉ biết qua sách vở. Có cả một kiến thức sâu rộng hay cách để người mặc khách thực hiện ước mơ của mình? Đúng vậy, bởi vì trang trí ấy chứa đựng tâm thức của một thi nhân lãng mạn, thích ngao du.

Nhưng giấc mơ biển rộng trở thành hiện thực khi thuyền rẽ ngang:

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Một lần nữa, chúng ta đến với những địa danh khác, nhưng lần này là thực, là dòng nước dẫn đến sông Bạch Đằng. Trước mắt là Bạch Đằng tuyệt đẹp, nhưng cũng ẩn chứa nỗi buồn về quá khứ. Bờ lau, bến lách đìu hiu, và những chứng tích của quá khứ. Trước cảnh sắc như vậy, lòng người không thể tránh khỏi những cảm xúc hoài niệm!

Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng - mẫu 7

Bài thơ Phú sông Bạch Đằng hoặc Bạch Đằng giang phú được coi là một tác phẩm kiệt xuất của Trương Hán Siêu. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán và lấy sông Bạch Đằng làm nguồn cảm hứng. Tác giả đã truyền đạt lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trong bài thơ này bằng cách tinh tế nhất. Ngoài ra, tác phẩm cũng truyền tải những tư tưởng nhân văn cao đẹp.

Bài thơ được viết theo thể phú, một thể văn cổ bao gồm phú cổ thể và phú Đường luật. Phú sông Bạch Đằng được viết theo lối phú cổ thể, kết hợp vừa có vần vừa có phép đối rất linh hoạt.

Tác giả mở đầu bài phú bằng việc mô tả khung cảnh thiên nhiên bao la, hùng vĩ, đưa người đọc chìm vào không gian ấy. Khung cảnh đó bao gồm các địa danh như Cửu giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, mang đến cho người đọc một trải nghiệm sâu sắc về vẻ đẹp của thiên nhiên.

Khách đến nơi: Giương buồm, giong gió tự do,

Lướt bể chơi trăng với niềm vui.

Sớm ra thuyền dựng chừ Nguyên Tương,

Chiều ghé Vũ Huyệt mênh mông dài.

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,

Mỗi nơi đi qua, khách đều biết.

Đầm Vân Mộng dưới lòng, nước non hữu hình,

Nhưng lòng dân vẫn mãi chân thành và mong mỏi.

Từ đó, chúng ta thấy rằng khách là một người đã đi nhiều, am hiểu nhiều. Ở đây, khách tự so sánh mình như Tử Trường, tức là Thư Mã Thiên – một nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc. Khách không chỉ đi để thỏa mãn sự ham học, mà còn để tìm hiểu thêm về lịch sử, để tôn vinh và suy ngẫm. Điều này cho thấy tâm hồn của khách thật sự cao quý.

Phần đầu tiên này, Trương Hán Siêu không trực tiếp nói về sông Bạch Đằng, mà nhắc đến nhiều địa danh quen thuộc trong sách vở Trung Quốc. Có vẻ như tác giả muốn làm một sự chuẩn bị trước khi đưa người đọc đến với một Bạch Đằng hùng vĩ, bao la.

Khi đến gần sông Bạch Đằng, nhà thơ bày tỏ niềm vui thú vị:

Qua cửa Đại Than, đi ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng, thuyền trôi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Đuôi trĩ nối đuôi, một màu.

Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.

Sông Bạch Đằng trong tác phẩm của Trương Hán Siêu là một dòng sông dài và rộng, với những con sóng biếc lớn lớn. Sông đó cũng đẹp tuyệt vời với “nước trời một sắc” và sự “thướt tha đuôi trĩ một màu”.

Bờ lau sát san, bến đầy đứng hiu lạnh

Sông gãy giáo chìm, gò xương rải khắp.

Dòng sông đẹp nhưng cũng ẩn chứa những mảng u ám, đáng sợ. Xưa kia, bờ lau, bến đò trên sông Bạch Đằng hoang vu, hiu hắt. Dòng sông đã từng chứng kiến biết bao xương cốt của quân giặc phương bắc, với những 'sông chìm giáo gãy' đầy rẫy. Điều đó thể hiện một Bạch Đằng lịch sử là nơi đầy rẫy những kẻ thù tàn bạo.

Với những nét vẽ và màu sắc tinh tế, Trương Hán Siêu mô tả dòng sông lịch sử hùng vĩ qua những cặp câu song quan sắc nét. Đó là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước một dòng sông tràn ngập lịch sử:

Chói tai cảnh tan, trầm ngâm dõi nhìn.

Thấu lòng anh hùng chẳng mờ tối,

Xót thương dấu vết nơi còn lại!

Trước dòng sông ấy, tác giả cảm thấy mình nhỏ bé, chỉ 'đứng lặng giây lâu' xót thương. Đồng thời, lòng biết ơn sâu sắc dành cho những anh hùng đã hy sinh để bảo vệ dòng sông. Đây là tinh thần biết ơn nguồn cội mà tác giả muốn truyền tải.

Chỉ bằng cảm nhận cá nhân, chưa đủ để hiểu hết dòng sông lịch sử ấy. Tác giả đã thêm các bô lão – nhân vật thứ hai vào bài phú. Những lời tự sự cùng ngôn ngữ sống động toát lên âm điệu của bàn hùng ca về Bạch Đằng Giang. Lúc này, đứng ngắm Bạch Đằng Giang không chỉ một mình khách nữa, mà còn có các bô lão. Thế rồi, những chiến tích trên sông Bạch Đằng lần lượt được lật mở:

Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.

Năm 938, Ngô Quyền lợi dụng thủy triều lên xuống ở sông Bạch Đằng đại phá quân Nam Hán. Cũng ở dòng sông ấy, năm 1288, Trần Quốc Tuấn mở trận quyết chiến bắt sống Ô Mã Nhi và tiêu diệt quân xâm lược Nguyên – Mông.

Những trận đánh vang dội ở sông Bạch Đằng được kể ra. Trận Xích Bích đánh tan quân Tào Tháo, trận Hợp Phì khiến giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi. Lời thơ hào hùng thể hiện sự tự hào dân tộc vang vọng trong đó. Sông Bạch Đằng chính là một chứng nhân của lịch sử:

Sông nước chảy hoài, nhưng nhục quân thù khôn rửa nổi. Đến nay, sông Bạch Đằng vẫn là biểu tượng của lòng dũng cảm dân tộc Việt Nam.

Sau khi mô tả những trận chiến dân ta chiến thắng trên sông Bạch Đằng, tác giả quay lại suy ngẫm về những thắng bại đó. Không chỉ các bô lão mà ngay cả tác giả cũng nhận ra rằng sự thịnh vượng của đất nước đều nhờ hai yếu tố quan trọng nhất là địa lợi và nhân tài.

Tái hiện công lao, ca ngợi vinh quang xưa. Tuy nhiên: Có vũ trụ, có giang sơn từ xa xưa. Thật vậy: Trời đất ban cho những nơi gian nan, cũng nhờ có những nhân tài giữ gìn hòa bình!

Bạch Đằng là nơi hiểm trở – điều không ai phủ nhận được. Còn Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung,… chính là những nhân tài. Và “hòa bình” nếu không có hai yếu tố đó thì không thể thành công được.

Tiếp tục bằng cách so sánh tinh tế, Trương Hán Siêu nhắc lại vai trò của Lã Vọng, Hàn Tín đối với người dân Trung Quốc. Từ đó để tôn vinh Hưng Đạo Vương – anh hùng có công lớn trong lịch sử bình nguyên:

Trận Bạch Đằng thắng lớn, nhờ vị vua biết sử dụng tài trí đối với kẻ thù. Tiếng ngợi khen vẫn còn mãi, danh tiếng không bao giờ phai nhạt.

Bằng từ ngữ sắc sảo, tác giả đã thể hiện được niềm tự hào và lòng biết ơn của dân tộc đối với những anh hùng đã đóng góp trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Dòng sông Bạch Đằng mang trong mình vẻ hào hùng không ngừng. Tác giả cũng nhắc đến hai vị “Thánh quân”

“Anh minh hai vị thánh quân, sông đây đã rửa sạch bao lần binh lính”

Đó là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông – những vị vua đã dẫn dắt cuộc chiến chống lại quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và 3. Nhờ có những nhân tài như vậy mà đất nước luôn được “điện an”.

Cuối cùng, tác giả lại nhấn mạnh về kinh nghiệm và bài học lịch sử trong việc bảo vệ đất nước. “Bởi đâu đất hiểm, ở đó đức cao”. Đó là bài học từ lịch sử, là tinh thần đoàn kết dân tộc và cảnh giác trước nguy cơ ngoại xâm.

Phú sông Bạch Đằng thật sự là một tác phẩm hùng ca về dòng sông lịch sử. Nó không chỉ là vẻ đẹp của một dòng sông, mà còn là ca khúc yêu nước hùng vĩ. Với không khí hùng hồn, trang trọng, Trương Hán Siêu đã miêu tả một chứng nhân lịch sử một cách sâu sắc và rõ ràng nhất.

Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng - mẫu 8

Sông Bạch Đằng là một trong những địa danh lịch sử với những chiến công lẫy lừng của cha ông ta. Đây cũng là con sông được nhắc đến trong thơ ca với niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Trong số đó, bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là một trong những tác phẩm nổi tiếng thời nhà Trần và cũng là một trong số ít những bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại Việt Nam.

“Phú sông Bạch Đằng” có tên nguyên tác là “Bạch Đằng giang phú”. Tác phẩm này được viết bằng chữ Hán, sau được rất nhiều tác giả khác nhau dịch ra. Bài viết này dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.

Mở đầu bài phú là là một khung cảnh hùng vĩ, bao la với những Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt và một tâm hồn phóng khoáng, tự do của lữ khách:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết

Nhân vật “khách” ở đây không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Với một tâm hồn phóng khoáng, nhà thơ hiện lên là một tao nhân mặc khách với bầu rượu túi thơ ngao du đây đó. Vậy mà chí tang bồng vẫn chưa thỏa thích:

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết

Thế nhưng, mặc khách đi nhiều, biết nhiều không chỉ đơn giản là để ngắm cảnh tiêu giao mà quan trọng hơn là đi để hiểu thêm về đời, về mình. Khi đến sông Bạch Đằng, mặc khách chính là tìm về nơi cha ông ta đã lập chiến công to lớn để chiêm ngưỡng, ngợi ca và suy ngẫm.

Sông Bạch Đằng trong bài phú trước hết là một con sông với cảnh quan hùng vĩ: Bát ngát sóng kình muôn dặm. Vì rộng “bát ngát” và dài “muôn dặm” cho nên sông Bạch Đằng không chỉ là đại giang mà còn là trường giang với bao lớp sóng cuồn cuộn triều dâng. Thế nhưng, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng: mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ.

Cảnh đẹp và thơ mộng nhưng lữ khách ở đây lại cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Đây là nơi diễn ra bao trận đánh, chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những hy sinh, mất mát. Nhưng “giáo gãy”, “xương khô”, “trời nước”, “lau lách đìu hiu” như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Chính vì thế mà người hôm nay không khỏi tiếc thương cho những anh hùng đã khuất:

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Tuy có đau buồn nhưng cảm hứng chủ đạo của bài phú là sự ngợi ca chiến công lẫy lừng của cha ông ta trên dòng sông lịch sử này. Chính vì thế, đến đoạn thơ thứ hai, tác giả chuyển sang mượn lời các bô lão – những người đã từng chứng kiến và tham gia trận Bạch Đằng kể lại trận chiến oai hùng này:

“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”

Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi

Chỉ với một đoạn thơ ngắn mà tác giả đã tái hiện được không khí hào hùng của trận đánh với sự đông đảo của lực lượng tham chiến và sự dữ dội của cuộc chiến “thư hùng chưa phân” khiến cho cả trời đất mờ mịt, như sắp đổi dời.

Về phía kẻ địch thì có lực lượng hùng hậu, lại thêm mưu gian kế xảo, “những tưởng tung roi một lần” là có thể “quét sạch Nam Bang bốn cõi”. Thế nhưng, cuộc chiến của quân ta là cuộc chiến chống lại quân xâm lược, là cuộc chiến chính nghĩa, cho nên thuận với lẽ trời, được “trời chiều lòng người”. Lại thêm “trời đất cho nơi hiểm trở” và người lãnh đạo cũng rất mực tài ba. Với chiến thuật, chiến lược đúng đắn, quân dân ta đã chiến thắng vô cùng vẻ vang, khiến cho “nghìn đời ca ngợi”. Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm ấy đã có một ý nghĩa rất to lớn trong sự nghiệp bảo vệ giang sơn của quân dân nhà Trần. Và điều đó càng chứng minh một chân lý:

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!

Phần cuối bài phú là những lời ngợi ca của các bô lão và lữ khách về dòng sông huyền thoại, về đất nước và con người Việt Nam anh hùng. Tác giả đã dành những lời khen tặng, ngợi ca dành cho những vị anh hùng mà đứng đầu là hai vị vua nhà Trần:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Hai vị “thánh quân” ở đây là vua Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3. Nhờ những vị vua sáng suốt anh minh, nhờ những thủ lĩnh kiệt xuất cầm binh mà chúng ta đã giành được chiến thắng. Đến đây, tác giả khẳng định:

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Điều đó cho thấy, chiến thắng không phải chỉ do thuận lợi về địa thế hiểm trở mà quan trọng nhất là ở con người, ở cái “đức cao” lòng yêu thương con dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc. Đó mới chính là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng lầy lừng và vẻ vang nhất.

Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc. Với bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm xúc, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao cả nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam.

Cảm nhận của em về Phú sông Bạch Đằng - mẫu 9

Phú sông Bạch Đằng là bài thơ tuyệt vời của Trương Hán Siêu, nó được viết với cảm nhận sâu sắc về lịch sử dân tộc và cảnh sắc nơi đây. Có lẽ, tác giả đã cảm nhận được sự hào hùng và kiêu hãnh của người dân Việt Nam qua những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm trên sông Bạch Đằng. Bài thơ kể về lịch sử Việt Nam và những anh hùng đã chiến đấu cho đất nước. Trong bài thơ, Trương Hán Siêu đã dùng những từ ngữ tươi sáng và hùng vĩ để miêu tả cảnh sắc của sông Bạch Đằng. Những từ “tự hào”, “hoài niệm” và “thương tiếc” đã thể hiện tình cảm của tác giả đối với quê hương và lịch sử dân tộc. Chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự tôn trọng và tình yêu của Trương Hán Siêu dành cho những anh hùng xưa qua những câu thơ hùng tráng.

Nhân vật khách là phần của tác giả, được tạo ra để thể hiện suy nghĩ và tâm tư của tác giả. Mục đích là để khám phá thiên nhiên, các khu chiến địa, tìm hiểu đất nước và bổ sung tri thức cho bản thân. Các địa danh lịch sử được lấy từ các tài liệu cổ Trung Quốc. Nhân vật khách được miêu tả như là một người yêu thiên nhiên, nhiệt huyết với đất nước và lịch sử dân tộc. Tác giả thể hiện tâm trạng phấn khởi và tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng cũng buồn thương và nuối tiếc trước vẻ ảm đạm của lịch sử.

Trong tác phẩm, những bô lão có thể là người có thật hoặc nhân vật hư cấu do tác giả tưởng tượng. Họ là những người đã chứng kiến các chiến tích lịch sử trên sông Bạch Đằng và kể lại chúng cho khách nghe. Các chiến tích hào hùng như Ngô chúa phá Hoằng Thao và Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã được nhắc đến. Các bô lão tôn kính khách và luôn sẵn sàng tiếp đón. Các hình ảnh so sánh và đối lập khẳng định chiến thắng hào hùng của dân tộc và tự hào của người trong cuộc. Thời thế thuận lợi, địa thế sông núi hỗ trợ và con người tài năng với đức lớn là những yếu tố quyết định quan trọng đến thắng lợi của dân tộc. Tác giả gợi lại hình ảnh của Trần Quốc Tuấn và các hình ảnh so sánh để khẳng định sức mạnh và tài năng của con người quyết định thắng lợi.

Đoạn kết khẳng định chân lý về sự diệt vong của kẻ bất nghĩa và danh tiếng vĩnh cửu của người anh hùng và nhân nghĩa từ xa xưa. Sự ca ngợi chiến tích trên sông Bạch Đằng thể hiện sức mạnh của con người trong việc bảo vệ non sông. Với bố cục chặt chẽ, ngôn ngữ lắng đọng và hào hùng, bài phú trở thành đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.

Việc đóng và trò chính là bước đệm của mọi thành công, và sông Bạch Đằng là một trong những biểu tượng vĩ đại nhất của sự hy sinh và quyết tâm của dân tộc Việt Nam trong việc giành lại độc lập và tự do. Vì vậy, chúng ta cần thêm một vài câu để nói về sự kiện lịch sử này và ý nghĩa của nó đối với dân tộc Việt Nam.

Bài phú cũng cần thêm một số suy nghĩ về đạo lý nhân nghĩa và tư tưởng nhân văn. Chúng ta có thể nói rằng, những giá trị này luôn là một phần không thể thiếu trong văn hóa Việt Nam, và chúng ta cần giữ gìn và phát triển chúng qua các thế hệ. Bài phú có thể đi sâu vào các ví dụ về đạo lý nhân nghĩa và tư tưởng nhân văn trong văn hóa Việt Nam để giúp độc giả hiểu sâu hơn về những giá trị này.

Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học