10+ Đánh giá bài thơ Việt Bắc (điểm cao)
Đánh giá bài thơ Việt Bắc điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
10+ Đánh giá bài thơ Việt Bắc (điểm cao)
Dàn ý Đánh giá bài thơ Việt Bắc
1. Mở bài
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
2. Thân bài
a) Khái quát về bài thơ
- Hoàn cảnh sáng tác.
- Giá trị nội dung.
- Ý nghĩa của nhan đề.
b) Tâm trạng của người ở lại (Lời đối đáp thứ nhất)
- Tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay:
+ Bốn câu trên, với điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ”, khơi gợi những kỉ niệm thiết tha, mặn nồng về "mười lăm năm ấy" và thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
+ Cách xưng hô “mình - ta” như lời tâm tình đôi lứa, làm cuộc chia tay thân mật, giản dị và gợi nhớ điệu hát giao duyên, khiến thơ về cách mạng trở nên đằm thắm, sâu lắng.
+ Bốn câu thơ thể hiện nỗi lưu luyến của cả người ra đi và ở lại qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng trực tiếp và không khí chia tay thân tình.
=> Cảm xúc đặc biệt sâu sắc trong tâm hồn, nỗi bâng khuâng, xao xuyến của cả người đi và người ở.
- Mười hai câu tiếp theo, với việc sử dụng điệp từ “nhớ”, là lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi:
+ Nhớ đến thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc trong những ngày kháng chiến: mưa nguồn, suối lũ, mây mù, trám bùi, măng mai.
+ Nhớ đến những ân tình trong khó khăn gian khổ: “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”.
+ Nhớ đến quãng thời gian hoạt động cách mạng: kháng Nhật, Việt Minh, Tân Trào, Hồng Thái, ...
+ Đại từ xưng hô “mình” thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa kẻ ở, người đi. Nó giống như cách xưng hô tâm tình, thủ thỉ chân thành.
=> Nỗi nhớ thể hiện qua hình ảnh những sự kiện nổi bật, quan trọng thể hiện sự gắn bó của những người chiến sĩ cách mạng.
c) Tâm trạng của người ra đi (Lời đối đáp thứ hai)
- Bốn câu thơ tiếp khẳng định nghĩa tình thủy chung, mặn mà, “ta với mình, mình với ta”: thể hiện sự gắn bó, thấu hiểu nhau giữa người đi, kẻ ở.
- Người đi bày tỏ nỗi nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc.
- Nhớ đến con người Việt Bắc.
- Nhớ hình ảnh quân dân Việt Bắc đoàn kết đánh giặc.
- Nhớ những chiến công, những niềm vui thắng trận: “tin vui thắng trận trăm miền... núi Hồng”.
=> Nhịp thơ dồn dập như âm hưởng bước hành quân, hình ảnh kì vĩ... tất cả tạo nên một bức tranh sử thi hòanh tráng để ca ngợi sức mạnh của nhân dân anh hùng.
d) Niềm tự hào, niềm tin gửi gắm vào Việt Bắc Cách mạng
- Nhớ hình ảnh tươi sáng nơi nguồn cội của cuộc cách mạng: ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng, có trung ương Đảng, có chính phủ và có Bác Hồ.
- Đoạn thơ thể hiện niềm tin vào sức mạnh, khả năng lãnh đạo của Đảng trong các cuộc cách mạng, niềm tự hào vào những chiến công Việt Bắc.
- Khẳng định vai trò, vị trí của Việt Bắc trong kháng chiến và lời thề thủy chung, son sắt.
e) Đặc sắc nghệ thuật
- Sử dụng thể dân tộc: thể thơ lục bát, lối đối đáp.
- Sử dụng đại từ xưng hô linh hoạt (mình - ta).
- Ngôn từ mộc mạc, giàu sức gợi…
3. Kết bài
- Nêu cảm nhận của em về bài thơ Việt Bắc.
Đánh giá bài thơ Việt Bắc - mẫu 1
Tố Hữu là một trong các tác giả tiêu biểu trưởng thành từ trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của cả thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bài thơ đã tái hiện được quãng thời gian cả dân tộc cùng đồng lòng chống lại đế quốc xâm lược.
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Đó là những câu thơ mở đầu bài thơ “Việt Bắc”, là những tình cảm, những chân tình mà nhà thơ Tố Hữu gửi gắm. Nhà thơ đã sử dụng thể thơ Lục bát và lối xưng hô đối đáp ở cặp từ Mình – ta, câu đối đáp giao duyên như lời tâm sự của người ở lại với người cất bước lên đường, người ở lại hỏi người đi, khi về rồi có còn nhớ người ở lại không, thời gian gắn bó như vậy nhắc người đi chớ có quên, người ở lại rất nhớ người ra đi ấy.
Mình đi, có nhớ những ngày
……………………
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Đây là đoạn thơ tiếp tục lời của người ở nói với người đi những tâm sự từ tận đáy lòng, về những ngày kháng chiến sát cạnh bên nhau, về tình cảm kháng chiến, về chiến khu, về những con người, những tình cảm của con người trong kháng chiến.
Ta với mình, mình với ta
………………
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Khổ thơ tiếp là lời của người đi nói với người ở, những tình cảm không thể nào quên, đó trở thành những kỉ niệm kháng chiến sẽ luôn in dấu trong tâm hồn dân tộc, đó sẽ là những kỉ niệm không phai mờ trong lịch sử dân tộc. Đó còn là những tình cảm sẻ chia gắn bó ở khổ thơ tiếp:
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học I tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa,…
Đó là những câu thơ tiếp nối về tình cảm giữa người đi và người ở, người đi về với miền xuôi nhưng vẫn luôn nhớ cái nôi của cách mạng – chiến khu Việt Bắc mà ở đó đồng bào ta đoàn kết, đồng lòng, cùng chống lại các thế lực thù địch bán nước, cướp nước. Ở nơi ấy bộ đội cùng người dân cùng đoàn kết đồng lòng, cái tôi hòa chung vào cái chung của dân tộc. Những tháng ngày kháng chiến cùng có nhau trong cuộc sống, cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm, cùng học tập bên nhau.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Con người cùng thiên nhiên hòa cùng một mục đích, con người cùng nhau kề vai sát cánh bên nhau để có thể chiến thắng được giặc Pháp, chúng được trang bị nào những vũ khí tư trang hiện đại, chúng ta ngược lại không được nhiều trang thiết bị hiện đại nhưng chúng ta nắm rõ được địa thế, địa hình, có thể lợi dụng kết hợp đánh địch.
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên
Cộng hòa Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân trào
Đây là đoạn thơ nói lên chí hướng cũng như quyết tâm của cả dân tộc. Dân tộc ta trước cuộc chiến tranh chống lại thực dân Pháp xâm lược, những con người ngày đêm đã quật cường đứng lên, quyết tâm chiến đấu chống lại thế lực ấy. Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là những hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của nhà thơ Tố Hữu về những chặng đường đã qua của dân tộc, của đất nước.
Bài thơ “Việt Bắc” được ra đời nhân sự kiện lịch sử, tháng 10 – 1954, kháng chiến của nhân dân ta chống lại thực dân Pháp đang dần thắng lợi, căn cứ địa cách mạng từ chiến khu Việt Bắc về xuôi, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ nhớ lại những năm kháng chiến gian khó mà hào hùng của dân tộc. Từ thực tại, nhà thơ đã nhớ về quá khứ hào hùng của dân tộc khi anh dũng chiến đấu chống lại quân thù. Đó là những tình cảm cao đẹp, yêu thương, gắn bó sâu nặng nhất với Việt Bắc – quê hương cách mạng, với đất nước, với dân tộc.
Đánh giá bài thơ Việt Bắc - mẫu 2
Bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào mang đậm màu sắc ca dao dân ca, thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng giữa kẻ ở người đi như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến vấn vương; bằng lối xưng hô Mình – Ta, một lối xưng hô truyền thống đậm đà tình nghĩa, bài thơ Việt Bắc đã tái hiện một cách chân thực và sinh động cuộc kháng chiến anh hùng và nhân dân anh hùng của cuộc kháng chiến, cùng những tình cảm điển hình của con người kháng chiến.
Bài thơ mở ra trong một khung cảnh chia tay với tâm trạng bâng khuâng bồn chồn lưu luyến vấn vương của hai người đã từng gắn bó bền lâu sâu nặng. Người ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với hòan cảnh đổi thay gợi nhắc những kỷ niệm gắn bó, những cội nguồn tình nghĩa.
Mình về mình có nhớ ta
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Nỗi nhớ trong đoạn văn không chỉ hướng về người khác mà còn về chính mình. Lời đối đáp khơi gợi quá khứ và tạo ra sự đồng cảm. Nỗi nhớ thấm đượm trong mọi cảnh vật, làm sống dậy những kỷ niệm về tình nghĩa, thiên nhiên và cuộc kháng chiến ở Việt Bắc. Trước hết bài thơ mở đầu bằng tiếng hát ân tình chung thuỷ, gợi nhắc cội nguồn tình nghĩa, thấm nhuần đạo lý Việt Nam:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tìm mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ người
Lời thơ nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều. Sâu nặng biết bao trong “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” và cùng ân tình, thuỷ chung biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ“nhớ” một chữ “ta” hòa quyện quấn quýt với nhau như hình với bóng, khiến cho cái đạo lý ân tình thuỷ chung ấy thêm sâu nặng.
Đoạn thơ miêu tả cảnh chia tay với những kỷ niệm sâu nặng của cuộc kháng chiến gian khổ. Tố Hữu nhấn mạnh tình đoàn kết qua hình ảnh "miếng cơm chan muối" và "mối thù nặng vai", thể hiện sự gắn bó, chiến đấu giữa con người và thiên nhiên Việt Bắc. Câu thơ gợi lại những địa danh cách mạng lịch sử và khắc nghiệt của chiến khu, với sự lặp lại từ "mình" và "nhớ" để nhấn mạnh nỗi nhớ và tình nghĩa gắn bó.
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
Tố Hữu đã để cho người về xuôi trả lời nhiều hơn, vì trong họ chứa chất biết bao nỗi nhớ về quê hương cách mạng, khi phải rời xa. Đây là nỗi nhớ của những người đã từng cùng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, từng “đinh ninh lời thề” sau trước có nhau, nên câu trả lời của họ chính là tiếng đồng vọng của cõi lòng người ở lại:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Những chữ “ta”, “mình” quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã nói rõ lời đồng vọng đó. Người ở lại hỏi: “Mình đi, mình có nhớ mình” thì người ra đi có ngay lời đồng vọng “mình đi, mình lại nhớ mình”, tuy hai mà một. Thật hài hòa, gắn bó, thắm thiết. Bởi nghĩa tình của họ như suối nguồn không bao giờ cạn: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Bao nhiêu, bấy nhiêu” – Cặp từ hô ứng đã nhấn mạnh được sự giàu có, phong phú của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết.
Qua hòai niệm, trái tim người ra đi cứ dạt dào lên biết bao nỗi nhớ với đủ mọi sắc màu đẹp đẽ: Có nỗi nhớ thơ mộng:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi bóng chiều lưng nương
Có nỗi nhớ ấm áp:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thường đi về
Nhưng nhớ nhất là những ngày cay đắng ngọt bùi của thuở “hàn vi” thắm tình đồng chí, đồng bào, đã từng cưu mang đùm bọc lẫn nhau:
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đấy đắng cay ngọt bùi
……………
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Đoạn thơ nhấn mạnh tình nghĩa con người qua hình ảnh san sẻ, chung sức vượt qua gian khổ, đặc biệt trong cuộc sống thiếu thốn. Tình cảm chân thật, ấm áp được thể hiện qua những cảnh sinh hoạt bình dị, như "bản khói cùng sương" và "sớm khuya bếp lửa". Những địa danh như "Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê" gợi lên sự gắn bó sâu sắc giữa con người và thiên nhiên, giữa người với người.
Việt Bắc hiện ra không chỉ là thiên nhiên với vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, mà đó còn là thiên nhiên đã cùng con người đánh giặc và ghi lại biết bao sự tích anh hùng:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng...
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào
Thiên nhiên ở đây hiện lên với những vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều trăng khuya, trong các mùa thay đổi. Điều đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên gắn với bóng dáng con người, làm cho cảnh bớt hoang sơ hiu hắt và trở nên gần gũi thân thiết với con người hơn. Tiêu biểu nhất là đoạn thơ sau:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
…………………
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Tố Hữu đã dựng được bốn bức tranh theo đúng nghệ thuật truyền thống, tạo nên một bộ tứ bình đặc sắc. Mỗi bức tranh đều có một màu sắc, âm thanh chủ đạo và rất sinh động đa dạng: Khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức. Tương ứng với mỗi màu sắc, âm thanh của tự nhiên là một nét đẹp con người. Thiên nhiên làm nền cho con người và chính con người lại tô điểm cho thiên nhiên trở nên đẹp đẽ sinh động hơn.
Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến anh hùng chuẩn bị cho cuộc tổng phân công bằng một chiến dịch “Điện Biên lừng lẫy địa cầu”:
Những đường Việt Bắc của ta
……..
Đèn pha bột sáng như ngày mai lên
Những câu thơ tái hiện khung cảnh “Trung ương Chính phủ luận bàn việc công” trong hang núi ở Việt Bắc cũng là những câu thơ đặc sắc. Dường như tác giả chỉ liệt kê công việc nhưng đã phản ánh chân thật không khí làm việc giản dị trang nghiêm mà khẩn trương của Bộ Tổng chi huy của cuộc kháng chiến; trong đó nổi bật lên hình ảnh lung linh rực rỡ ngời sáng của “Ngọn cờ đỏ thắm gió lộng cửa hang, Nắng trưa rực rỡ sao vàng”.
Qua bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đà làm hiện lên hình ảnh Việt Bắc “quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa” một thời gian khổ mà sâu nặng nghĩa tình. Bài thơ tô đậm thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống thuỷ chung son sắt “uống nước nhớ nguồn”.
Đánh giá bài thơ Việt Bắc - mẫu 3
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam, đặc biệt trong mảng văn học cách mạng, với sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và thơ ca. Các tác phẩm của ông không chỉ phản ánh thế giới tâm hồn và phong cách nghệ thuật độc đáo, mà còn tái hiện những mốc lịch sử quan trọng trong quá trình kháng chiến, giúp người đọc cảm nhận được trang sử vẻ vang của đất nước.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một loạt những câu hỏi tu từ:
Mình về mình có nhớ ta?
…………..
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa?
Những kỷ niệm về núi rừng Việt Bắc giờ chỉ còn là ký ức, nhưng qua thơ, khung cảnh hùng vĩ, mưa nguồn, mây khói hiện lên rõ nét. Dù cuộc sống gian lao, khổ cực, nhưng tình đoàn kết, gắn bó giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc đã tạo nên những kỷ niệm đẹp không thể quên.
Bàn tay đan chặt bàn tay, người đi kẻ ở, họ không biết nói gì ngoài việc trao cho nhau những cái nắm tay nồng ấm. Cái bắt tay này ta cũng đã từng gặp trong thơ của Chính Hữu:
Áo anh rách vai
……….
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…
Đúng, họ không có gì trao cho nhau giữa trời khuya lạnh giá ngoài tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó. Cái bắt tay giản đơn thôi nhưng đã giúp người chiến sĩ vượt qua những khó khăn thiếu thốn của buổi đầu kháng chiến. Ở đây cái nắm tay này diễn ra trong bối cảnh chia li, chính vì vậy nó có ý nghĩa như một minh chứng cho tình cảm nồng thắm quân dân.
Trước tình cảm tha thiết cùng với sự bày tỏ nỗi nhớ nhung đặc biệt ấy, người chiến sĩ cũng dần trải lòng ra qua từng câu chữ:
Ta với mình, mình với ta
………..
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình cảm dạt dào và nghĩa tình sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng. Người chiến sĩ còn nhớ đến vầng trăng tròn đầy sau những rặng núi xa sau bản, nhớ những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh đồng ruộng bậc thang ngào ngạt mùi lúa chín, nhớ những sáng tinh sương mịt mù trong mây và khói tỏa, nhớ từng dòng suối cánh rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại một lần nữa hiện lên qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà chẳng nhớ về.
Chẳng cần những lời nói chia tay lưu luyến nhưng qua việc tái hiện lại một loạt các câu hỏi như thế ta cũng đủ thấy được tình cảm sâu đậm, sự gắn bó tha thiết giữa những người cán bộ và người dân.
Ta về mình có nhớ ta
……..
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Nhà thơ miêu tả thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa, bắt đầu từ mùa đông - mùa của gặp gỡ và chia tay, khắc sâu trong lòng người. Mùa đông với rừng xanh tươi, hoa chuối đỏ, và con người sẵn sàng chinh phục thiên nhiên. Xuân về, hoa mơ trắng tinh khiết, thu đến với rừng màu hổ phách, và người con gái hái măng một mình. Cuối cùng, bức tranh kết thúc bằng ánh trăng hòa bình và những câu hát say đắm.
Sau những câu thơ miêu tả thiên nhiên người chiến sĩ nhắc đến những hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi của mình:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
………
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…
Những kí ức ùa về trong tâm trí là khi bộ đội đánh giặc. Khi quân giặc đến, không chỉ bộ đội ta mà cả núi rừng thiên nhiên hoang dã cùng đồng lòng đồng sức đánh giặc. Đối với quân và dân ta, rừng dang bàn tay âu yếm che chở và bảo vệ, những tán lá rừng xanh mát như một thứ ngụy trang khiến cho bộ đội yên lòng chiến đấu và chiến thắng quân thù. Còn đối với quân giặc, rừng lại như một vùng địa thế hiểm trở như một ma trận bao vây khiến chúng có thể rơi vào rất nhiều cạm bẫy. Khi ấy thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Nhưng trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
Những đường Việt Bắc của ta
………
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.
Khí thế mạnh mẽ của đoàn quân được thể hiện qua hình ảnh so sánh và hoán dụ, như "đêm đêm rầm rập" và ánh sao đầu súng, mũ nan. Ngọn đuốc trong tay quân dân thắp sáng bầu trời và niềm tin về chiến thắng. Sức mạnh đoàn quân vượt qua mọi trở ngại, phản ánh bối cảnh lịch sử hào hùng và niềm hi vọng vào tương lai tươi sáng.
Trong niềm thương nhớ nuối tiếc khi chia xa, nhà thơ cất lên những giai điệu hào hùng ca ngợi tổ quốc ca ngợi Đảng và Chính phủ Việt Nam:
Ai về ai có nhớ không?
……
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Ngày hôm qua ấy mãi ở trong lòng người chiến sĩ cách mạng, tồn tại như một phần kí ức không thể nào tách rời. Hình ảnh ngọn cờ sao vàng như một minh chứng cho những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ như một biểu tượng tiếp thêm dũng khí và nghị lực cho quân dân ta tiếp tục chiến đấu và chiến thắng. Bác như tiếp thêm cho chúng ta ý chí lòng can đảm bởi chỉ có ý chí mới vượt qua được những chông gai thử thách và khó khăn đang đợi chờ phía trước.
Mình về thành thị xa xôi
………
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
Lời thơ bày tỏ nỗi băn khoăn của người dân Việt Bắc đối với người chiến sĩ trong giờ chia tay, qua hình ảnh hoán dụ về cuộc sống thành thị và núi rừng. Tác giả thể hiện lo lắng liệu người cán bộ có thay lòng, quên đi quá khứ gian khó và những người đã kề vai sát cánh, mong chờ họ trở lại.
Đường về đây đó gần thôi
………
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề núi giăng…
Người cán bộ cách mạng đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung của mình: dù hòan cảnh sống có thay đổi nhưng lòng luôn hướng về Việt Bắc, con tim luôn dạt dào nỗi nhớ và tình cảm dành cho con người và thiên nhiên nơi đây. Dù sống trong nhà cao nhưng sẽ không quên được những rặng núi xanh mát. Vào một ngày không xa họ sẽ trở về thăm lại bản làng, tình cảm lại trở về tươi mới vẹn nguyên như thuở ban đầu.
Trong những giây phút chia li cuối cùng, lời nhắn cuối cùng mà người dân Việt Bắc muốn nhắn nhủ là:
Mình về với Bác đường xuôi
…………
Người đi rừng núi trông theo bóng Người.
Hình ảnh Bác lại một lần nữa hiện lên trong bài thơ. Chỉ có điều Bác hiện lên không phải như một biểu tượng đẹp tiếp thêm cho người chiến sĩ cách mạng ý chí và niềm tin, không phải là một biểu tượng cho sức mạnh đánh tan quân thù nữa mà Bác hiện lên trong những câu thơ này là một con người hết sức đời thường: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải trong tư thế ung dung trên yên ngựa vào mỗi sáng tinh sương. Quả thật hình ảnh Bác hiện lên như một ông tiên trong những câu chuyện cổ, rất bình dị nhưng vẫn đẹp một cách phi thường. Giờ đây con người đó đã đi xa cả rừng núi như dõi theo từng bước đi của Người.
Kết thúc bài thơ là hai câu thơ với âm hưởng tươi sáng:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé hát cùng thủ đô.
Hai câu cuối bài thơ mang âm hưởng tươi vui chính vì vậy mà dù đề tài có viết về cảnh chia tay nhưng không hề gây cho người đọc cảm giác buồn bã đau thương hay nuối tiếc mà trái lại vẫn tươi vui trong sáng, mở ra một tương lai huy hòang, một viễn cảnh tương lai khi đất nước phát triển đi lên không ngừng. Khúc ca cuối bài khép lại bài thơ như là lời ngợi ca sức sống của Tổ quốc, cũng chính là khúc ca chia tay đầy tin tưởng.
Bài Việt Bắc của Tố Hữu cùng với những bài thơ khác cùng thời, cùng đề tài như Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã góp phần rất lớn vào trong chủ đề thơ ca cách mạng không những có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần người chiến sĩ mà còn như những tấm gương phản chiếu về một thời đại vẻ vang của dân tộc, để cho thế hệ sau mãi tự hào từ đó mà càng thấy được.
Đánh giá bài thơ Việt Bắc - mẫu 4
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu và đạt được nhiều thành tựu trong phong trào thơ ca cách mạng. Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với bước trưởng thành từ một chàng thanh niên yêu nước đến người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ Việt Bắc được xem là đỉnh cao thơ ca Tố Hữu và cũng là một trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Ngay mở đầu của bài thơ ta đã thấy được tình cảm của con người Việt Bắc rất đẹp. Mượn lối hát đối đáp Tố Hữu đã khiến người đọc cảm nhận được nỗi nhớ thiết tha, tình cảm sâu sắc giữa người ở lại với người ra đi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Tình cảm ấy không phải ngày một ngày hai mà là cả “mười lăm năm” dài đằng đẵng gắn bó với nhau. Đó là khoảng thời gian dài với rất nhiều kỷ niệm với nhau. Từ việc chia nhau từng củ khoai, củ sắn lùi. Những câu thơ chân thực tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt và kháng chiến của quân và dân ta. Đó là thứ tình cảm gắn bó không gì có thể chia cắt được.
Việt Bắc là một khúc tình ca để ca ngợi cuộc kháng chiến vĩ đại và ca ngợi những con người tham gia kháng chiến. Sau những gì nói về con người Việt Bắc, về tình quân dân thì nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên. Tươi đẹp nhất, đặc sắc nhất chính là những dòng thơ về bức tranh tứ bình:
Ta về mình có nhớ ta
……..
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu sử dụng nghệ thuật chấm phá để mô tả bức tranh bốn mùa qua bốn cặp thơ lục bát, thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Mùa đông ở Việt Bắc ấm áp với hoa chuối đỏ, mùa xuân dịu dàng với sắc mơ trắng, mùa hạ tươi đẹp với rừng phách vàng. Dù thiên nhiên đẹp, điều nổi bật là cảnh lao động của con người, đặc biệt là những đêm trăng mùa thu, với tiếng hát thủy chung vang vọng trong rừng núi.
Bên cạnh những nét khắc họa thiên nhiên tươi đẹp thì người đọc còn đặc biệt ấn tượng đến những lời thơ ghi dấu những chiến công của cuộc chiến từ những tháng ngày chiến đấu gian khổ, thiếu thốn. Từ đó viết lên một khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến, về những con người tham gia kháng chiến:
Những đường Việt Bắc của ta
………..
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến toàn dân, với sự tham gia của bộ đội cụ Hồ và người dân công. Hình ảnh đoàn quân mạnh mẽ, đông đảo được thể hiện qua các từ láy "điệp điệp", "trùng trùng", cùng hình ảnh "ánh sao đầu súng" vừa thực vừa lãng mạn. Người dân công, xuất thân từ nông dân, tham gia kháng chiến bằng lý tưởng cách mạng và niềm tin vững chắc, đóng góp vào chiến thắng của dân tộc.
Cuối cùng khi kết thúc bài thơ thì tác giả đem lại hình ảnh về đất nước ngày mai tươi sáng. Tố Hữu đã khẳng định niềm tin vững chắc của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ:
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào
Bài thơ Việt Bắc quả thực là một tuyệt tác về tình yêu quê hương đất nước, về tình quân dân trong thời kỳ kháng chiến chống pháp. Việt Bắc sẽ mãi vang lên là một khúc tình ca, hùng ca có ý nghĩa ca ngợi tinh thần yêu nước, đoàn kết một lòng cho thời đại ngày nay hay sau này.
Đánh giá bài thơ Việt Bắc - mẫu 5
Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm đấu tranh kháng chiến để giữ gìn độc lập tự do, có những con người thầm lặng góp sức tinh thần trong chiến đấu qua những lời thơ, lời văn thể hiện. Trong các tác phẩm văn chương đó có thể kể đến bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm là tấm chân tình trong buổi chia tay đầy lưu luyến giữa tình cảm giữa nhân nhân Việt Bắc và cán bộ cách mạng.
Bài thơ là khúc tình ca cũng như là một khúc hùng ca về cội nguồn tình yêu quê hương đất nước và thể hiện đạo lí truyền thống chung của toàn dân tộc. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hòa bình.
Trong hồi tưởng của Tố Hữu Việt Bắc hiện lên đó là hình ảnh những mái nhà” hắt hiu lau xám, đậm đà tình son”, hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Câu thơ trữ tình vang lên tạo nên sự đằm thắm gắn bó giữa tình đồng chí và nhân dân. Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi chiến đấu âm vang trong những câu thơ trong phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đậm chất sử thi đã miêu tả một cách hùng tráng.
Những đường Việt Bắc của ta
………
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Một dân tộc đã vượt qua bao gian khó hi sinh đã tạo nên những chiến công, kì tích: Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…Tố Hữu đã đi sâu vào để giải thích cội nguồn sức mạnh chung một lòng để giành những thắng lợi vẻ vang ấy.
Tố Hữu từ tình yêu đối với Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc vào một ngày mai tươi sáng, đặt niềm tin vào sức mạnh của toàn nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp của dân tộc:
Ngày mai rộn rã sơn khê
Phường như nấm như măng giữa trời
Những hình ảnh chính là mơ ước khát vọng không chỉ của những người cán bộ kháng chiến mà còn cả nhân dân, tác giả không vì có cái mới mà quên đi những cái cũ, luôn nghĩ về nhau giữa miền xuôi và miền ngược.
Mình về thành thị xa xôi
……….
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Đây cũng chính là lời tác giả muốn nhắc nhở đừng để sự thay đổi của môi trường, khi về thủ đô lại quên đi nghĩa tình năm xưa. Những lời thơ của Tố Hữu đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên những giá trị đó. Hai câu thơ đối lập giữa bóng tối và ánh sáng, khắc họa kiếp nô lệ dưới ách đô hộ và niềm tin vào chiến thắng, tương lai tươi sáng. Tố Hữu sử dụng hệ thống từ chỉ ánh sáng và bóng tối để nhấn mạnh sự chiến thắng của ánh sáng, biểu tượng cho niềm tin vào ngày mai tươi đẹp và hạnh phúc của dân tộc.
Bài thơ Việt Bắc không chỉ khắc họa cuộc sống và nhân vật cụ thể mà phản ánh toàn bộ hình ảnh dân tộc Việt Nam, như một khúc tình ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả với người dân và cán bộ cách mạng, đồng thời nhắc nhở thế hệ trẻ ghi nhớ công ơn các anh hùng dân tộc và những trang sử hào hùng.
Đánh giá bài thơ Việt Bắc - mẫu 6
Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được biết đến với tiếng thơ mang đậm tính trữ tình - chính trị. Những vấn đề mang tính lịch sử khi đi vào thơ ông đều mang âm hưởng của sự ngọt ngào, tha thiết. Điều này đã được thể hiện rõ qua tác phẩm "Việt Bắc" - một bài ca về tình quân dân gắn bó thủy chung, son sắt.
Khúc hát đầy ân tình thủy chung được tái hiện ngay từ những phút giây đầu tiên qua lời của người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả đã sử dụng thành công lời ướm hỏi với âm hưởng ngọt ngào, tha thiết để gợi nhắc về "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Đó là quãng thời gian người chiến sĩ cách mạng cùng nhân dân Việt Bắc gắn bó ân tình. Các đại từ "mình" - "ta" vốn gắn liền với tình yêu đôi lứa trong thơ ca dân gian kết hợp với điệp từ "nhớ" được điệp lại bốn lần đã thể hiện thành công tình cảm, nỗi lòng của "kẻ ở".
Đáp lại tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc, "người đi" - những chiến sĩ cách mạng không tránh khỏi sự "bâng khuâng", "bồn chồn":
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Sự lưu luyến của "người đi" đối với cảnh và tình Việt Bắc đã được thể hiện qua những cử chỉ cụ thể, đặc biệt là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay" diễn tả sự nghẹn ngào trong cảm xúc và không thể diễn đạt thành lời. Nối tiếp mạch cảm xúc đó là những kỉ niệm ấm áp thời kháng chiến gian khổ. Khoảng không gian thuộc về hòai niệm và tâm tưởng đó được mở đầu bằng hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống gắn với tình người Việt Bắc: "Mưa nguồn", "suối lũ", "những mây cùng mù", "Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai" cùng những năm tháng lịch sử của cuộc kháng chiến chống Nhật: "cây đa Tân Trào", "mái đình Hồng Thái". Nổi bật hơn cả là nỗi nhớ về con người đầy da diết và mãnh liệt:
Nhớ gì như nhớ người yêu
………
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi.
Những địa danh, tên gọi cụ thể đã gợi tả thành công nét đẹp rất riêng "Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương". Tác giả đã sử dụng điệp từ "nhớ từng" kết hợp biện pháp liệt kê để diễn tả từng khoảnh khắc thời gian và không gian núi rừng Việt Bắc qua những hình ảnh: "bản khói cùng sương", "rừng nứa bờ tre", "ngòi Thia sông Đáy", "suối Lê" khiến cho nỗi nhớ càng thêm ngân vang với âm hưởng da diết. Đặc biệt, nhớ về Việt Bắc là nhớ về tấm lòng đồng cam cộng khổ cùng những sẻ chia, thấu hiểu thời kháng chiến gian nan: "Thương nhau, chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng". Nghĩa tình gắn bó đó chính là một trong những biểu hiện làm ngời sáng vẻ đẹp của tinh thần yêu nước - mạch ngầm xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Như vậy, qua bài thơ "Việt Bắc", chúng ta có thể thấy được tình cảm gắn bó đầy nghĩa tình thủy chung giữa quân và dân ta trong những năm tháng kháng chiến gian khổ cũng như tài năng của nhà thơ Tố Hữu trong việc diễn đạt một câu chuyện mang tính chính trị trở nên da diết, trữ tình và thiết tha.
Đánh giá bài thơ Việt Bắc - mẫu 7
Tố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tác. Tố Hữu có giọng thơ trữ tình đằm thắm, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch sử dân tộc. Vì vậy, thơ Tố Hữu vừa đậm đà tính dân tộc nhưng không tách rời tính hiện đại.
Khúc hồi tưởng ân tình về Việt Bắc trong những năm cách mạng và kháng chiến gian khổ, bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến được mở đầu:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Bài thơ miêu tả cuộc chia tay đầy xúc động giữa những người gắn bó, với bao kỷ niệm ân tình. Tâm trạng được thể hiện qua lối đối đáp giao duyên, tạo cảm giác xa cách và băn khoăn về tình cảm của người ra đi. Những câu hỏi tu từ như "Mình có nhớ ta?" khắc khoải nhắc nhớ về kỷ niệm kháng chiến, về ngọn nguồn cách mạng.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” thể hiện tâm trạng phức tạp, vừa nhớ nhung người ở lại, vừa muốn trở về miền xuôi nhưng mang nặng tình cảm đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh “áo chàm” tượng trưng cho người dân Việt Bắc, gợi lên sự lưu luyến không muốn rời. Đoạn thơ vừa là lời người ra đi, vừa là tâm trạng của người ở lại, thể hiện mối ân tình sâu sắc giữa chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Bắc.
Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, vừa hiện thực vừa thi vị, mang nét riêng độc đáo, khác hẳn với những vùng quê khác với những cảnh vật núi rừng Việc Bắc hiện lên với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa mơ mộng:
Nhớ gì như nhớ người yêu
…….
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Nỗi nhớ Việc Bắc được so sánh “như nhớ người yêu” thể hiện rằng nỗi nhớ thật da diết, mãnh liệt, cháy bỏng. Điệp từ “nhớ” được đặt ở đầu câu như liệt kê ra từng nỗi nhớ cụ thể: nhớ ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng, sông suối mang những cái tên thân thuộc. Nỗi nhớ bao trùm khắp cả không gian và thời gian. Nỗi cháy bỏng, khát khao gắn với kỉ niệm thơ mộng của núi rừng, thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết. Đẹp nhất trong nỗi nhớ là sự hòa quyện thắm thiết giữa cảnh với người:
Ta về mình có nhớ ta
…….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp đa dạng, sinh động, thay đổi theo từng mùa. Mùa đông tươi tắn, không lạnh lẽo với hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”, gắn bó với thiên nhiên là những con người bình dị, người đi làm nương rẫy. Mùa xuân trong sáng, tinh khôi và đầy sức sống với “mơ nở trắng rừng”. Mùa hè rực rỡ “ Rừng phách đổ vàng”, sôi động với âm thanh “ve kêu”, con người đi hái măng giữa rừng tre nứa, đó là những con người cần mẫn, chịu thương chịu khó. Mùa thu yên ả, thanh bình, lãng mạn với hình ảnh “trăng rọi hòa bình” cùng với đó là những con người ân tình, ân nghĩa. Bằng những việc làm nhỏ bé, họ góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Tuy họ nghèo về vật chất nhưng lại giàu về nghĩa tình.
Những câu thơ thể hiện tinh thần của khối đại đoàn kết toàn dân, sự hòa quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên "Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây" tất cả tạo thành hình ảnh một đất nước đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Những hình ảnh không gian rộng lớn, những từ láy (rầm rập, điệp điệp, trùng trùng), biện pháp so sánh "như là đất rung", cường điệu "bước chân nát đá" diễn tả được khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp: không khí sôi động với nhiều lực lượng tham gia, những hoạt động tấp nập. Âm hưởng hùng ca, mang tính sử thi của đoạn thơ thể hiện được sức mạnh của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Dân tộc ấy vượt qua bao khó khăn, thử thách, hi sinh để đem về những kì tích: “Tin vui thắng trận trăm miền".
Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Việt Bắc là chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc. Bài thơ khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc bằng những vần thơ mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Đánh giá Người lái đò sông Đà
- Diễn biến tâm trạng của ông Hai
- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa đông
- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân
- Đoạn văn biểu cảm về mẹ
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều