10+ Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống (hay, ngắn gọn)



Tổng hợp các bài văn phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

10+ Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống (hay, ngắn gọn)

Quảng cáo

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 1

   Hoàng Cầm, nhà thơ của miền quê Kinh Bắc. Ông sinh năm 1922. Ông nói về quê Mẹ đất Cha:

    "Tôi người Quan họ

    Quê mẹ bên này sông

    Cách quê cha một dòng

    Nước trắng…"

   Dòng sông "nước trắng" ấy chính là dòng sông Đuống yêu thương. Hoàng Cầm là một trong những thi sĩ đương đại cực kì tài hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng như đi tìm "lá diêu bông" một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau. Ông khóc mình… rồi khóc con gái "mệnh yểu":

    "Sực nhớ cha vò võ tuyết sương

    Con hóa thành tia sao Thương

    Cắt ngang đường sao băng".

                (Men đá vàng)

Quảng cáo

   Nếu tính từ năm 1937 khi viết "Hận Nam Quan" đến năm 1995, tập thơ "Men Đá Vàng" xuất bản, Hoàng Cầm đã có ngót 60 năm làm thơ. "Bên kia sông Đuống", "Lá diêu bông", "Mưa Thuận Thành", kịch thơ "Trương Chi",… là những tiếng thơ, tiếng hát để thương, để nhớ cho đời.

   Hoàng Cầm viết bài thơ "Bên kia sông Đuống" vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới ngọn đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến lúc gà gáy sáng thì hoàn thành bài thơ. "Bên kia sông Đuống" là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài quê hương của thơ ca kháng chiến chống Pháp; thi phẩm này đã làm vẻ vang cho nhà thơ Hoàng Cầm. Tràn ngập bài thơ là cái tình quê, hồn quê dạt dào. Nỗi nhớ thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc… quê hương đang bị quân thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết tha, bồn chồn… hòa quyện vào nhau, bài thơ cứ ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc. Hoàng Cầm đã có lần tâm sự về "Bên kia sông Đuống": "Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại". Chính hương vị ấy, chất tình tứ, hư ảo ấy đã diệt nên sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này.

Quảng cáo

   Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi mơ hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi, xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu:

    "Em ơi buồn làm chi

    Anh đưa em về sông Đuống

    Ngày xưa cát trắng phẳng lì".

   Con sông tuổi thơ "cát trắng phẳng lì" là cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh và em, của ngày xưa, của năm tháng. Em là sự phân thân của nhà thơ, hay "người tình chung" từng "để thương, để nhớ để sầu cho ai…". Em đến để tâm tình, để thổ lộ… và hẹ em trong "ngày hội non sông": "Em mặc yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mêm ánh sáng muôn lòng xuân xanh". "Em" đến đúng lúc để "anh" giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình tứ hư ảo trong thơ Hoàng Cầm mà ta cảm nhận được.

Quảng cáo

   Cùng với em là hình ảnh con sông Đuống thương yêu xuất hiện. Dòng sông thơ ấu từ hoài niệm "Ngày xưa cát trắng phẳng lì" trôi theo dòng lịch sử, theo thời gian và lòng người mà hiện về trong thương nhớ, với màu sắc, với dáng hình thân thuộc:

    "Sông Đuống trôi đi

    Một dòng lấp lánh

    Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì".

   Hai tiếng "trôi đi…" gợi lên cái êm đềm, cái man mác "nước chảy lơ thơ…". "Một dòng sông lấp lánh" vì cát trắng, vì gương sông chở ánh hồng bình minh, chở trăng sao những đêm thu đẹp. Đó là dòng sông thơ mộng. Dáng sông Đuống trong hiện tại chẳng uốn lượn như hình con long của sông "làng ta" (Ca dao) mà lại "Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì". Một câu thơ hay để ta cảm xúc, đọc lên nhận vào hồn mình với báo nhiêu nhã thú, thi vị. Tưởng như tác giả viết bằng bút pháp siêu thực? Tưởng như câu thơ được cấu tạo nên bằng kĩ thuật điện ảnh tân kì? Đó là một sáng tạo thi ca độc đáo của thi sĩ tài hoa Hoàng Cầm.

   Sông Đuống là sông của tuổi thơ, sông của hoài niệm. Màu "xanh xanh" của bãi mía bờ dâu, màu "biêng biếc" của ngô khoai là màu xanh của miền thơ ấu, là hình bóng quê hương. Bức tranh quê tươi tắn, đầy sức sống… Nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đứa con li hương "đứng bên này sông" nhìn về "bên kia sông Đuống", từ vùng tự do tả ngạn nhìn về hữu ngạn, nơi "tâm hồn ta thấm đất", nỗi nhớ, nỗi đâu không thể nào kể xiết:

    "Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

    Sao xót xa như rụng bàn tay".

   "Sao nhớ tiếc… sao xót xa…" vì quê hương đang chìm trong máu lửa. Nỗi nhớ, nỗi đâu đến cực độ, làm tê tái cả hồn người, làm "chết đi " từng phần cơ thể. Câu thơ "Sao xót xa như rụng bàn tay" đã cụ thể hóa nỗi đau đớn xót xa cả về thể xác lẫn tinh thần. Đầu thế kỉ XX, Nguyễn Khuyến đau đớn khi "chợt nghe" tin bạn chí thân qua đời: "Làm sao bác vội về ngay – Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời". Một đằng khóc bạn, một đằng khóc quê. Hai nhà thơ đều mượn cách nói dân gian để diễn tả một tâm trạng, một nỗi lòng tan nát. Có yêu quê hương tha thiết, gắn bó thủy chung với quê Mẹ đất Cha thì Hoàng Cầm mới có nỗi đâu "nhớ tiếc" và "xót xa như rụng bàn tay" ấy.

   Có thể nói, mười dòng thơ trong phần tiền tấu của khúc ca quê hương "Bên kia sông Đuống" là một cái nhìn đăm đắm "nhớ tiếc", là nỗi đau tê tái "xót xa", là nỗi nhớ thương khôn nguôi.. của đứa con li hương. Vần thơ như những tiếng khóc thầm, rồi bật lên như một tiếng nghẹn nấc: "biêng biếc… nhớ tiếc … như rụng bàn tay".

   Phần thứ hai gồm có 118 dòng thơ, chia làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài 69 dòng thơ nói lên nỗi đau, nỗi nhớ tiếc xót xa về quê hương tươi đẹp, yên vui trong thanh bình… bỗng bị quân thù kéo tới chiếm đóng, tàn phá. Đoạn thứ hai là 49 dòng nói về quê hương chiến đấu, xóm thôn vùng lên khi bộ đội "bên sông trở về".

   Đoạn thứ nhất cấu trúc tương phản giữa xa xưa thanh bình với hiện tại tang tóc, điêu tàn. Các câu thơ "Bên kia sông Đuống" và "Ai về bên kia sông Đuống" nối tiếp nhau xuất hiện, diễn tả hình bóng quê hương hiện lên như những đợt sóng vỗ vào lòng đứa con xa quê bao nỗi nhớ thương và căm giận. Một tình quê vơi đầy trong nỗi nhớ:

    "Bên kia sông Đuống

    Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

    Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

    Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp".

   "Bên kia sông Đuống" là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, một miền quê trù phú và có nền văn hóa, văn hiến ngàn năm thuộc vùng Kinh Bắc. Chỉ bằng hai nét vẽ mà nhà thơ đã gợi lên hương sắc quê nhà. Ba tiếng "quê hương ta" vang lên tự hào, lay động tha thiết. Hương lúa nếp thơm nồng của cốm mới, của cánh đồng màu xanh lúa trỗ, hương xôi, hương bánh… trên mâm cỗ tết, trong ngày giỗ trên bàn thờ gia tiên. Hương lúa nếp thơm nồng đã quyện lấy tâm hồn "anh" và "em" tự thuở nào. Nhớ "quê hương ta" là nhớ mùi "thơm nồng" của lúa nếp, là nhớ tranh làng Hồ, tranh gà lợn, nhớ nét vẽ tài hoa xinh đẹp "nét tươi trong", nhớ "màu dân tộc", nhớ sắc màu rực rỡ, tươi đẹp "sáng bừng trên giấy điệp" óng ánh, mượt mà. Tình yêu quê được gửi gắm, được thể hiện qua các thanh âm (nồng, trong, bừng, điệp…), qua các tính từ phẩm chất đã làm dậy sắc hương của lúa nếp, của tranh gà lợn: thơm nồng, tươi trong, sáng bừng, điệp. Đặc biệt hai chữ "sáng bừng" đã thể hiện cái hồn quê nồng nàn say đắm, đã làm sáng lên cả vần thơ và hoài niệm, đã thổi vào bức tranh quê cả sức sống và tình yêu mặn nồng. Cũng như dân ca Quan họ, mảng tranh dân gian Đông Hồ được tác giả nói đến với bao yêu mến, tự hào, từ đề tài đến chất liệu, từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật đều mang vẻ đẹp bình dị, dân dã, mến yêu "sáng bừng" màu sắc dân tộc.

   Nhưng giờ đây còn đâu nữa? – "Quê hương ta từ ngày khủng khiếp – Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn". "Ngày khủng khiếp" kể từ 19 – 12 – 1946, ngày toàn quốc kháng chiến, những miền quê rộng lớn bình yên đã bị giặc Pháp biến thành đống tro tàn. "Những cánh đồng quê chảy máu", những đường làng "xương máu tơi bời", … cả một không gian bao la chìm trong máu lửa, chết chóc. Quân cướp nước kéo tới quê hương ta là: "Chó ngộ một đàn – Lưỡi dài lê sắc máu". Chúng điên cuồng đốt phá, bắn giết: ruộng khô, nhà cháy, ngõ thẳm bờ hoang kiệt cùng. Sự sống bị tiêu diệt, cả một miền quê tan tác, đau thương:

    "Mẹ con đàn lợn âm dương,

    Chia lìa đôi ngả

    Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

    Bây giờ tan tác về đâu".

   Ước mơ ấm no, yên vui, hạnh phúc của "quê hương ta" bao đời nay bị quân xâm lược làm cho tan nát chia lìa. Từ nỗi đau vật chất đến nỗi đau tinh thần là vô cùng ghê sợ! Lấy hình ảnh trong hai bức tranh làng Hồ, bức tranh lợn và bức tranh đám cưới chuột để cực tả cảnh đau thương chia lìa, tan tác trên quê hương. Nhà thơ đã lay động hồn quê, tình quê ứa máu, thấm lệ trong lòng người bấy nay. Vẻ đẹp văn hóa trong lòng người, trong nếp sống, trong cảnh vật đã bị "ngọn lửa hung tàn" hủy diệt! Những câu thơ ngắn đan xen với những câu thơ dài đã góp phần tô đậm nỗi căm uất, nghẹn ngào chứa chất trong lòng người đang bùng lên dữ dội.

   Nhớ da diết bồi hồi quê hương, Hoàng Cầm lại tha thiết nhắn gọi: "Ai về bên kia sông Đuống – Cho ta gửi tấm the đen… - Gửi về may áo cho ai…" – Vẫn chỉ là phiếm chỉ "Ai về…" "cho ai…", gợi lên một nỗi nhớ bồi hồi, mênh mông. Tình quê trong hoài niệm là "thấp thoáng mộng bình yên", là nỗi nhớ chùa xưa tháp cũ, nhớ hội hè, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ huyện Lang Tài, nhớ tiếng chuông chùa sớm sớm chiều chiều ngân buông. Nhớ cuộc sống yên vui thanh bình, nhớ những địa danh, những thắng cảnh… đã in dấu đậm đà, đã gắn bó với tân hồn đứa con li hương:

    "Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

    Những hội hè đình đám

    Trên núi Thiên Thai

    Trong chùa Bút Tháp

    Giữa huyện Lang Tài

    Gửi về may áo cho ai

    Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu".

   Tiếng chuông chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Bách Môn… chỉ còn "văng vẳng" từ "mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên" vọng về trong hồn người đã làm cho nỗi nhớ, nỗi đau thêm nhức nhối, gợi lên sự hoang vắng, điêu tàn của quê hương, nói lên mơ ước ngàn đời được sống ấm no, yên vui trong thanh bình.

   Nhớ cảnh rồi nhớ người. Nỗi nhớ tràn ngập, nhớ từng dáng hình, nhớ từng nét mặt nhớ làn môi, nhớ mái tóc, nhớ quần nâu, nhớ cụ thể, nhớ nhiều… Chữ "những" điệp lại nhiều lần diễn tả nỗi nhớ mênh mang, xao xuyến, bồi hồi:

    "Những nàng môi cắn chỉ quết trầu,

    Những cụ già phơ phơ tóc trắng

    Những em sột soạt quần nâu

    Bây giờ đi đâu về đâu".

   "Ai về… có nhớ" – về bên kia sông Đuống, quê hương ta, của anh và của em. Ai có nhớ, riêng ta nhớ lắm. Nhớ "từng khuôn mặt búp sen", nhớ nụ cười ấm áp, tươi vui, rạng rỡ của những cô gái xinh đẹp, tình tứ, dịu dàng. Nhớ người dăng tơ, nhớ nàng dệt sợi, nhớ người thợ nhuộm, … những con người cần mẫn, siêng năng, khéo tay hay làm, rất đáng yêu, đáng tự hào. Cuộc sống và con người quê hương hiện hình qua nỗi nhớ lần lượt nối tiếp xuất hiện trong kí ức đầy ám ảnh, khôn khuây:

    "Ai về bên kia sông Đuống

    Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

    Những cô hàng xén rang đen,

    Cười như mùa thu tỏa nắng

    Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen,

    Bãi Trầm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối

    Những nàng dệt sợi

    Đi bán lụa màu

    Những người thợ nhuộm

    Đồng Tỉnh, Huê Cầu

    Bây giờ đi đâu về đâu".

   Nỗi nhớ ấy vừa thực, vừa mộng ảo, gắn bó nhịp sống đời thường nhộn nhịp với cái vẻ tình tứ đáng yêu gợi ra trong lòng chúng ta một trời bâng khuâng thương nhớ: "Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu – Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm – Nào ai đi chợ Thanh Lâm – Mua anh một áo vải thâm hạt dền". Qua đó, ta cảm nhận hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo đã làm nên vẻ đẹp trữ tình trong thơ Hoàng Cầm.

   Sau hình ảnh những cô gái xinh đẹp, tình tứ… Hoàng Cầm nói về bà mẹ và đàn con thơ với nhiều thương nhớ, đau xót. "Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong" xuất hiện giữa phiên chợ nghèo, khi "lũ quỷ mắt xanh" kéo đến cướp bóc: "Lá đa lác đác trước lều – Vài ba vết máu loang chiều mùa đông". Bờ tre thì "hun hút", trời thì "mưa lạnh" con đường thì "trơn",… cả một không gian tăm tối, lạnh lẽo, hãi hùng… Trên trời, cánh cò xao xác "bay vùn vụt", … "về đâu…". Trên đường trơn, mẹ già mái tóc bạc phơ lầm lũi "bước cao thấp" với bao nỗi kinh hoàng. Hình tượng thơ đầy ám ảnh, nhức nhối đau thương:

    "Có con cò trắng bay vùn vụt,

    Lướt qua dòng sông Đuống về đâu

    Mẹ ta lòng đói dạ sầu

    Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ".

   Đàn con thơ đang sống trong cảnh đói rét sợ hãi. Chỉ có bát cháo ngô cầm hơi, chỉ biết "chui gầm giường tránh đạn", đêm đêm sống trong nỗi kinh hoàng giữa tiếng súng giặc: "Ú ớ cơn mê – Thon thót giật mình"… Hình ảnh bà mẹ và em thơ trong đoạn thơ này tiêu biểu cho nỗi đau thương của những bà mẹ, những em bé, những nạn nhân trong chiến tranh. Câu thơ khép lại phần hai là tiếng thét căm hờn. Hoàng Cầm diễn tả lòng căm thù giặc bằng một cách nói độc đáo, mạnh mẽ:

    "Đã có đất này chép tội,

    Chúng ta không biết nguôi hờn".

   Ngoài biện pháp tương phản đối lập giữa "mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên" với "Quê hương ta từ ngày khủng khiếp", Hoàng Cầm lặp đi lặp lại các câu thơ: "Bây giờ tan tác về đâu… Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu… Bây giờ đi đâu về đâu…" – điệp cú, điệp khúc ấy không chỉ gợi tả âm điệu xót xa và bao nỗi ngơ ngác, kinh hoàng về đau thương, tang tóc trong lửa đạn quân thù, mà còn tạo ra ám ảnh khôn nguôi về sự tiếc nuối những năm tháng thanh bình êm đẹp và thơ mộng của quê hương.

   Giọng thơ thay đổi ở đoạn hai 49 câu tiếp theo. Có niềm vui gặp gỡ thắm tình quân dân khi "bộ đội bên sông đã trở về". Hình ảnh bà mẹ quê hương tượng trưng cho niềm vui hồi sinh "bừng lên" sau lũy tre điêu tàn một thời "khủng khiếp":

    "Lửa đèn leo lét soi tình mẹ,

    Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng".

   Có biến động "Trại giặc bắt đầu run trong sương". Cả một vùng quê bao la vùng lên đánh giặc, đem lại màu xanh cho ruộng đồng :

    "Gió đưa tiếng hát về gần,

    Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa".

   Có niềm vui "mở hội… " và niềm vui chiến thắng. Câu thơ ngắn, nhịp thơ hối hả, rộng ràng. Sông Đuống hiện ra giữa một rạng đông tuyệt đẹp :

    "Vì nắng sắp lên rồi

    Chân trời đã tỏ

    Sông Đuống cuồn cuộn trôi … ".

   Đoạn hai tuy có một số câu thơ cảm động, một số hình ảnh gợi cảm, nhưng ngôn ngữ thơ dàn trải, yếu tố "kể" lấn át yếu tố trữ tình. Bài thơ được tác giả viết vào mùa xuân 1948, phải sáu năm sau (1954), trải qua những chặng đường gian khổ, hi sinh vô cùng to lớn, mới có cảnh tượng "bao nhiêu đồn giặc tơi bời", và mới có "chim múa hoa cười" trong lòng đứa con xa quê thời khói lửa. Do đó, cảm hứng lãng mạn khi nói về quê hương chiến đấu và chiến thắng ín nhiều dễ dãi, sơ lược.

   Phần thứ ba với sáu dòng thơ nói lên niềm mơ ước "bao giờ về bên kia sông Đuống" trong ngày hội non sông, trong niềm vui tái hợp. Một lần nữa, hình ảnh cô gái Kinh Bắc hiện lên trong vẻ đẹp kì diệu và tình tứ :

    "Anh lại tìm em

    Em mặc yếm thắm

    Em thắt lụa hồng

    Em đi trẩy hội non sông

    Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh".

   Sau một chuỗi câu thơ ngắn bốn tiếng, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ lục bát có giá trị gợi tả niềm vui ngân nga mãi trong lòng người.

   "Quê hương nghĩa nặng tình sâu… ", có ai đã nói như vậy ? Tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất của con người Việt Nam chúng ta. Tình quê hương với Hoàng Cầm là nỗi nhớ và niềm tự hào ; nhớ cảnh vật, nhớ con người, nhớ dòng sông Đuống "Trôi đi một dòng lấp lánh", nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ khuôn mặt búp sen thiếu nữ, nhớ mùa xuân tưng bừng lễ hội, nhớ mẹ, nhớ đàn con thơ… Nhớ và tự hào về một miền quê giàu đẹp, có màu xanh lúa ngô khoai, nương dâu bãi mía, có tranh Đông Hồ "Gà lợn nét tươi trong – Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp". Tự hào về quê hương bất khuất hiên ngang. Tin tưởng về ngày hội non sông, và ngày vui tái hợp. Bài thơ còn chất chứa bao nỗi căm hờn đối với quân xâm lược.

   Thơ của Hoàng Cầm giàu nhạc điệu và âm điệu lôi cuốn. Có vang vọng của ca dao, dân ca. Bài thơ thấm một tình yêu và hồn quê lai láng. Con sông Đuống, cô gái "cười như mùa thu tỏa nắng"… là của riêng Hoàng Cầm.

   Nhưng lạ thay, kì diệu thay, người đọc gần xa trong hơn nửa thế kỉ nay đã tìm thấy một phần bóng hình quê hương mình và nỗi lòng, tình thương, nỗi nhớ của mình trong bài thơ tuyệt tác "Bên kia sông Đuống". Thơ hay mới cho ta "Sự đồng cảm nhiệm màu" ấy.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 2

Bên kia sông Đuống in trong tập thơ cùng tên của Hoàng cầm. Một đêm tháng tư năm 1948, đang công tác văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc, tác giả nghe tin quê hương bị giặc đánh phá nên xúc động viết ra bài thơ này. Đây là một trong những bài thơ hay nhất về tình quê hương đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.

Bằng cách trình bày khung cảnh thanh bình của quê hương sống Đuống, mảnh đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa với những nét tài hoa về hội họa dân gian, những hội hè mùa xuân đông vui, những sinh hoạt chợ búa, các nghề thủ công nổi tiếng… và tụ lại ở gánh hàng rong của mẹ già một đời tần tảo, hình ảnh những đứa em thơ… tất cả đều bị lũ giặc hung tàn tràn đến đốt phá tan tành, tác giả bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim gắn chặt với quê hương và qua đó nói lên tình yêu đất nước thiết tha, sâu đậm.

Mở đầu bài thơ, tác giả nhắc tới nét đẹp của con sống Đuống : cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc… gợi lên hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Nhưng giờ đây, tất cả đều tan tác dưới gót giày quân xâm lược. Đứng bên này sống, nhìn sang quê hương bên kia sống bị giặc chiếm, cảm xúc đau đớn của nhà thơ lên đến cực điểm: Xót xa như rụng bàn tay.

“Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô

Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?”

Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là một vùng đất mỡ màu, trù phú và có một bề dày lịch sử, văn hóa vô cùng quý báu. Nhớ tới quê hương, nhà thơ như cảm thấy hương vị đậm đà, thanh khiết của lúa nếp thơm nồng sau mùa gặt mới. Hương cốm ngọt ngào trong đêm trăng sáng Trung thu, mùi xôi nếp cái hoa vàng thơm lừng ngày giỗ, ngày Tết… để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người xa quê.

Đất Kinh Bắc là đất của thơ ca, nhạc họa và những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm. Thánh Gióng nhổ tre quật tan tác giặc Ân. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh quân Nam Hán. Lí Thường Kiệt đuổi quân Tống ở sông cầu. Chiến dịch Xương Giang của Lê Lợi – Nguyễn Trãi giết hàng vạn giặc Minh cũng diễn ra ở đấy. Bao thần thoại, truyền thuyết, cổ tích đẹp đẽ cũng ra đời từ miền đất ấy.

Đặc biệt, con người Kinh Bắc tài hoa đã sáng tạo ra một loại tranh dân gian nổi tiếng là tranh Đông Hồ với nội dung vui tươi, nét vẽ đậm đà, chân chất, màu sắc tươi tắn. Tranh nào tranh nấy như một lời chúc mừng năm mới tốt lành. Từ con người đến vạn vật đều vui với mùa xuân, nẩy nở, sinh sôi, tràn đầy sức sống :

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.

Tranh Đông Hồ đến với mọi nhà, đem niềm vui và niềm tin vào năm mới làm ăn sẽ may mắn, phát đạt. Tranh mang vẻ đẹp dân dã mà thanh tao, ý nghĩa ấm áp bao nhiêu !

Vậy mà bỗng dưng lũ giặc kia ầm ầm kéo tới, ngùn ngụt như đám cháy, hung tàn chẳng khác chi chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu. Chúng tàn phá không chừa một nơi nào:

Ruộng ta khô.
Nhà ta cháy…
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang.
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.

Nào chỉ có tang thương, đau đớn về vật chất?! Chúng nó đốt phá, cướp bóc, giết chóc… nhưng đó mới chỉ là những vết thương trước mắt, nhìn thấy rõ. Còn điều sâu xa hơn, có ai ngờ? Đàn lợn âm dương, Đám cưới chuột (tên hai bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng) tượng trưng cho quan niệm về nguồn gốc sự sống của cha ông nay cũng bị giặc tàn phá, hủy diệt. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn thế nữa?!

Lời thơ, ý thơ là vậy và âm điệu đoạn thơ cũng là một âm điệu xót xa kéo dài: Bây giờ tan tác về đâu? Giặc kéo tới cùng với đau thương, chết chóc, kinh hoàng. Bây giờ không biết mọi cái đã tan tác về đâu ? Cả thời gian lẫn không gian đều trở nên mờ mịt, xa xôi không biết đến nơi nào, đến bao giờ, khiến nỗi xót xa không còn giới hạn. Âm điệu của hai chữ về đâu nghe như một tiếng kêu xé lòng vút lên giữa thinh không, chẳng có lời đáp lại.

Đoạn thơ ngắn với hai mảng đối lập nhau : quá khứ tươi đẹp và hiện tại đau thương có tác dụng như một lời kết tội đanh thép quân xâm lược. Câu thơ cuối chứa chất xót xa, đau đớn và căm hận. Quân cướp nước sẽ phải trả nợ máu cho những tội ác của chúng đã gây ra trên quê hương, đất nước này.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 3

Quê hương – hai tiếng gọi thiêng liêng mà bất cứ ai đi xa cũng đều muốn trở về. Quê hương đã trở thành máu thịt của ta, là hình ảnh đi vào thơ văn của biết bao nghệ sĩ. Bằng tình yêu quê hương da diết, nhà thơ Hoàng Cầm đã thể hiện sự đau xót của mình khi nghe tin Kinh Bắc bị giặc Pháp xâm lược qua bài thơ “Bên kia sông Đuống”.

Bài thơ được sáng tác năm 1948, đây là khoảng thời gian cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra hết sức ác liệt. Khi Hoàng Cầm đang công tác ở chiến khu Việt Bắc thì nghe tin quê nhà bị giặc chiếm đóng. Ngay trong đêm ấy, ông đã viết liên tục với những dòng cảm xúc đau đớn đầy căm hờn đối với quân cướp nước. Sông Đuống là dòng sông chảy qua tỉnh Bắc Ninh. Quê hương của nhà thơ ở huyện Thuận Thành thuộc phần đất phía Nam bên kia sông Đuống. Vì vậy mà ông đã lấy “Bên kia sông Đuống” đặt làm nhan đề cho tác phẩm.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương Kinh Bắc trù phú, sầm uất trước khi bị giặc xâm lược:

“Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc”

Tiếng gọi “Em ơi” và cách xưng hô anh – em thật nhẹ nhàng mà thắm thiết. Đại từ phiếm chỉ “em” gợi cho bạn đọc nhiều cách hiểu. Đây có thể là một người nào đó có quan hệ thân thiết với tác giả. Cũng có thể tác giả đang phân thân để trò chuyện với chính mình hoặc là tiếng gọi tất cả những người con yêu nước, những người đang chịu sự áp bức của quân xâm lược. Câu thơ đầu tiên vừa như một lời an ủi vừa như một lời giãi bày nỗi lòng của tác giả.

Sông Đuống đẹp một cách bình dị với những bờ “cát trắng phẳng lì” trải dài, đầy phù sa. Các từ láy “lấp lánh”, “xanh xanh”, “biêng biếc” đã thể hiện một vẻ đẹp êm đềm, thanh bình của vùng đất Kinh Bắc. Nơi ấy có dòng sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng”, có những bãi mía, bờ dâu, những bãi ngô, bãi khoai ngút ngàn. Đó là những đặc trưng nổi bật của làng quê Việt Nam.

Có làng quê nào lại không có bãi mía, bờ dâu, thửa ruộng ngô, khoai nối tiếp? Chỉ bằng vài nét gợi tả nhưng Hoàng Cầm đã giúp chúng ta nhận thấy cuộc sống của nhân dân ở đây khá no ấm. Nhưng những điều đó đã thuộc về thời gian quá khứ. Từ “ngày xưa” khiến chúng ta nhớ đến các câu chuyện cổ tích, những hoài niệm về một thời đã xa nay không còn nữa.

Dòng sông yêu thương không chỉ mang vẻ đẹp lấp lánh, hiền hòa mà nó còn là chứng nhân lịch sử. Sông Đuống được nhân hóa với tư thế “nằm nghiêng nghiêng”. Đây là tư thế nép mình khiêm tốn. Phải chăng dòng sông ấy đã chứng kiến và trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc nên giờ đây trầm lắng hơn? Sông Đuống trở nên có hồn, có hình dáng uốn lượn nhịp nhàng. Dòng sông không ở trạng thái lặng yên mà nó “trôi đi” cùng vẻ đẹp mĩ lệ, sáng lấp lánh.

Khi giặc Pháp đến xâm chiếm đất nước ta thì tất cả những gì tươi đẹp đã lùi vào dĩ vãng, để lại một bầu trời nhớ thương, nuối tiếc những tháng ngày quê hương êm ấm, yên bình:

“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”

Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau về mặt tinh thần. Mảnh đất quê hương bị giày xéo khiến trái tim tác giả không khỏi đau xót. Phải là một người yêu quê hương, gắn bó với quê hương sâu sắc thì nhà thơ mới thấu hiểu được nỗi đau ấy. Những bãi mía, bờ dâu chỉ còn trong kí ức, trong nỗi nhớ tiếc của Hoàng Cầm khi đứng ở bên này sông nhìn về quê hương. Biện pháp tu từ so sánh cùng cụm từ “sao nhớ tiếc”, “sao xót xa” vang lên như một điệp khúc đã khắc họa sâu hơn nỗi đau mất mát. Quê hương như một phần của cơ thể con người, mất đi quê hương làm sao con người có thể không xót xa, đau đớn?

Càng nhớ tiếc về Kinh Bắc bao nhiêu thì mảnh đất ấy lại hiện rõ trong trí nhớ nhà thơ bấy nhiêu:

“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”

Tranh Đông Hồ là loại tranh dân gian được vẽ trên giấy điệp hay còn gọi là giấy gió. Nó thể hiện nét văn hóa truyền thống của đất nước. Nội dung của những bức tranh thường là các phong tục tập quán của làng quê hay là những nét vẽ về con người, con vật, về đám cưới chuột, … Màu sắc trong tranh tươi tắn khiến bức tranh trở nên sinh động, có hồn. “Màu dân tộc” trên tranh Đông Hồ chính là linh hồn, là cốt cách dân tộc Việt Nam. Quê hương ấy còn có hương thơm nồng của lúa nếp mùa bội thu.

Nhưng chiến tranh đã cướp đi tất cả:

“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”?

Từ láy “ngùn ngụt” không chỉ miêu tả ngọn lửa hung tàn của địch mà nó còn biểu hiện ý chí căm thù ngùn ngụt, sục sôi trong mỗi người con yêu nước. Quân ngoại xâm đã thiêu cháy hết những mái nhà êm ấm khiến vạn vật tan tác, chia lìa. Những hình ảnh “đám cưới chuột, đàn lợn” đều là những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu của dòng tranh Đông Hồ, thể hiện cuộc sống bình dị, yên ấm của con người, thể hiện nét đẹp văn hóa Việt Nam…. giờ đây bị hủy diệt trước thảm họa xâm lăng.

Vẻ đẹp của con người cũng được nhà thơ khắc họa bằng một nỗi nhớ khôn nguôi:

“Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu”

Cuộc sống của người dân nơi đây khá đủ đầy về đời sống vật chất. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của họ cũng phong phú với các phong tục nhuộm răng, ăn trầu,… Những điều ấy đã tạo nên nét riêng của con người Kinh Bắc. Người con gái Kinh Bắc vô cùng duyên dáng:

“Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng”

“Khuôn mặt búp sen” xinh xắn, thanh tú, nụ cười như nắng mùa thu dịu nhẹ mà lan tỏa đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong lòng bạn đọc. Sự liên tưởng của nhà thơ khiến câu thơ trở nên thật mềm mại, uyển chuyển. Vẻ đẹp của con người đã hòa cùng vẻ đẹp của thiên nhiên để tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, quyến rũ.

Đồng thời, nhà thơ cũng miêu tả sự tần tảo, một nắng hai sương của những người mẹ:

“Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm”

Những bà mẹ hàng ngày đã phải vất vả sớm hôm, lam lũ, hi sinh rất nhiều cho gia đình. Gánh hàng của mẹ nào có gì nhiều, mẹ chỉ có “dăm miếng cau khô”, “mấy lọ phẩm hồng”, “vài thếp giấy đầm”. Vậy mà “lũ quỷ mắt xanh” cũng cướp bóc, đánh đập làm “vết máu loang chiều mùa đông”, làm tan tác cả buổi họp chợ vốn yên bình. Những động từ “đạp”, “khua”, “trừng trợn”, “xì xồ” diễn tả hành động tàn bạo, dã man của quân giặc. Chúng đã gây ra bao đau thương cho quê hương, dân tộc ta. Chiến tranh thật khốc liệt, chiến tranh khiến khung cảnh quê hương trở nên quạnh hiu, hoang vắng:

“Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”

Nhịp điệu câu thơ chậm rãi, nỗi buồn thương như thấm vào từng cảnh vật. Vài chiếc lá đa lác đác, thưa thớt cùng màu đỏ của máu đã loang dần, loang dần ra theo chiều đông quạnh vắng. Còn gì đau xót hơn như thế? Máu và nước mắt như đã hòa trộn vào nhau để cất lên lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa, tố cáo quân xâm lược vô nhân tính.

Chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những đứa trẻ ngây thơ, vô tội. Những đứa trẻ ngay cả trong cơn mơ cũng “thon thót giật mình” vì “tiếng súng dồn tựa sấm”, vì bóng giặc không buông tha cho bất cứ một ai dù là trẻ nhỏ. Tội ác của chúng đã in hằn vào mảnh đất quê hương, nhưng càng bị chà đạp thì nhân dân ta càng quyết tâm chiến đấu không nhụt ý chí:

“Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn”

“Bộ đội bên sông đã trở về” cùng nhân dân đứng lên chống giặc, mang lại bình yên cho quê hương, xoá hết “những giờ thảm thương” mà nhân dân phải gánh chịu. Cả quân và dân ta đã đoàn kết một lòng để quê hương sạch bóng dáng quân thù:

“Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa”

Mảnh đất Kinh Bắc sẽ trở lại trù phú, yên bình như vốn có và sự nổi dậy của quân ta đã khiến:

“Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo lên đống lửa”

Những câu thơ dài ngắn khác nhau khiến cho Nhịp thơ cũng trở nên dồn dập, hối hả diễn tả khí thế sục sôi chiến đấu của quê hương Kinh Bắc anh hùng. Trước hoàn cảnh đó, giặc “mất hồn”, “phát điên”. Chúng không thể ngờ rằng những con người nhỏ bé lại mang sức mạnh phi thường đến như vậy.

Những câu thơ cuối bài đã thể hiện một niềm mong ước thiết tha về một cuộc sống thanh bình, no ấm:

“Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”.

Hình ảnh cô gái xuất hiện với bộ yếm thắm thắt lụa hồng hiện lên thật đẹp. Người con gái Kinh Bắc đẹp một vẻ quyến rũ, thu hút trong “hội non sông”. Nhịp thơ nhanh bộc lộ sự hối hả, mong chờ ngày hòa bình để tác giả được thấy vẻ đẹp trong sáng, tươi tắn đó.

“Bên kia sông Đuống” đã thể hiện tình yêu quê hương mãnh liệt đồng thời cũng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của ông. Hoàng Cầm đã tái hiện những bi thương, mất mát của quê hương trong chiến tranh, qua đó cũng lên tiếng tố cáo tội ác của giặc. Câu hỏi ” Bây giờ tan tác về đâu”, “Bây giờ đi đâu về đâu” cùng sự thay đổi của nhịp thơ và các hình ảnh ẩn dụ, so sánh đã khắc sâu thêm nỗi đau, nỗi căm hờn của tác giả.

Có thể nói, bài thơ không chỉ là tiếng lòng riêng của Hoàng Cầm mà còn là tiếng lòng chung của những người con đất Kinh Bắc, những người con yêu nước.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 4

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

Mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”.

Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông. Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạn. Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt.

Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất.

Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.

Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng – biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ – biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
 Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.

Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ .

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.

Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội

Chúng ta không biết ngươi hờn

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.

Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội.

Em đi trẩy hội non sông

Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 5

Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ra ở Bắc Ninh – quê hương quan họ với những làn điệu dân ca ngọt ngào đằm thắm chính là suối nguồn nuôi dưỡng tâm hồn thơ ca của ông. Mảnh đất Kinh Bắc đã gợi thương gợi nhớ cho Hoàng Cầm, nó giống như một ám ảnh nghệ thuật trong thơ ông.

Đọc thơ ông, thấy hiện lên cảnh vật và con người Kinh Bắc – một vùng đất trù phú, hữu tình với biết bao di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo, biết bao những sinh hoạt, những truyền thống văn hoá lâu đời: Hội Gióng, hội Lim.. Bài thơ Bên kia sông Đuống là một kết tinh nghệ thuật tiêu biểu của nhà thơ.

Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống – một sinh thể hữu hình tiềm ẩn sức sống, văn hoá, tâm hồn Kinh Bắc, tạo cho bài thơ như một bản giao hưởng trầm hùng thấm đượm chất trữ tình, cảm hứng ấy được bộc lộ khá rõ ngay từ mở đầu bài thơ, khi người con của quê hương đứng ở “Bên này” nhìn về bên kia sông Đuống:

Em ơi buồn lòng chi
Anh đưa em về Bên kia sông Đuống

Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về. Hai câu thơ chủ yếu sử dụng toàn thanh bằng, tạo ra được độ mênh mang, dàn trải trong cảm xúc. Nó làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng người bao nỗi niềm bâng khuâng.

Tác giả trò chuyện tâm tình với người em gái Kinh Bắc hay cũng chính là giãi bày lòng mình, an ủi em cũng chính là an ủi mình, đó chỉ là cái cớ để bộc lộ cảm xúc của tác giả. Sông Đuống là điểm đến trong tâm tưởng của Hoàng Cầm. Ngay cả lời an ủi người em gái cũng hướng về dòng sông đầy kỉ niệm ấy.

Rõ ràng hình ảnh sông Đuống là một ám ảnh trong ký ức của Hoàng Cầm về quê hương Kinh Bắc. Sau khi giới thiệu, nhà thơ tiếp tục làm rõ bức tranh toàn cảnh của dòng sông này:

Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

“Ngày xưa cát trắng phẳng lì” giống như một câu thơ bản lề. Từ “ngày xưa” làm cho thời gian hiện tại như bị đẩy lùi về quá khứ, người ta ngỡ như bắt gặp đâu đó thế giới cổ tích huyền diệu. Câu thơ ắp đầy hoài niệm bâng khuâng. Hình ảnh Kinh Bắc thanh bình phẳng lặng còn được gợi tả khá tài tình qua “cát trắng phẳng lì” – chỉ cần gợi ra một chi tiết mà giúp người đọc nhận ra thần thái của cả bức tranh.

Ở đây, hình ảnh sông Đuống được miêu tả cụ thể, đẹp đẽ, sống động, nó giống như một chinh thể đẹp mà ở góc nhìn nào người ta cũng cảm nhận được và kiêu hãnh với vẻ đẹp của nó. Không những thế, sông Đuống còn được nhìn trong trạng thái động “Sông Đuống trôi đi” nhưng quan trọng hơn nữa, người đọc cảm nhận dòng chảy của nó, sự trôi chảy của dòng sông cũng chính là sự trôi chảy của thời gian lịch sử.

Nhà thơ còn sử dụng từ láy “lấp lánh” tạo ra sự lung linh, rực rỡ, mỹ lệ cho dòng sông. Trong cái lấp lánh ấy người đọc cảm nhận được ánh sáng của nó, lúc này đây dòng sông đã trở thành dòng ánh sáng, không những thế dường như chúng ta còn cảm thấy niềm tự hào kiêu hãnh của tác giả gửi gắm trong câu thơ này. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá là cho dòng sông có dáng “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”, sông Đuống giống như một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến của dân tộc.

Cái hay của câu thơ là ở từ “nghiêng nghiêng” – từ láy tạo hình chúng ta như cảm nhận được vóc dáng của dòng sông mềm mại uốn lượn và rất nhịp nhàng, gợi cảm. Có lẽ phải có cái dáng “nằm nghiêng nghiêng” ấy con sông mới như một sinh thể có hồn, có tâm trạng hơn, phải chăng vì thế mà có ý kiến cho rằng: hình ảnh sông Đuống trong cảm nhận của Hoàng Cầm được miêu tả như một người thiếu nữ trong nỗi niềm trăn trở, lo âu. Tiếp đó, hình ảnh một chốn quê thanh bình, một không gian yên ả đã hiện ra:

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc

Đây là những nét vẽ điển hình của làng quê Việt Nam, đây là bãi mía bờ dâu, kia là ngô khoai. Tất cả đều là những hình ảnh quen thuộc, bình dị đối với con người Việt Nam. Hoàng Cầm viết về những hình ảnh ấy bằng tất cả sự gắn bó và niềm yêu mến tha thiết. Bao trùm lên toàn bộ không gian là một mầu xanh nhưng với những sắc độ khác nhau, “xanh xanh”, “biêng biếc”.

Người đọc cảm nhận được nét trù phú tốt tươi, khoáng đạt, trong sáng của cảnh vật, chúng như ánh lên một sự sống mạnh mẽ. Bài thơ này được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương, mê mải với quá khứ thanh bình rồi ngỡ ngàng với nỗi đau ở hiện tại. Hai câu thơ tiếp theo như vỡ oà nước mắt:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên này – bên kia, một dòng sông chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh Bắc một bên là vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc “sao nhớ tiếc” “sao xót xa” ẩn chứa đầy tâm trạng đớn đau, mà nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ “sao” như xoáy vào lòng người đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khôn nguôi, xưa là thanh bình đẹp đẽ, nay là đau đớn chia lìa.

Ở đây nỗi đau đã lên đến tột cùng và được cụ thể hoá như là có thể cảm giác được quê hương như là một phần máu thịt, bởi thế quê hương bị chia cắt cũng giống như con người mất đi một phần cơ thể mình. “Như rụng bàn tay – một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản dị nhưng rất sâu sắc đã tiếp thêm tình yêu nỗi nhớ khôn nguôi của Hoàng Cầm đối với mảnh đất Kinh Bắc. Nỗi nhớ này là điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một điệp khúc giàu sức gợi hình tượng:

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Bằng những câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và điển hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng và hương vị. Lời giới thiệu “quê hương ta lúa nếp thơm nồng” hết sức mộc mạc, nó như một nét vẽ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh trong lòng người đọc về một quê hương thanh bình yên ả.

Những bức tranh Đông Hồ là hình ảnh đặc trưng của quê hương Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hoá tinh hoa của con người trên từng nét vẽ. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ do những nghệ sĩ dân gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát vọng trong sáng lãng mạn và không kém phần dí dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột, đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen… chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng chất liệu cỏ cây, hoa lá, đất cát quê hương.

Như vậy nét tươi trong của tranh Đông Hồ không chỉ gợi ra cái tươi tắn trong trẻo mà còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh khôi. Chữ “sáng bừng” được dùng khá độc đáo, nó không còn là tính từ mà đã được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ ánh sáng mà còn khẳng định sức sống kỳ diệu của dân tộc. “Màu dân tộc” trở thành một ẩn dụ độc đáo của Hoàng Cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ về bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Bởi quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim khói lửa, nhà thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với những hình ảnh đầy ấn tượng:

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Câu thơ đầu giống như câu thơ bản lề làm chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ. Tác giả gọi những ngày giặc xâm chiến là những ngày “khủng khiếp” cho thấy sự khốc liệt của chiến tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi tả sự khốc liệt này, hình ảnh “lửa hung tàn” gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thòi là tiếng nói tố cáo phê phán gay gắt chiến tranh.

Nếu ở khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn trải ổn định thì đến khổ thơ này những câu thơ ngôn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên tiếp chỉ tội ác chồng chất của kẻ thù cùng với niềm căm thù ngút tròi và nổi đau tột cùng của con người Từ láy “ngùn ngụt” không chi là từ gợi hình chi ngọn lửa mà chính là lòng căm thù của con người bị đốt cháy – những câu thơ của Hoàng Cầm rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm lên không gian là sự hoang tàn, vắng lạnh, xơ xác, không còn cái vẻ thanh bình, cái nét trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh tượng chia li chết chóc. Chữ kiệt cùng được dùng rất hay – không gian càng trở nên sâu thẳm, nỗi đau được biểu hiện tột cùng.

Điều đặc biệt là tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người nhưng dấu ấn về cuộc sống chia li hoang tàn vẫn được biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh nhũng con vật vô tri trong bức tranh Đông Hồ để nói về nỗi đau của con người, đây là một dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà thơ Hoàng Cầm. Đằng sau nỗi đau là hình ảnh quê hương Kinh Bắc với những phong tục tập quán, những hội hè, đình đám, được gợi nhắc lại hết sức sống động:

Ai về Bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thơi
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Ở đây ta bắt gặp một phong tục đẹp đẽ vùng Kinh Bắc. Tấm the đen gửi về may áo. Nó không chỉ là nét vẽ truyền thống mà con là hành động gửi thương gửi nhớ của con người, qua đó thể hiện niềm trân trọng yêu mến sâu sắc của tác giả với con người Kinh Bắc. Các địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, Lang Tài được gợi nhắc đã thể hiện niềm kiêu hãnh và tự hào sâu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp quê hương mình. Mặt khác các địa danh này lại đi liền với các từ có ý nghĩa định vị về mặt không gian là “trên”, “trong”, “giữa”.

Nhà thơ Hoàng Cầm đã mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn mênh mông, không gian của “mộng bình yên” đẹp đẽ, thơ mộng. Thêm nữa có một nét vẽ cổ điển của âm thanh tiếng chuông chùa văng vẳng lại như điểm nhịp cho cuộc sống yên ả, bình dị của Kinh Bắc. Hình ảnh con người Kinh Bắc được phác hoạ bằng những câu thơ cụ thể:

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt áo nâu

Chỉ bằng vài nét phác hoạ, Hoàng Cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền thống, những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, nhũng cụ già phúc hậu, những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng ở đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc của tác giả. Những nỗi ám ảnh trong Hoàng Cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc. Ông đã dùng những câu thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi tả họ:

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng

Chữ “Có nhớ” đặt ở đầu câu thơ là lời gợi nhắc đầy ám ảnh, hình ảnh “khuôn mặt búp sen” gợi tả khuôn mặt người con gái vừa đoan trang, trong trắng, phúc hậu vừa dịu dàng, và đây cũng là nét vẽ điển hình nhất của người con gái Kinh Bắc nói riêng và của người con gái Việt Nam nói chung.

Và gắn liền với hình ảnh “cô hàng xén ràng đen”, đây lại là một phong tục tập quán cổ truyền, một nét vẽ truyền thống người con gái Kinh Bắc. Cái hay nhất của đoạn thơ trên là biện pháp tu từ so sánh giữa nụ cười thiếu nữ Kinh Bắc với ánh nắng mùa thu. Dường như ở đây có một sự giao hoà giữa vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Nét rạng ngời tươi tắn trong nụ cười cô gái cũng giống với nét rạng ngời tươi tắn của nắng mùa thu chứ không phải cái nắng nóng bỏng gay gắt của mùa hè hay yếu ớt ảm đạm của mùa đông, nắng thu như toả trong nó một sức sống mạnh mẽ.

Đến đây người đọc như không còn thấy dấu tích của chiến tranh, bởi vậy câu thơ ẩn chứa một niềm tin tưởng lạc quan của con người. Một không gian Kinh Bắc nhộn nhịp, tấp nập được gợi tả qua một loạt những câu thơ tiếp, hình ảnh người người đông đúc trong một không khí tưng bừng náo nức đã khẳng định một sức sống mạnh mẽ của quê hương Kinh Bắc. Tình yêu quê hương Kinh Bắc tràn đầy trong những vần thơ. Trong hoài niệm của Hoàng Cầm về con người Kinh Bắc có hình ảnh người mẹ:

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm

Những câu thơ đậm màu sắc tả thực. Từ láy “còm cõi” đã diễn tả rất tinh tế vóc dáng khổ hạnh của người mẹ đồng thời chỉ rõ những vất vả, nhọc nhằn, lo toan mà người mẹ phải chịu đựng, trong lòng người đọc như dâng lên sự cảm thương sâu sắc. Gian hàng của người mẹ chẳng có gì, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp giấy đã hoen vàng. Các từ “dăm”, “vài” là các từ chỉ số nhiều nhưng trong cảm nhận của người đọc, người ta ngỡ như chỉ những thứ hàng hoá ít ỏi, sơ sài của người mẹ, chữ “hoen” được sử dụng rất hay, “hoen” không chỉ là sương thấm vào giấy mà như thấm cả giọt nước mắt, mồ hôi của mẹ. Đi liền với hình ảnh người mẹ là tội ác của kẻ thù:

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo

Tác giả gọi kẻ thù là “lũ quỷ mắt xanh” – một hình ảnh ẩn dụ chỉ tội ác tàn bạo và dã man của kẻ thù, từ láy “trừng trợn” không chỉ gợi dáng vẻ nạt nộ, doạ dẫm của kẻ thù mà con góp phần lột tả sống động chân dung của kẻ khát máu, quân cướp bóc. Không những thế, chữ “chợt” chỉ gót giày quân xâm lược đột ngột, bất ngờ, không gian thanh bình bỗng chốc bị phá vỡ.

Tác giả sử dụng những từ mạnh mang sắc thái biểu cảm cao “khua” “đạp”, “xì xồ”, “tan”, “gầy teo” diễn tả những hành động dã man liên tiếp của kẻ thù những tội ác chồng chất. Hình ảnh con người hàng xóm, quê hương như bị thu hẹp lai dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược. Qua đó ta thấy tội ác kẻ thù càng tăng, niềm căm thù càng trở nên mạnh mẽ, nỗi đau càng trở nên sâu thẳm. Tột cùng nỗi đau thương trong tâm hồn thi sĩ được đúc kết, gửi gắm qua hai câu thơ lục bát đầy xúc động:

Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vét máu loang chiều mùa đông

Không gian hoang sơ hiu quạnh được gọi tả với vài chiếc lá đa thưa thớt, một chiều mùa đông nhuộm đỏ: đỏ của mầu máu, đỏ của ráng chiều. Câu thơ có khả năng gây ấn tượng cực mạnh đối với người đọc. Câu lá đa lác đác trước lều” gợi âm điệu buồn tẻ, rời rạc, điểm nhịp cho không gian vắng vẻ, thưa thớt, hiu quạnh của làng quê Việt Nam trong những ngày tháng kẻ tù xâm lược các từ “vài ba”, loang được sử dụng rất đắt giúp người đọc cảm nhận được từng vết máu đang loang dần, từng chút từng chút vào cảnh vật cũng như vào con người. Mùa đông vốn ảm đạm, thời gian chiều mùa dông càng khắc sâu thêm sự ảm đạm ấy.

Câu thơ đã gọi tả sực khốc liệt của chiến tranh. Những vết máu của chiến tranh thấm đỏ khung trời hay ráng chiều nhuộm đỏ. Tất cả đều gợi sự bi thương tang tóc. Như vậy, hai câu thơ tả ít mà gợi nhiều, nó không chỉ đánh thức người đọc niềm căm thù sôi sục quân xâm lược mà con gợi dậy một nỗi đau khôn cùng. Câu thơ tràn ngập một màu máu và thấm đẫm nỗi khóc thương nhỏ lệ.

Không có cuộc sống gắn bó máu thịt vói quê hương, không tha thiết với vẻ đẹp tinh tuý của truyền thống quê hương thì nhà thơ Hoàng Cầm có lẽ không thể có những mẫn cảm kỳ diệu như vậy. Đọc những dòng thơ nhà thơ viết về Kinh Bắc, chúng ta lại bồi hồi liên tưởng đến quê hương mình và cảm ơn nhà thơ đã nói đúng phần hồn linh nghiêm nhất của chúng ta mỗi khi trào dâng cảm xúc hoài niệm về quê hương.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 6

Cùng với Tây Tiến của Quang Dũng, Đồng chí của Chính Hữu và Bên kia sông Đuống là những thành tựu quan trọng trong thời ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm này thể hiện một phẩm chất mới trong ca ca trữ tình cách mạng. nó kết hợp hài, nhuần thấm giữa tình cảm riêng tư và hiện thực lớn của cách mạng. Bài thơ Bên kia sông Đuống kết tinh những nghệ thuật của thơ của ông.

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Mở đầu bài thơ bằng tiếng gọi, một lời an ủi “em ơi buồn làm chi”, câu mở đầu bài thơ đến với nhà thơ như sự vô thức, tiềm thức, nhìn thấy quê hương bị tàn phá, đột nhà thơ như nghe được trong chính bản thân mình từ thôn xóm nào xa nghe vọng bài hát như than thở, như ru em, một giọng nữ trong trẻo nghe rõ mồn một nhưng lại nghe như lúc thời còn thơ dại, và nhà thơ đã cất lời an ủi “em ơi, buồn làm chi”.

“Em” trong thơ Hoàng Cầm thường gắn với những em Kinh Bắc xinh tươi, duyên dáng của ngày lễ hội và ở đoạn cuối của bài thơ thì em Kinh Bắc đó hiện ra rõ nét hơn. Bao giờ về bên kia sông Đuống, anh lại tìm em, em mặc áo yếm, em thắt lụa hồng, êm đi trẩy hội. “Em” ở trong bài thơ chính là hiện thân, hoá thân của quê hương, tác giả mượn em quê hương như một đối tượng trữ tình để bày tỏ tâm tình của mình với quê hương xứ sở. bài thơ thể hiện tình yêu quê hương nhưng nó tha thiết và trìu mến như chính người yêu của tác giả.

“Những người con gái luôn ở trong tiềm thức của tôi và là cảm hứng trực tiếp cho những bài thơ,… mà cái đa tình ở đây đâu đơn thuần là tình yêu đôi lứa, tôi còn dành cái tình yêu ấy cho nơi mình sinh ra” nhà thơ Hoàng Cầm từng chia sẻ như vậy.

“Anh đưa em về sông Đuống” chỉ là hành trình trong hoài niệm, trong không gian tâm tưởng dòng sông quê hương đã hiện ra với vẻ đẹp bình yên “bờ cát trắng phẳng lì” nhưng đó chỉ là vẻ đẹp của “ngày xưa” thôi còn bây giờ bị tàn phá đi nhiều rồi.

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Tác giả miêu tả con sông thật sống động và như có tâm hồn vậy “cái dòng sông Đuống nghiêng nghiêng đó đã gắn bó với tôi từ những năm lên 8, 9 tuổi và khi tôi xa Kinh Bắc chứng kiến hình ảnh những người phụ nữ trăn trở, suy nghĩ về số phận của mình thì cái dáng nằm nghiêng nghiêng ấy cũng là dáng vẻ suy tư số phận dân tộc”. Sông Đuống giống như một sinh thể có hồn, ôm ấp lấy quê hương.

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Từ láy “xanh xanh” “biêng biếc”, các điệp từ để nhấn mạnh sự trù phú, tươi đẹp của quê hương, nhưng ở câu cuối của khổ thơ “Sao xót xa như rụng bàn tay” đê nói lên sự đau đớn, chia lìa.
Mỗi khổ thơ là những hoài niệm về cái gì thân thương nhất của quê hương đồng thời cũng là dòng “chép tội” của giặc mai mãi “không nguôi hờn”. Quê hương Kinh Bắc vói lúa nếp Làng Vân, tranh Đông Hồ, thể hiện cuộc sống tươi đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần, tranh dân gian là đề tài quen thuộc, lấy những gì thân thuộc nhất để vẽ.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Hoàng Cầm nhà thơ của đất Kinh Bắc, nhà thơ đã phất cánh diều thơ của mình từ cánh diều thơ văn học, văn hoá Kinh Bắc, Bên kia sông Đuống là một hình tượng tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Phần mở đầu là cái nhìn toàn cảnh và cảm xúc khái quát về bên kia sông Đuống.

Còn độn hai của bài thơ thể hiện cảnh quê hương bị tàn phá do bom đạn, do chiến tranh, không còn cái yên bình, thơ mộng như ngày nào mà thay vào đó là cảnh quê hương bị bọn giặc phá hoại, chỉ nhìn thôi người ta cũng đủ đau xót.

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Hình ảnh quê hương tươi đẹp trong quá khứ thanh bình, gợi lên tình cảm yêu thương tiếc nuối bao nhiêu thì hình ảnh kẻ thù man rợ lại làm sục sôi căm giận bấy nhiêu. Những câu thơ trên lột tả những hành động thú tính, tàn bạo. Ta đã thấy được sự tương phản ở phần đầu của bài thơ, đó là quê hương với nếp vàng thơm, với tranh đồng hồ đặc trưng, thì giơ đây lại nhuốm màu tang tóc, màu của mất mát và đau thương, một đồng quê, một làng quê yên bình, nên thơ giờ đây lại trở thành đồng cháy.

Từ một bức tranh đời sống chân thực, sinh động, có bà lam lũ vất vả, có con thơ ham trò chơi, vẫn tung tăng với những trò nghịch phá thì giờ đây lại trở thành một vùng đất “tâm linh” giữa cái thực và ảo.

“Vùng tâm linh đó không phải cái gì xa với mà là những kỉ niệm sâu lắng nhất. Nó quen thuộc và thân quen với mình trong những năm tháng thơ ấu và đến lúc đó nó nhập vào mình như vô thức nhưng lại rất thực”.

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Quê hương Kinh Bắc với những chùa cổ kính và trang nghiêm cùng với những lễ hội đình làng có từ bao nhiêu đời. tác giả đã vẽ nên một bức tranh hội hè đông vui, có nam phụ lão ấu, sắc môi đỏ tươi, tóc trắng phơi phới, màu nâu tươi mới, nét duyên dáng, đằm thắm, vẻ thanh thản, an nhiên với dáng xúng xắng, tung tăng.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Kinh Bắc hiện lên với người con yêu dấu của quê hương. Những người con gái thì tảo tần, vén khéo như hiện thân của quê hương những nét chấm phá khi nói về những người con gái thì có tài hoa, xinh đẹp, khéo léo, một vẻ đẹp vừa mộc mạc, thanh cao, vừa duyên dáng vùa dịu dàng. Cuộc sống làm ăn, buôn bán diễn ra một cách sôi nổi, sầm uất và nhộn nhịp “Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen”.

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Hình ảnh những người mẹ Kinh Bắc hiện lên thật đáng trân trọng, người mẹ ấy đã tảo tần, lam lũ, dựa vào gánh hàng rong để mưu sinh, lo cho từng bữa ăn hàng ngày. Vì thế những vần thơ mà nhà thơ viết về mẹ thật trĩu nặng và thương cảm. những cảnh ấy dường như đã quá quen với tác giả với mọi người, dù vất vả thế nhưng cuộc sống vẫn diễn ra một cách êm đềm và bình yên trong tình yêu thương của mẹ và của gia đình, của quê hương.

Rồi đột nhiên trong cái cảnh đấy, con người như thế, cảnh vật như thế mà sao bọn giặc tàn ác nó lại khiến quê hương thật xơ xác, thật thương cảm bao nhiêu, dường như sự chết chóc diễn ra hàng ngay, hàng giờ trên chia cái mảnh đất gắn bó cả tuổi thơ của tác giả vào đây. Qua đây để ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh, một cuộc chiến phi nghĩa mà bọn thực dân pháp đang tiến hành trên đất nước ta.

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Những hình ảnh của em bé thật tội nghiệp, “ngày tranh nhau bát cháo ngô, đêm đen thì phải chui vào gầm giường để tránh đạn”. Đứng trước hoàn cảnh đó thì tác giả đã vẽ nên, hình dung về một cuộc chiến đấu giải phóng quê hương, đất nước. Và rồi chúng ta đã dành chiến thắng và chiến thắng đó thật lộng lẫy.

Bài thơ thể hiện một cách chân thành, xúc động cái tình cảm và niềm xót thương của tác giả đối với quê hương. Nhà thơ đã gắn bó thiết tha với cái mảnh đất ông cha, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và gắn bó mật thiết với những con người nơi đây.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 7

Nhắc đến Kinh Bắc là nhắc đến vùng đất cổ của người Việt với nhiều giá trị văn hóa truyền thống quý báu. Sinh ra, lớn lên trên quê hương đó, hồn thơ Hoàng cầm đã gắn bó máu thịt với từng cảnh vật, con người, từng nét văn hoá tinh thần ông cha để lại. Để rồi bao yêu thương, nâng niu, say mê đã kết đọng nên một Bên kia sông Đuống mà “mỗi vần thơ dòng dòng cảm xúc” (Trần Đăng Suyền).

Sinh ra và lớn lên giữa vùng Bắc Ninh đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, nhà thơ Hoàng Cầm gắn bó và yêu thương vùng đất ấy vô cùng. Thế nên khi hay tin giặc Pháp chiếm phía nam Bắc Ninh, Hoàng cầm không khỏi xúc động, đau đớn. Chính trong nguồn cẩm hứng ấy, chỉ trong một đêm, bài thơ Bên kia sông Đuống ra đời, chứa đựng bao nhiêu tình cảm của nhà thơ. Mở đầu bài thơ, Hoàng Cầm viết:

Em ơi buồn làm chi
Sao xót xa như rụng bàn tay.

Những câu thơ đã mở ra một vùng không gian đẫm đầy nỗi thương tha thiết, đủ sức lôi cuốn, thúc giục người đọc. Theo lời kể của tác giả, 3 câu đầu của bài thơ Bên kia sông Đuống được ra đời một cách kỳ lạ trong đêm nhà thơ nghe kể về tình hình quê hương: Tâm trí tôi dần tĩnh lại trong cái im ăng đến nghe rõ cả tiếng một con muỗi vo ve đâu đó. Đột nhiên, như từ xóm nào xa, vang vọng ngay bên tai tôi một giọng như hát, như than thở, như ru em, một giọng phụ nữ trong trẻo nghe mồn một, nhưng lại nghe tự lúc tôi còn thơ đại.

Bài thơ được bắt đầu như thế với ba dòng như rót từ cõi xa xăm nào xuống. Quả thực, đó là những câu thơ rất lạ, vừa thoảng chút ai oán, vừa thoảng chút yên ủi, vỗ về:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Hình ảnh đầu tiên xuất hiện với gọi tha thiết là nhân vật trữ tình em. Em là ai? Có lẽ chỉ nên xem là một nhân vật phiếm chỉ mà nhà thơ cần đến để giãi bày tâm sự, tìm sự đồng cảm, hoặc cũng có thể nhân vật phân thân của chính tác giả. Hình ảnh cát trắng phẳng lì chợt hiện ra làm nhẹ lòng người, gợi nỗi tiếc nhớ cái ngày xưa êm ả, thanh bình, khơi đúng nguồn mạch trữ tình để người viết nhập vào quá khứ.Hình ảnh đầu tiên hiện ra trong nỗi nhớ nhà thơ vẫn là con sóng Đuống:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Sông Đuống dưới ngòi bút của nhà thơ hiện lên rất mực trữ tình. Mỗi câu thơ như muốn ghi lại sắc thái của nó trôi đi, lấp lánh, nghiêng nghiêng. Những từ này trong trạng thái hoạt động, đặc biệt nét nghiêng nghiêng khiến dòng sông như một sinh.thể có hồn, thân thiết, đáng yêu. Dòng sông như một sinh linh của Kinh Bắc để chia sẻ mọi vui buồn của người đời. Còn với nhà thơ, chủ thể trữ tình trong tác phẩm, sông Đuống là dòng ký ức. Tuy có lúc phải xa con sông quê, nhưng dòng ký ức ấy vẫn chảy mãi trong tâm hồn.Trong quá khứ, là những hình ảnh đẹp gợi lên từ một làng quê trù phú, giàu sức sống:

Xanh xanh bãi mía nương dâu

Ngô khoai biêng biếc

Hai dòng thơ nhưng cấu trúc đảo ngược nhau. Sự đảo ngược ấy có thể là ngẫu nhiên theo dòng cảm xúc của tác giả song lại tạo ra hiệu quả nghệ thuật bất ngờ: hình ảnh đầu tiên mà người ta bắt gặp là cái màu xanh xanh đến ngút ngàn của bãi mía nương dâu, rồi sự đọng lại của vẻ biêng biếc ngô khoai. Một đằng tác động vào thị giác, một đằng vào cảm giác. Còn hiện tại lại là nỗi xót xa:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

Hai dòng thơ, hai câu hỏi nhưng là một tâm trạng. Nỗi lòng ấy đang điệp trùng bao nỗi, từ nhớ tiếc lẫn xót xa. Nhà thơ không nói nhớ tiếc hay xót xa điều gì, có bãi mía, nương dâu, có ngô khoai biêng biếc, nhưng có tất cả những gì của quê hương, là quê hương.

Điệp từ sao (sao nhớ tiếc, sao xót xa) như những câu hỏi làm nhức nhối lòng người. Nghệ thuật so sánh có sức gợi cảm, một là lấy nỗi đau tinh thần so sánh với nỗi đau thể xác khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau cụ thể. Hai là, coi quê hương như một phần cơ thể. Quê hương bị giặc giày xéo đau đớn như một phần cơ thể bị mất.

“Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu”

Ai đó đã nói thơ là sự chín đỏ của cảm xúc. Với Hoàng cầm, ngọn lửa tình yêu Kinh Bắc âm ỉ, mãnh liệt đến nỗi chỉ một tàn tro cũng đủ làm nó bùng lên. Khai đoạn là bốn chữ “bên kia sông Đuống” vừa gợi nhắc không gian xa cách, vừa gợi nhắc thời gian quá khứ. Tự nó đứng thành một câu, buông một nỗi khắc khoải, đau đáu lạ kì.

Hướng về bẽn kia sông Đuống, điều trước tiên Hoàng cầm nhớ tới là những giá trị văn hoá lâu đời – thứ làm nên diện mạo tinh thần cho xứ sở Kinh Bắc. Dòng hoài niệm của tác giả xuôi về với từng mùi hương, từng nét vẽ, từng sắc giấy… Kinh Bấc được ngòi bút nhà thơ lần lượt tái hiện bằng hương lúa nếp và những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng. Một thứ biểu trưng cho đời sống vật chất đủ đầy, một thứ biểu trưng cho đời sống tinh thần lành mạnh.

Những tính từ “thơm nồng”, “tươi trong”, “sáng bừng” vừa mang lại hương sắc, vừa mang lại màu sắc cho bức tranh quê hương. Khó có thể diễn tả lại những gì được gợi nên từ chúng. Chỉ có thể cảm nhận được thần thái của bức tranh đó khi lí đặt ra câu hỏi: Sao Hoàng cầm không viết “thơm ngát” như Nguyễn Đình Thi viết “những cánh đồng thơm mát”? Sao Hoàng cầm khổng viết “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi tắn”, “Màu dân tộc sáng chói trên giấy điệp”? Đấy là chưa nói đến sự tinh tế khi tác giả sử dụng biện pháp ẩn dụ “màu dân tộc”.

Bốn câu thơ thấm đậm chất dân gian, gợi chất liệu, đề tài, tư tưởng, phong cách nhân dân, màu sắc dân tộc (Trần Đăng Suyền). Một Kinh Bắc đẹp đến nao lòng đang hiện về bàng bạc trong kí ức nhà thơ. Đoạn thơ mang âm hưởng hồ hởi, tha thiết, diễn tả niềm say sưa của Hoàng Cầm với sắc màu, điệu sông yên ả, hồn hậu của quê hương.

Ba tiếng “quê hương ta” không giấu được niềm tự hào của người con đất Kinh Bắc. Nhưng càng tự hào, càng hãnh diện về quê hương bao nhiêu, nhà thơ càng đau đớn, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương tươi đẹp đang bị giặc giày xéo bấy nhiêu. Kinh Bắc thanh bình phút chốc chìm ngập trong khói lửa chiến tranh. Chỉ với vài câu thơ ngòi bút thi nhân đã bao quát toàn bộ cảnh tượng quê hương bị huỷ diệt:

“Ruộng ta khô

Nhà ta cháy”

“Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”

Cuộc sống nhân dân bị quân giặc tróc nã từ miếng ruộng mưu sinh đến nơi trú ngụ. Tác giả không ngại ngần vạch trần, lên án gay gắt sự bạo tàn của quân thù:

“Giặc kéo lèn ngùn ngụt lửa hung tàn”

“Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu”

Trong lời tuyên cáo, Hoàng Cầm đã hơn một lần sử dụng nghệ thuật ẩn dụ. Hình ảnh “ngọn lửa hung tàn” và “chó ngộ” đặc tả sự hung bạo, dã man, điên dại của lũ cướp nước. Sắc đỏ của lửa và máu chính là sắc màu tội ác của bầy hám mồi. Nó đối lập hoàn toàn với “nét tươi trong” của bức tranh quê hương bên trên. Nhịp thơ ngăn dài đan xen như cuộn lên bao uất ức, sôi lên bao căm phẫn.Trong những đau thương, mất mát, Hoàng cầm nhấn mạnh hơn cả vào sự tan tác, chia lìa:

“Mẹ con đàn lạn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu”

Thật khó để phân định thực và ảo ở đoạn thơ này. Bóng dáng cuộc đời thực đang lồng vào trong chính những bức tranh Đông Hồ hay những bức tranh đang sống dậy để cùng chịu sự truy bức với cả dân tộc? Mượn thế giới nghệ thuật trong tranh, Hoàng Cầm đã diễn tả thành công cảnh tượng thật ngoài đời.

Tranh Đông Hồ không chỉ là những bức hình mang chứa vẻ đẹp quê hương Kinh Bắc mà trong nó còn cất giữ hương hồn con người, dân tộc Việt Nam. Tranh Đông Hồ có rất nhiều nội dung, nhưng Hoàng Cầm lại cố ý lựa chọn hai bức Mẹ con đàn lợn âm dương và Đám cưới chuột để xoáy thật sâu vào bi kịch chìa lìa. Hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi bị giày xéo, chà đạp phũ phàng.

Những từ láy “chìa lìa”, “tan tấc” đã khắc hoạ rõ nét cảnh tượng thương tâm này. Những câu thơ tuôn trào như tiêhg nấc nghẹn hoang mang không kìm giữ nổi. Câu thơ cuối cùng là câu hỏi, gieo lời hỏi nhưng thực chất lại bộc lộ sâu sắc nỗi xót xa đến ngẩn ngơ.

“Cười như màu thu tỏa nắng”

“Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Nhà thơ đã khẳng định tài năng miêu tả theo lốì chấm phá của mình, vẫn là tái hiện vẻ đẹp con người qua ánh sáng mùa thu tình tứ, lại có nét cười trong ánh sáng mùa xuân trẻ trung tươi tắn, căng tròn sức sống. Nếu không phải là một hồn thơ đặc biệt nhạy cảm với vẻ đẹp cuộc sống, con người thì không thể nắm bắt được những vẻ đẹp ấy và miêu tả một cách tinh thế như vậy.

Ngôn ngữ thơ chưa hẳn đã mởi lạ bởi người đọc đã từng gặp “mùa xuân xanh” trong câu thơ Nguyễn Bính “mùa xuân chín” trong thơ Hàn Mặc Tử… Song sức hấp dẫn của câu thơ ở chỗ hai chữ “xuân xanh” khép lại thi phẩm gợi mở cho người đọc nhiều liên tưởng. Những ấn tượng đầu tiên thật bình yên, thanh thản và đầy tin tưởng. Bởi thế âm điệu thơ, nhịp điệu thơ không còn dồn bức, căng thẳng ngột ngạt như những đoạn thơ trước mà bỗng nhiên thư thái êm đềm, nhẹ nhàng lan tỏa.

Đoạn thơ sáu dòng thì bốn dòng thơ giữa rất ngắn, gợi được cái âm điệu tưng bừng náo nức trong bước chân, trong ánh mắt, trong nét cười của con người. Dòng đầu và dòng cuối kéo dài không ngắt nhịp như cảm giác hạnh phúc ngập tràn.

Qua ”Bên kia sông Đuống”, Hoàng Cầm đã thể hiện một tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước. Tình càm dạt đào ấy hóa thân vào những dòng cảm xúc và tâm trạng đan xen nhau không ngớt: khi tự hào khi về truyền thống, hình ảnh quê hương, khi uất nghẹn, căm hờn trước sự tàn phá của quân giặc. Đọc “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, cảm xúc của người đọc cũng dặt dìu đồng cảm với nhà thơ. Gấp lại trang thơ, lòng ta cũng chợt “nghiêng nghiêng” về một miền “Bên kia sông Đuống” của riêng mình.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 8

Đất nước – với những hàng tre xanh, những cánh đồng lúa, những con đường, nơi mà chúng ta sinh ra và lớn lên, nơi chúng ta đã bảo vệ đến hơi thở cuối cùng để giữ lấy từng tấc đất, không quản “sáng ngăn bão dông, chiều ngăn nắng lửa”, nơi đó mãi mãi là niềm tự hào vô biên, mãi mãi là nguồn thơ không bao giờ cạn.

Nghĩ về đất nước, có biết bao nhà thơ đã từng xúc động nghẹn ngào, khi bình yên, họ nghe lòng rộn ràng với niềm vui xây dựng quê hương mình; khi giặc đến, họ đau đớn, xót thương quê hương bị gót giày xâm lược tàn phá, lại căm giận lũ giặc bạo tàn. Những tình cảm yêu thương, căm giận như những đợt sóng ào ào lớn lên thành một dòng cảm hứng mạnh mẽ bật lên thành thơ. Đó là bài Bên kia sông Đuống của nhà thơ Hoàng Cầm.

Bài thơ Bên kia sông Đuống đưa ta về sống với hiện thực đau thương của vùng Kinh Bắc, quê hương của thi sĩ trong những ngày mưa bom bão đạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ cổ chí kim, đã có bao nhiêu bài thơ thể hiện cảm hứng về quê hương đất nước, đó là Thăng Long thành hoài cổ với nỗi đau khắc sâu muôn kiếp: Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương. Là sự khẳng định sự trường tồn của đất nước Việt Nam trong Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt là nét màu đỏ thắm của sự hi sinh cao cả vì tự do dân tộc trong Cuộc chia li màu đỏ của Nguyễn Mỹ…

Tất cả những cám hứng yêu nước ấy đều xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương đất nước cúa nhà thơ, từ truyền trống “lưng đeo gươm, tay mài bút lửa” của dân tộc: Trong từng hoàn cảnh, ở mỗi thời đại, nhà thơ lại tìm cho mình một cách biểu hiện riêng.Khác với những bậc tiền bối xa xưa, Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống với một tình yêu mãnh liệt, một tình yêu đã được một sự kiện làm cho bùng cháy: khi ông nghe tin giặc đánh phá quê hương mình.

Cái dồn nén của tình cảm vỡ ra thành những dòng chữ nghẹn ngào thấm máu và nước mắt, những dòng chữ như cắt ra từ trái tim nhà thơ với bao nhiêu xúc động mạnh mẽ, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu tình yêu, trân trọng, nâng niu, bao nhiêu nuối tiếc, nhớ nhung, bao nhiêu xót xa, cãm uất trào ra từ đầu ngọn bút. Đó phải chăng là cảm hứng lớn để ông viết lên những dòng thơ có sức lay động ghê gớm lòng người?

“Thơ chỉ tràn trong tim ta khi cuộc sống đã tràn dầy”. Thơ Hoàng Cầm đã tràn ra khi những yêu thương căm uất trong lòng nhà thơ đã lên tới đỉnh điểm.

Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về bên kia sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì.

Nỗi đau ấy bật lên khi nghe tin quê hương bị giặc tàn phá khiến cho nhà thơ nức nở bởi bao nhiêu tình cảm ngổn ngang lẫn lộn. Và khi đã tỉnh lại, nhà thơ nghe như đâu đây xa xôi trong tiềm thức giấc mơ hi vọng vì tiếng hát dân ca vùng Kinh Bắc và những câu thơ đầu tiên đã tuôn trào. Hoàng Cầm đưa ta nhớ lại “ngày xưa” – những ngày của vùng Kinh Bắc yên bình, ấm no, hạnh phúc, với tấm lòng hoài niệm xót xa, nuối tiếc với những câu thơ khắc khoải nỗi niềm. Cái cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương là niềm tự hào ngân nga trong từng câu chữ:

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì.

Bên này, bên kia – sao mà đau xót! Một dòng sông mà hai khoảng trời ngăn cách

– Bên kia sông Đuống,

“Ngô khoai biêng biếc”, “xanh xanh bãi mía bờ dâu” vậy mà chiến tranh đã nổ ra những câu thơ thật đẹp nhưng đọc lên mà đau đớn:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay.

Hình ảnh “sao như rụng bàn tay” là nỗi đau được cụ thể hóa, nỗi đau của chết chóc, chia lìa. Mấy câu đầu bài thơ đã nói lên hai luồng cảm hứng chủ đạo sẽ xuyên suốt bài thơ.

Bên kia sông Đuống, đó là: yêu thương, nuối tiếc và đau đớn, căm uất. Những câu thơ nhói giữa tim ta và tan ra trong một biển tình cảm mênh mông. Mấy đoạn thơ kế tiếp nhau với một cảm hứng hoài miệm tự hào đã dựng lên trước mắt ta một vùng quê, một Kinh Bắc với những nét đẹp của truyền thống văn hóa với sự cổ kính ngàn đời, vùng quê Kinh Bắc với nỗi đau bị tàn phá lại càng nhân lên trong lòng nhà thơ những tình cảm gắn bó, yêu quê mặn mà, sâu sắc.

Nếu ở phần đầu, Hoàng Cầm hay nhắc đến những hình ảnh bình yên, thơ mộng của vùng quê trù phú vùng quan họ thì đến phần sau, ông lại hoài nhớ về những nét văn hóa của vùng quê Kinh Bắc, những nét truyền thống đặc sắc, bắt rễ sâu kín trong tâm hồn ông.

Phải chăng, khi nhớ về đất nước, đầu tiên đã nghĩ đến “giọt đàn bầu” “xoa dịu nỗi đau của mẹ” và sau đó mới nhớ đến mình là vì vậy? Nỗi nhớ đầu tiên phải là nỗi nhớ tới hương vị quê hương Việt Nam: đó là lúa nếp thơm nồng, là tranh Đông Hồ nét bút tươi trong, là tấm the đen may ác mẹ già, là hội hè đình đám, là bến chợ người dâng tơ nghẽn lối… tất cả mang màu sắc dân tộc rõ nét, rất đỗi tự hào.

Rất tự nhiên, tác giả lồng hình ảnh quê hương vào trong hình ảnh những truyền thông văn hóa, những hình ảnh con người xứ Kinh Bắc duyên dáng, dễ thương, những cô hàng xén răng đen, cắn chỉ môi trầu, những cụ bà tóc trắng, những khuôn mặt búp sen, “cười như mùa thu tỏa nắng”

Dưới ngòi bút nhớ thương, trân trọng của Hoàng Cầm, lại nhiều hình ảnh về con người và xứ sở Kinh Bắc hiện lên duyên dáng đến kì ảo, thơ mộng đến ngọt ngào và không chỉ là nét thơ mà trở thành nét họa. Ta yêu sao những khuôn mặt của thiếu nữ ngây thơ trong trắng, kiều diễm ẩn dưới những chiếc khăn trùm đầu, như những búp sen, ta yêu sao cái cười trong sáng, hồn nhiên, trẻ trung như “mùa thu tỏa nắng”! Xứ sở Kinh Bắc đẹp đến thế, say đắm lòng người đến thế! Đúng là nét họa “màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”!

Vừa nhớ về những ngày thanh bình xưa kia, đau đớn với cái hiện thực phũ phàng, tan nát lòng người, Hoàng Cầm đã đưa ta sống trong bể căm hờn ngùn ngụt của ông, ngày giặc tới. Có thể nói cảm ứng yêu thương đã đan vào cảm hứng căm uất khiến cho mỗi lời thơ có sức cuốn hút mãnh liệt; nhà thơ lặp đi lặp lại:

“bên kia sông Đuống, Ai về bên kia sông Đuống” những câu hỏi như có những tiếng vọng vang vào lòng người, có nỗi đau xót của đứa con xa quê hương về quê mẹ.

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy.

Ai đã từng lớn lên từ những vùng quê “xanh xanh bãi mía bờ dâu”, “ngô khoai biêng biếc” thì mới thấy đau đớn trước màu xám xịt, toàn khói ngút trời của vùng Kinh Bắc. Đau xót biết bao khi những làn dân ca quan họ bị át đi và ruộng khoai biêng biếc cũng cháy khô với bom đạn chiến tranh – công sức, mồ hôi nước mắt người lao động cháy theo ngô khoai.

Tác giả chọn những hình ảnh đặc trưng của vùng quê Kinh Bắc với sự chia lìa, ngăn cách: “mẹ con đàn lợn âm dương”, “đám cưới chuột”, gửi tấm the đen không biết may áo cho ai… Những điệp khúc lại được nhắc đi nhắc lại: “Bây giờ tan tác về đâu” đầy nhức nhối thương đau.

Dùng thủ pháp tương phản, tác giả đã tạo nên sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, xưa và nay để nỗi đau càng thêm giằng xé, để yêu thương càng mãnh liệt và nhờ thế, căm hận cũng ngút trời, căm hận “lũ quỷ mắt xanh trừng trợn, đạp gãy quán gầy teo” thương mẹ già “Bước cao thấp trên bờ tre hun hút”. Một hình loang trước mắt ta báo hiệu sự chết chóc, sự thảm khốc của chiến tranh:

Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mùa đông.

Cái vết máu loang ấy đập vào mắt ta với lòng căm hờn tột độ. Vết máu ấy của ai? Đó là máu của những khuôn mặt búp sen “Nhừng em thơ sột soạt quần nâu”, những mẹ, những cụ già, những con người của xứ sở Kinh Bắc! Đau đớn bao nhiêu! Căm giận bấy nhiêu! Cả một đoạn thơ dài tuôn trào lai láng những xúc cảm mãnh liệt. Bao trùm những cung bậc tình cảm thiết tha, sâu lắng về nỗi đau quê hương bị giặc tàn phá, tàn phá những truyền thống văn hóa cổ truyền, đảo lộn tất cả những sinh hoạt bình dị của con người Kinh Bắc.

Phải chăng, cái đau của “đàn lợn âm dương chia lìa đôi ngã”, của đám cưới chuột tan tác trên bức tranh Đông Hồ xưa đã thôi thúc những người con của quê hương cầm lấy súng:

Bộ đội bên sông đã trở về

Con đến giờ xuất kích

Trại giặc bắt đầu rung trong sương.

Cái khát khao muốn giữ gìn sự sum họp của đám cưới chuột, của đàn lợn âm dương, giữ gìn quê hương nghìn năm văn hiến, giữ gìn truyẻn thống nghìn đời của dân tộc phải trả lời bằng tiếng súng giết giặc ngoại xâm… Ta phải chiến đấu để giành lại cho ta tất cả.

Khi quê hương có bóng giặc thù là lúc ấy ta hiểu con người đúng nhất. Ta sẵn sàng đứng lên cầm súng đuổi giặc, mặc dù có thể đổ máu mình để được độc lập tự do, Hoàng Cầm ước mơ một ngày:

Sông Đuống cuồn cuộn trôi

Để nó cuốn phăng ra biển

Bao nhiêu đồn giặc tơi bời

Bao nhiêu nước mắt

Bao nhiêu mồ hôi

Bao nhiêu bóng tối

Bao nhiêu nỗi đời…Thì ta lại “về Bên kia sông Đuống”. Một ước mơ chân thành và giản dị như người Kinh Bắc nhưng đau đáu một nỗi niềm và lấp lánh niềm tin vào sự thắng lợi của dân tộc với kẻ thù hung bạo nhất. Tình yêu đất nước của Hoàng Cầm là luồng ánh sáng của niềm tin và hi vọng – ta phải chiến thắng, phải được trở về bên kia sông Đuống, tìm em, em lại thắt lụa hồng, mặc yếm thắm như những cô gái Kinh Bắc ngày xưa cùng “trẩy hội non sông”:

Bài thơ Bên kia sông Đuống khép lại trong nụ cười cô gái Kinh Bắc duyên dáng “Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” nhưng lại mở ra bằng chân trời của mơ ước, của niềm tin yêu mãnh liệt.

Cảm hứng, đối với thơ còn mạnh hơn nhiều, đôi khi là “thần hứng” (Platôn). Cảm hứng của bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm là tình cảm bật ra từ trái tim yêu quê hương đất nước mặn nồng, tha thiết, một tình cảm lắng đọng, trào lên mãnh liệt, nó không có nét hoài cổ như trong Thăng Long thành hoài cổ, cũng không có cái đau rõ ràng trước mắt, rõ như Quê hương của Giang Nam; nó là sự đan cài, xen lẫn của quá khứ và hiện tại, của nhớ nhung và nuối tiếc, của yêu thương và căm giận, nó bàng bạc như huyền thoại, nó tuôn ra như thác lũ với những điệp từ, điệp ngữ dội vào lòng ta đau nhói… “đi đâu, về đầu”.

Đất nước luôn là thi hứng, là đề tài muôn thưở của nhà thơ. Nhưng mỗi khi có những sự kiện vĩ đại, cảm hứng ấy vụt lớn lên và nhờ thế sẽ biến tác phẩm của nhà thơ thành những kiệt tác. Ta đừng để cho thơ thành ngẫu hứng; thần hứng khởi nguồn tự đáy lòng mình, là tiếng nói bay cao, vút lên từ nhịp tim xúc động đập gấp gáp, từ con tim đã tràn đầy tình yêu.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 9

Khi phân tích soạn bài Bên kia sống Đuống, chúng ta sẽ thấy từng dòng cảm xúc cứ hiện ra, vơi đầy như chính cõi lòng của thi nhân khi hướng về mảnh đất yêu dấu của mình. Lắng lòng biết bao nhiêu…

“Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống”

Đại từ phiếm chỉ “em” được nhà thơ sử dụng thật tự nhiên và tinh tế biết bao. Chỉ đôi lời thơ nhẹ nhàng mà nghe sao lắng sâu đến vậy. Phải chăng việc sử dụng đại từ “em” cũng chỉ là cái cớ để thi nhân bộc lộ nỗi lòng mình một cách chân thành nhất. Lời an ủi ấy thực chất chỉ ra hoài niệm của Hoàng Cầm.

Trong những hồi ức ấy, hình ảnh con sông Đuống hiện lên thật quen thuộc. Một bờ cát dài phằng lì với cái dáng nghiêng nghiêng thật quen thuộc. Bên kia sống Đuống được khơi nguồn và mở ra bằng chính những cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú. Cái dáng nghiêng nghiêng ấy là một sáng tạo độc đáo đấy ấn tượng trong nghệ thuật thơ ca của Hoàng Cầm. Không gian và thời gian, ám ảnh mãi không thôi.

Một hành trình dài trong tâm tưởng được mở ra với biết bao hình ảnh chân thực. Con sông hiện lên trong niềm nhớ của nhà thơ thật đẹp xiết bao với đôi bờ kì ảo, với sắc sáng trắng tinh khôi “một dòng lấp lánh”. Ở bên kia sông Đuống – là bên này và bên kia – đan xen nhau trong sự hiện diện kí ức của nhà thơ về khoảng cách không thể nào vượt qua.

Trong tâm trí của của người đọc bỗng hiện lên một dòng sông thơ mộng của ánh sáng. Đó cũng chính là hình ảnh thân quen về một quê hương yên bình, no ấm và trù phú. Kinh Bắc, Luy Lâu vốn là cái nôi văn hóa lâu đời của vùng đồng bằng Bắc Bộ, là quê hương của những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng, là xứ sở của trống đồng Đại Bái…

Hơi thở của từng câu thơ hiện lên bằng câu hỏi âm vang đầy nhức nhối.“Sao xót xa như rụng bàn tay” hình ảnh so sánh đã cụ thể hóa nỗi đau của tác giả như chính một phần cơ thể mình bị chia cắt vậy. Sao không xót xa được khi quê hương chôn rau cắt rốn của mình đang ngập trong khói đạn. Với âm hưởng day dứt cùng với câu hỏi tu từ như một dấu ấn dai dẳng trong tâm tưởng của chủ thể trữ tình trong đoạn thơ Bên kia sông Đuống.

Phân tích bài thơ Bên kia sông Đuống - mẫu 10

Sau những kí ức tươi đẹp về làng quê yên bình, những đau đớn căm hờn khi quê hương bị tàn phá, nhà thơ Hoàng Cầu đã vẽ lên một tương lai tươi sáng đầy hi vọng về chiến thắng qua những hình ảnh cụ thể và gợi nhiều liên tưởng

“Hé một cánh liếp

Con về đây bốn phía tường che…”

Thi nhân Hoàng Cẩm đã diễn tả cảnh bộ đội về làng, được sự bao bọc bảo vệ của người dân Kinh Bắc. Dưới sự chỉ huy của cách mạng, nhân dân quan họ đã vùng lên chiến đấu và tấn công kẻ thù. Nhịp điệu tươi vui rộn ràng bên trên bỗng chuyển sang sự uất hận căm thù lũ giặc.

“Bộ đội bên sông đã trở về…

Hờn ta cùng với đất này dài lâu”

Với những hình ảnh đắt giá “trại giặc run trong sương” “dao lóe” “gậy lùa” đã miêu tả biết bao sự dữ dội của cuộc kháng chiến, đồng thời cũng ngợi ca tình thần bất khuất can đảm của những người dân quan họ Kinh Bắc, của những em, những mẹ anh hùng… Bên kia sông Đuống đã vùng lên đấu tranh với kẻ thù xâm lược, đã đi theo con đường Cách mạng.

“À ơi…cha con chết trận từ lâu

Con càng khôn lớn càng sâu mối thù…”

Đó là truyền thống cách mạng của biết bao gia đình Kinh Bắc nói riêng, của người dân Việt Nam nói chung. Sự hi sinh anh dũng của người cha, sự tiếp nối vùng lên của đứa bé từ trong câu hát à ơi đã cho thấy sự uất hận, sự mãnh liệt đối với kẻ thù. Đó không chỉ là tiếng thơ, là tiếng nói của những người dân Kinh Bắc xưa trong chiến tranh bom đạn, mà còn là những tâm tư của tác giả Hoàng Cầm, là nỗi xót xa căm phẫn quân thù của người con Kinh Bắc đang nhớ thương quê hương.

“Em ơi đừng hát nữa…Mẹ ơi đừng khóc nữa…”

Động từ “đừng” thể hiện sự đau đớn và xót xa biết bao. Bên kia sông Đuống ấy là biết bao âm thanh, là biết bao cảnh tượng đan xen trong tâm trí nhà thơ. Là những nuối tiếc nhớ nhung, là những nỗi sầu day dứt, là nỗi căm hờn lũ giặc bạo tàn đã khiến quê hương chìm trong biển lửa mưa bom. Đoạn thơ cuối chính là những hi vọng được cụ thể hóa bằng những biện pháp tu từ so sánh và ẩn dụ“Vì nắng sắp lên rồi…Bao nhiêu nỗi đời”

Chân trời của Cách mạng, của sự vùng lên quật cường gan góc, của sự trung kiên ý chí đã thổi vào từng câu thơ. Bên kia sông Đuống với hình ảnh “cuồn cuộn trôi” thể hiện sự gấp gáp, sự khẩn trương của tinh thần đấu tranh quân thù. Sông Đuống lúc này đã trở thành một người anh hùng của dân tộc “Để nó cuốn phăng ra bể…”. Bên kia sông Đuống đã chứng kiến bao nhiêu nước mắt, đã ghi lại bao nhiêu máu và mồ hôi, bao nhiêu bóng tối u buồn.

Giờ đây, dưới ngòi bút nghệ thuật ẩn dụ, con sông Đuống sẽ hiện lên đấu tranh anh dũng với quân thù.Sáu câu thơ cuối là những lời tâm tình nhỏ nhẹ. Bên kia sông Đuống kết thúc với hình ảnh những cô gái quan họ tình tứ mặc yếm hồng để đi trẩy hội. Hình ảnh ấn tượng nhất đọng lại trong tâm tưởng người đọc chính là nụ cười mê ánh sáng đầy xuân xanh của niềm tin và hi vọng, của sự thành công của cuộc kháng chiến, của thắng lợi với đường lối của Cách mạng.

“Anh lại tìm em” nghe sao thân thương quá đỗi như vậy. Em ở đây không chỉ là riêng một cô gái cụ thể, mà còn là những kí ức tươi đẹp, những hồi ức yên bình về mảnh đất Kinh Bắc xưa. Mùa xuân sẽ về trong ước mơ hòa bình, với sự tưng bừng rộn rã của lễ hội. Hình tượng trữ tình “em” hiện lên mang vẻ đẹp lung linh của ánh sáng rực rỡ.Có thể thấy, bên kia sông Đuống là bài thơ ngập tràn những xúc cảm của thi nhân Hoàng Cầm, là tình yêu quê hương mãnh liệt, là nỗi nhớ thương vơi đầy ở bên này sông Đuống.

Trái tim của nhà thơ đã hòa vào nhịp thở của con sông Đuống với những cảm xúc tự nhiên nhất, với những nhịp đập vui buồn, căm phẫn cùng nỗi đau của quê hương, mơ ước tin tưởng về ngày mai chiến thắng. Bên kia sông Đuống mãi là tiếng thơ âm vang của nhịp sống Kinh Bắc hôm nay và mãi về sau. Bên kia sông Đuống đã trở thành biểu tưởng của niềm tin và ước vọng.

Sự thành công của tác phẩm đầu tiên phải kể đến tình cảm chân thành tha thiết của thi nhân Hoàng Cầm với xứ quan họ quê hương. Bên cạnh đó, là sự tinh tế, sâu sắc mà đầy tài hoa trong ngòi bút của tác giả với việc sử dụng hàng loạt hình ảnh chân thực cũng như tưởng tượng, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa và ẩn dụ.Không chỉ dừng lại ở đó, âm điệu thơ gợi cảm, lúc vui tươi rộn ràng, khi lại đầy phẫn uất cùng với việc sử dụng từ ngữ đặc sắc và sinh động, lời thơ tha thiết…

Tác phẩm Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm đã được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành ca khúc rất quen thuộc về quê hương Kinh Bắc.

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official




Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên