10+ Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya (điểm cao)
Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya
- Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya (mẫu 1)
- Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya (mẫu 2)
- Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya (mẫu 3)
- Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya (mẫu 4)
- Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya (mẫu 5)
10+ Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya (điểm cao)
Dàn ý Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya
a) Mở bài:
+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Thạch Lam có giọng văn trong trẻo, nhẹ nhàng, gợi cảm. Khuất lấp sau những trang văn của ông là tấm lòng trắc ẩn đối với những kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ. Trong đó, "Hai Đứa Trẻ" là tác phẩm nổi tiếng của Thạch Lam.
+ Giới thiệu vấn đề cần cảm nhận: bức tranh phố huyện lúc về đêm.
b) Thân bài:
+ Khung cảnh của bức tranh thiên nhiên phố huyện mang những vẻ đẹp mộc mạc và giản dị, nhưng lại mang đến nhiều ý nghĩa cho toàn bộ tác phẩm.
+ Bức tranh phố huyện nghèo đã tái hiện thành công hiện thực xã hội nghĩa lúc bấy giờ, làm cho người đọc như thấy được khung cảnh thực tế ngay trước mắt.
+ Trước khung cảnh của tiêu điều của phố huyện, không gian mở ra những hình ảnh xa xăm trái ngược với sự huyên náo đáng lẽ phải có của phố huyện.
+ Thời gian của toàn bộ khung cảnh là lúc về đêm, khiến cho không gian trở nên mù tối, con người như hòa mình với màn đêm và sự tĩnh mịch của không gian.
+ Cảnh vật xơ xác, tiêu điều của con người, từ những rác rưởi, vỏ thị đến những thứ nhặt nhạnh ngoài đồng của những đứa trẻ nghèo khổ.
+ Bức tranh thiên nhiên và con người nơi phố huyện gợi lại cho người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc, đó là sự ảm đạm trong cảm nhận, nhưng vẫn mang một mong ước cháy bỏng về cuộc sống mới.
c) Kết bài:
Khái quát vấn đề và nêu lên giá trị nghệ thuật, giá trị nội dung.
Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya - mẫu 1
Thạch Lam là gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam trước năm 1945. Tuy là một nhà văn lãng mạn nhưng tác phẩm của ông lại giàu yếu tố hiện thực, thấm đượm lòng nhân ái và chan chứa niềm xót thương những con người nhỏ bé. Văn Thạch Lam vì thế giống như một thứ hương hoàng lan được chưng cất từ những nỗi đời. "Hai đứa trẻ" là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của ông, được rút từ tập "Nắng trong vườn". Truyện ít sự việc, ít biến cố, chỉ chủ yếu xoay quanh việc hai đứa trẻ đợi tàu diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn từ lúc chiều tàn đến đêm khuya của một ngày mùa hạ. Nhưng vẫn đầy sức hấp dẫn bởi những trang văn giàu cảm xúc, miêu tả tinh tế những biến đổi tinh vi của cảnh và những xao xuyến mơ hồ của lòng người. Nổi bật trong truyện ngắn là khung cảnh bức tranh phố huyện lúc về đêm được hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của tác giả.
Trên nền tác phẩm là một phiên chợ tàn: "Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn sót lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá..."(Trích: "Hai đứa trẻ"). Thạch Lam tả cảnh chợ quê dịp chính phiên nhưng không thấy vẻ sầm uất, sôi động, mà lại làm nổi bật sự lèo tèo, vắng vẻ và ế ấm. Thế rồi, theo bước chuyển nhẹ nhàng của thời gian, phố huyện dần chuyển vào đêm. Trước hết là sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối.
Bất cứ ai từng đọc truyện Thạch Lam, đều không khỏi ấn tượng bởi những trang viết về bóng tối. Nhưng có lẽ chỉ khi đến với "Hai đứa trẻ", bóng tối mới hiện ra với đủ hình hài, cung bậc của nó. Từ ấn tượng ban đầu dịu nhẹ, êm mềm: "Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ âm như nhung và thoảng qua gió mát", bóng tối từng bước chiếm lĩnh không gian: "Đường phố và các ngõ con dần dần chia đầy bóng tối", rồi bao trùm tất cả, mênh mông, dày đặc: "Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa". Phố huyện nhỏ như là vương quốc của bóng tối, đến cả tiếng trống cầm canh cũng không xuyên qua được màn đêm đặc quánh, "chỉ tung lên một tiếng khó khăn rồi chìm ngay vào bóng tối".
Đối lập với bóng tối là ánh sáng nhỏ bé, yếu ớt, mong manh. Ánh sáng của thiên nhiên vũ trụ với "ngàn sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vật sáng xanh của những con đom đóm." Ánh sáng thiên nhiên đẹp đã nhưng xa xôi, khó nắm bắt khiến hai đứa trẻ mỏi trí nghĩ. Chúng tìm đến nguồn sáng thân thiết hơn của cuộc sống con người trên mặt đất. Đó là "những khe sáng từ vài cửa hàng còn thức"; là "quầng sáng thân mật từ ngọn đèn trên chống hàng chị Tí"; là "những hột sáng nhỏ, thưa thớt lọt qua phên nứa từ ngọn đèn trong cửa hàng của chị em Liên"; "là chấm lửa nhỏ, vàng, lơ lửng đi trong đêm của gánh phở bác Siêu." Ánh sáng nhỏ nhoi không đủ sức xua tan bóng tối mà chỉ khiến đêm tối đen hơn. Ánh sáng yếu ớt không đủ thắp sáng cuộc đời mà biến mỗi con người thành chiếc bóng đổ dài xuống mặt đất. Ánh sáng và bóng tối được Thạch Lam miêu tả trong sự tương quan đối lập. Tương quan ấy mang ý nghĩa biểu tượng. Bóng tối đặc quánh của không gian biểu tượng cho sự tối tăm vô tận của xã hội cũ. Còn ánh sáng của những ngọn đèn hay bếp lửa chính là sự sống leo lét, mù tối của những kiếp người nhỏ bé vô danh.
Trong bóng tối ngập tràn, tác giả khiến cho người đọc cảm nhận được cuộc sống của cư dân phố huyện vẫn diễn ra không chỉ nghèo khổ mà còn quẩn quanh, bế tắc vô cùng. Điển hình cho kiếp sống lay lắt của phố huyện này trước hết phải kể đến mẹ con chị Tí. Ban ngày chị lặn lội mò cua bắt tép, đến đêm lại lầm lũi dọn hàng nước nơi góc phố huyện nghèo. Gánh hàng của chị chỉ có lèo tèo vài thứ đồ lặt vặt, sơ sài. Tất cả cái cửa hàng được hai mẹ con dọn ra mà vẫn nhẹ tênh tênh. Khách hàng của chị toàn những người dưới đáy xã hội, làm thuê, làm mướn hoặc đi ở. Dẫu cho chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng hôm nào hai mẹ con vẫn dọn hàng từ chập tối tới đêm khuya. Hình ảnh chị Tí phe phẩy cành chuối khô, đuổi ruồi bò trên mấy thức hàng, mòn mỏi chờ mong những khách hàng quen trong vô vọng đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn không sao tả xiết. Mẹ con chị Ti đang sống ở đó ư? Có lẽ không phải, đó đâu phải là sống mà chỉ là cầm cự với sự sống. So với mẹ con chị Tí, gánh hàng phở của bác Siêu có phần khá khẩm hơn nhưng lại đứng trước nguy cơ phá sản. Bởi lẽ, trong phố huyện nghèo này, phở là một món ăn quá xa xỉ. Cuộc sống của chị Tí, bác Siêu đã cơ cực là vậy, nhưng người đọc có thể thấy rõ nhất tận cùng của sự khốn khổ là gia đình bác xẩm. Gia tài chỉ vẻn vẹn một manh chiếu rách, một thau sắt trắng méo mó, cây đàn bầu cũ kĩ, và bác sống bằng nghề hát rong.
Nhìn vào cuộc sống cư dân nơi phố huyện mà độc giả cảm thấy thật xót xa. Bởi họ luôn hiện lên với những hành động quen thuộc, với những suy nghĩ mong đợi không khác mọi ngày. "Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?"... "dễ họ không phải đi gọi đâu!" Chẳng cần phải nói cụ thể, rõ ràng bởi những cư dân nơi đây đã thấu hiểu mọi suy nghĩ, mong đợi của nhau. Ngày nào cũng giống ngày nào, hôm nay cũng giống hôm qua và sẽ còn tiếp diễn ở ngày mai. Nhịp sống của cư dân phố huyện lặp đi lặp lại một cách đơn điệu, và tẻ nhạt. Họ không chỉ khổ nghèo về vật chất mà còn quẩn quanh, lay lắt về tinh thần. Họ không phải đang sống theo đúng nghĩa mà chỉ là cầm cự trong vô vọng. Phố huyện giống như sân khấu cuộc đời chỉ độc diễn một màn buồn tẻ, không có sự thay đổi cả cảnh lẫn người.Tất cả cùng chung kiếp sống mòn. Điệu sống của cư dân phố huyện nghèo này chính là điệu sống của cả xã hội Việt Nam trước Cách mạng:
"Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá quen nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại có ngần ấy chuyện"
(Huy Cận)
Dù vậy "chừng ấy người trong bóng tối vẫn mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Ước mơ thật nhỏ bé, mơ hồ, tội nghiệp. Thạch Lam đã phát hiện, trân trọng và nâng niu mọi ước mơ, hi vọng dù là nhỏ nhoi nhất của những con người phố huyện. Niềm xót thương da diết thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng cảnh, dựng người. Vì vậy có thể nói "văn Thạch Lam lúc nào cũng đằm thắm, đôn hậu, nghẹn ngào chút lệ của tình thương".
Bằng ngôn từ trong sáng, giản dị; ngòi bút tài hoa, tinh tế và cái nhìn trìu mến, yêu thương, Thạch Lam đã dựng nên bức tranh chân thực đầy xúc động về cuộc sống đói nghèo tăm tối nơi phố huyện, tiêu biểu nhất là cảnh phố huyện vào đêm. Qua đó, người đọc đã thấy được tấm lòng nhân hậu, đầy tình yêu thương của ông. Dù ra đời cách đây nhiều năm, nhưng ngày nay đọc "Hai đứa trẻ" ta vẫn thấy đầy đủ "cái dư vị và nhã thú của một tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học" (Nguyễn Tuân)
Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" đã tái hiện một cách nhẹ nhưng thấm thía niềm xót thương của Thạch Lam với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở một phố huyện nghèo. Đồng thời, truyện cũng cho thấy sự trân trọng của nhà văn với những mong ước đổi đời tuy còn mơ hồ của họ. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam với cốt truyện đơn giản, ít sự kiện mà đầy ắp tâm trạng. Với thành công của "Hai đứa trẻ", Thạch Lam xứng đáng là một nhà văn xuất sắc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya - mẫu 2
Tác giả Thạch Lam, có tên thật là Nguyễn Tường Vinh. Ông sinh năm 1910 và mất năm 1942. Ông sinh ra trong một gia đình gia giáo, làm công chức có gốc quan lại trong giai đoạn đất nước có nhiều sa sút, thay đổi. Tuy nhiên, sau đó vì cha mất, nhà lại đông con nên gia đình Thạch Lam rơi vào cảnh khốn khó. Sau khi hết học bậc tú tài, ông bắt đầu tham gia làm báo cùng các anh trai.
Độc giả biết đến nhà văn Thạch Lam với phong cách viết thiên về tình cảm và sự lãng mạn. Qua ngòi bút của ông, người đọc cảm nhận rõ được niềm thương xót của nhà văn trước những số phận hẩm hiu, bất hạnh, nghèo khổ và đặc biệt là những người phụ nữ bị đói xử bất công trong xã hội cũ. Ngoài ra, ông cũng dành ngòi bút của mình để miêu tả lại vẻ đẹp của quê hương đất nước như trong tác phẩm Hà Nội ba sáu phố phường…
Đặc biệt, tác phẩm “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn rất được nhiều bạn đọc yêu thích và say mê. Ở tác phẩm, ngoài ấn tượng đến từ các nhân vật có cuộc sống hẩm hiu còn có nổi bật bởi bức tranh phố huyện về đêm rất sinh động và độc đáo. Nhờ cảnh tưởng đó mà tác phẩm đã để lại trong lòng độc giả nhiều dấu ấn sâu sắc.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn Thạch Lam đã gây ấn tượng bởi khung cảnh chiều tàn đầy vắng lặng, hắt hiu, êm ả những chứa đựng nỗi buồn man mác.
“Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”.
Độc giả có thể thấy, buồi chiều tàn nơi phố huyện hiện rõ lên qua những âm thanh, đường nét, hình ảnh vô cùng quen thuộc của một làng quê nhưng lại khơi gợi biết bao xúc cảm. Một bức họa làng quê được khắc hoạt một cách sống độngv à chân thực như một thước phim quay chậm đang diễn ra trước mắt độc giả. Nhà văn Thạch Lam mở đầu tác phẩm bằng thời gian ngày tàn. Đó là khoảng thời gian để kết thúc một ngày và bắt đầu mở ra một màn đêm với nhiều nỗi niềm, nỗi buồn. Kết hợp với thời gian là không gian êm đềm, thanh tĩnh của buổi hoàng hôn đang dần chuyển về đêm. Lúc này màu sắc của bức tranh phố huyện như dần nhòe đi, còn “bóng tối” như một điều gì đó ghê sợ đã bắt đầu hoạt động và bắt đầu xâm nhập, xâm chiếm bao trùm lên mọi vật. Bởi thế “dãy tre làng đen lại”, “cửa hàng hơi tối, muỗi bắt đầu vo ve”…
Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn có chút ánh sáng xuất hiện, nhưng nó vô cùng ít ỏi. Nó chỉ như những “hộ sáng” li ti, không đủ sức mạnh để xua đi bóng tôi đang bao trùm. Điều đó càng khiến cho không gian phố huyện lúc sắp về đêm trở nên chợp chờn, mờ ảo, mênh mông…
Phân tích bức tranh phố huyện lúc về đêm, độc giả không thể không nói đến thanh âm vang lên ở phố huyện lúc chiều tàn. Đó là thứ âm thanh vang vọng, cố thu nhỏ lại “tiếng trống thu không từng tiếng một vang xa”. Thể hiện một khung cảnh buồn bã, thưa thớt và chậm rãi. Bên cạnh đó là âm thanh “văng vẳng tiếng ếch nhái, tiếng côn trùng kêu ran”. Đó là thứ thanh âm náo động, rộn ràng nhưng lại vang vọng, khơi gợi sự hoang vắng, heo hút. Trong khi đó “tiếng muỗi vo ve”, “chõng nan cót két” lại mang tới một bức tranh tăm tối và một cuộc sống thật tù đọng, bần cùng và nghèo nàn. Có thể nói, những thanh âm ấy không làm cho bức tranh trở nên nhộn nhịp tươi đẹp hơn mà càng nhấn mạnh hơn sự buồn tẻ, lụi tàn, trống vắng của phố huyện, và càng khiến con người trở nên buồn xót. Qua đây, độc giả có thể thấy, trước khi phố huyện vào đêm, thì phố huyện đã trải qua một khung cảnh buổi chiều tàn thật ảm đạm. Mặc dù chỉ trong một đoạn văn mở đầu ngắn ngủi nhưng nhà văn đã sử dụng tới tận 5 từ “chiều”, 2 từ “tối”, 2 từ “tàn”, 2 từ “buồn”. Có thể nói, mỗi câu văn, mỗi từ đều khơi gợi trong lòng độc giả một xúc cảm buồn mênh mang khó quên. Khung cảnh chiều tàn nơi phố huyện trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam khiến chúng ta chợt nhớ tới câu ca cổ của thi sĩ Bà Huyện Thanh Quan “Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn/ Tiếng ốc xa đưa vắng trống dồn”. Những hình ảnh trong văn Thạch Lam cũng chính là bức tranh đậm chất hồn làng quê ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20.
Nếu như bức tranh phố huyện khi chiều tàn đã ảm đạm bao nhiêu thì lúc về đêm càng trở buồn chán và tẻ nhạt, hẩm hiu bấy nhiêu. Không gian bức tranh về đêm của phố huyện được bao trùm bởi bóng tối, những tia sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn của gánh hàng không đủ sức để phá tan màn đêm dữ dội. Thứ ánh sáng ấy xuất hiện đi xuất hiện lại tận 7 lần trong tác phẩm. Điều đó trở thành nỗi ám ảnh ghê gớm vào tâm trí của người đọc lẫn những phận người nơi phố huyện nghèo. Ánh đèn ấy như hình tượng biểu trưng cho kiếp người nơi phố huyện nghèo thu nhỏ, đó là kiếp người sống leo lắt, nhỏ nhoi lẻ loi trong bóng đêm u ám. “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng. Trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ, khiến An thèm muốn nhập bọn với chúng để nô đùa, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải coi hàng, nên hai chị em đành ngồi yên trên chỏng, đưa mắt theo dơi những bóng người về muộn, từ từ đi trong đêm. Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay leo vào cành cây”.
Nhà văn Thạch Lam vô cùng tinh tế khi lấy ánh sáng để miêu tả bóng tối. Ông càng miêu tả chi tiết sự ít ỏi yếu ớt của ánh sáng qua những hình ảnh như quầng sáng, hột sáng, khe sáng, vầng sáng… thì càng bộc lộ thấy màn đêm nơi phố huyện càng đậm đặc, u tối. Trong khi đó, nhà văn lại miêu tả thứ ánh lấp lánh lại nhanh chóng vút qua từ những toa tàu. Bởi đó là thứ ánh sáng ở nơi thế giới khác, không phải trong bức tranh của phố huyện. Bởi đó là thứ ánh sáng của những người giàu có, là cuộc sống sung túc náo nhiệt ở nơi Hà Nội huyên náo. “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. Qua đây, độc giả có thể thấy, ở bức tranh phố huyện lúc về đêm ấy, thế giới của người nghèo và thế giới của người giàu không bao giờ hòa hợp. Đồng thời, qua sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng đã khơi gợi nên cho độc giả cảm nhận rõ “cuộc sống tối tăm nơi phố huyện chôn vùi những kiếp người nhỏ bé”. Bức tranh phố huyện về đêm đã cho độc giả thấy nơi đây đúng là một vùng quê nghèo đói với những phận người thật mong manh, nhỏ bé. Dường như không có thứ ánh sáng nào đủ sức xua đi sự tăm tối trong màn đêm cũng như trong chính cuộc đời của những kiếp người nơi đây.
Bức tranh phố huyện lúc về đêm còn được thể hiện qua nhịp sống tẻ nhạt, lặp đi lặp lại của những người dân nơi đây. Đó là những hoạt động quen thuộc, âm thanh quen thuộc như chị Tí dọn hàng, bác phở Siêu thổi lửa, gia đình bác xẩm với cái thau trước mặt, bà cụ Thu điên… Và bên cạnh họ là những suy nghĩ và mong ước và một cuộc sống tốt đẹp hơn như hàng ngày. Mặc dù trong thâm tâm họ, vẫn nuôi hi vọng, mơ ước về một cuộc sống tươi sáng trong tương lai nhưng vẫn không rõ ràng và vô cùng mơ hồ.
Qua quá trình phân tích bức tranh phố huyện lúc về đêm, nhà văn Thạch Lam đã mang tới cho độc giả những xúc cảm khó quên. Bởi đó là bức tranh đã gây ra ám ảnh với độc về khung cảnh chiều tàn đầy ảm đạm, sự đối lập giữa ánh sáng nhỏ bé và màn đêm u tối của phố huyện. Đó là cũng thứ ánh sáng leo lắt như những phận người hẩm hiu nơi đây và bóng đêm bao trùm mạnh mẽ như cuộc sống tù túng, không lối thoát. Qua đây, độc giả cũng cảm nhận được niềm xót thương của nhà văn Thạch Lam dành cho những kiếp người nghèo khổ, lẻ loi và nhỏ nhoi. Với ngòi bút hiện thực và lãng mạn, nhà văn Thạch Lam đã phác họa thành công bức tranh phố huyện thật độc đáo buồn man mác và gây nhiều xúc cảm.
Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya - mẫu 3
Thạch Lam là một cây bút tài hoa, xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Truyện của Thạch Lam luôn có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. “Hai đứa trẻ” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam. Trong đó bức tranh phố huyện lúc về đêm đã khắc họa cuộc sống bần cùng, khó khăn nơi phố huyện.
“Hai đứa trẻ” đã thể hiện được đặc trưng của giọng văn Thạch Lam. Truyện như bài thơ trữ tình đượm buồn về số phận của những con người nơi phố huyện nhỏ. Cuộc sống con người nơi đây được dựng lên bằng những nét vẽ rất đỗi chân thực, xúc động qua cái nhìn của chị em Liên, đặc biệt là trong cảnh phố huyện về đêm.
Cảnh sống nơi phố huyện không ồn ào, không to tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của cuộc sống.Thạch Lam đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh, công việc vất vả của con người nơi đây bằng ngòi bút hiện thực xuất sắc. Điển hình cho những kiếp người đó là gia đình chị tí với nhịp sống quẩn quanh: “Ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cậy bàng, bên cạnh cái mốc gạch.” Thức hàng của chị là những thứ chẳng mấy giá trị “ dăm bát nước chè, mấy điếu thuốc lào”.Khách hàng của chị là “mấy người phu gạo hay phu xe, thỉnh thoảng mấy chú lính lệ hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm”. Gia đình chị Tí là hiện thân của số phận cơ cực, nghèo đói. Bên cạnh đó tác phẩm còn hiện lên hình ảnh của bà cụ Thi điên: chỉ đủ tiền mua một cút rượu uống một hơi cạn sạch. Đó là một hình ảnh đầy sức ám ảnh với dáng đi lảo đảo và tiếng cười khanh khách tan vào trong bóng đêm. Phải chăng đó chính là sản phẩm của một cuộc sống mòn mỏi,quẩn quanh, người vẫn còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa.
Nổi bật lên trên bức tranh con người nơi phố huyện là gánh phở bên đường của bác Siêu. Những tưởng là nghề bán phở sẽ khá khẩm hơn nhưng phở lại là thứ quá xa xỉ đối với người dân nơi phố huyện, chị em Liên dù có tiền cũng không mua được, điều đó đi liền với sự ế ẩm của gánh hàng phở của bác Siêu. Cuộc sống khó khăn cũng là hoàn cảnh của gia đình bác Xẩm làm nghề hát xẩm- là nghề mạt hạng, thấp hèn “ xướng ca vô loài”. Tiếng đàn bầu vốn đã não nề thê lương giờ lại bật lên trong không khí vắng vẻ, tĩnh lặng, buồn tẻ của phố huyện nhấn mạnh kiếp người đầy bất hạnh. Đặc biệt chi tiết “thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường.” càng khiến cho gia cảnh của gia đình bác Xẩm càng hiện lên tội nghiệp đáng thương.Cuối bức tranh cuộc sống buồn thảm, héo tàn là bóng hai chị em Liên cũng âm thầm không kém với cái cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Cha Liên mất việc ở thành phố, cả nhà phải chuyển về quê, sống cuộc sống lam lũ, gian hàng của chị em Liên là do mẹ Liên thuê của bà lão móm, ngăn ra bằng giấy nhật trình và giao cho Liên trông coi vì bà còn bận làm hàng sáo. Hàng quà của Liên cũng chẳng có gì nhiều, chỉ là vài phong thuốc lào, mấy bánh xà phòng, vài cút rượu. Chị em Liên đang ở cái lứa tuổi đến trường vui chơi nhưng giờ đây phải lăn lội cùng cha mẹ kiếm miếng cơm manh áo. Qua những số phận con người hiện lên trong bức tranh phố huyện lúc về đêm, tác giả đã ghi lại một cách tỉ mỉ với tấm lòng thương cảm sâu sắc cuộc sống nghèo đói, mù tối, bế tắc của một phố huyện nhỏ.Những kiếp người quẩn quanh đó cũng đã đi vào trong thơ văn của Huy Cận:
"Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện"
Bao quanh cuộc sống buồn tẻ của người dân phố huyện là cái chõng tre sắp gãy trong gian hàng của chị em Liên, là gánh phở tồi tàn của bác Siêu, là manh chiếu rách của gia đình bác Xẩm.Bên cạnh những sự vật tàn ấy còn là một chút ánh sáng bao quanh những kiếp người tàn. “Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với những vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây, quần sáng chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí.” Ngọn đèn vặn nhỏ của chị em Liên hắt ra từng hột sáng thưa thớt, chấm lửa nhỏ lơ lửng trong đêm tối hiện ra rồi lại mất đi trên gánh phở của bác Siêu. Dường như có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu ánh lửa nhưng ánh sáng yếu ớt, leo lét ấy chỉ đủ soi tỏ một vùng hoạt động của một người, chỉ đủ làm dấu hiệu của sự sống trong một vùng tối mênh mông : “ Đường phố và các con ngõ con chứa đầy bóng tối, tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà và các đường vào làng lại sẫm đen lại hơn nữa,” Bóng tối dày đặc, mịt mờ dường như muốn nuốt chửng ánh sáng.
Bên cạnh bóng tối và ánh sáng là âm thanh “ cót két” của cái chõng che sắp gãy, tiếng đàn bầu rung “bần bật” trong yên lặng và những tiếng thở than nói chuyện rời rạc. Âm thanh nơi đây hiện lên thật mong manh, xa vắng, nhỏ bé. Nếu ánh sáng và âm thanh là biểu hiện của sự sống, bóng tối và sự tĩnh lặng là biểu hiện của sự hư vô thì ở nơi phố huyện nghèo này cuộc sống đang bị vùi lấp bởi sự hư vô, bởi buồn tẻ, vắng lặng. Khi nhìn bức tranh phố huyện về đêm đã gợi lên trong Liên sự cảm thương, xót xa đối với những người dân nghèo nơi mảnh đất này. Liên hỏi han chị Tí, ái ngại cho gia cảnh nhà bác Xẩm và gánh phở của bác Siêu. Tác giả Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật Liên, ông dùng tình yêu thương để gắn kết những kiếp người nhỏ bé lại với nhau và thắp lên ngọn lửa tình người ở nơi phố huyện tăm tối. Vẫn là cuộc sống nghèo khổ, tối tăm nhưng Thạch Lam đã làm nên nét đặc biệt rất riêng cho nhân vật của mình với các nhân vật của các nhà văn hiện thực khác cùng thời. Nhân vật của Thạch Lam không quằn quại, giãy giụa trong tuyệt vọng mà họ vẫn luôn mơ hồ mong ước một sự đổi thay “ chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đổi thay trong cuộc sống nghèo khổ này.” Thạch Lam không nhìn những người dân nghèo khổ nơi phố huyện bằng cái nhìn bi quan, chán nản mà ông quan sát, ghi lại cuộc sống của họ với tấm lòng yêu thương, sẻ chia, cảm thông sâu sắc.
Truyện “Hai đứa trẻ” đã miêu tả một cách tinh tế sự biến đổi sắc thái của cảnh vật và lòng người., sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, âm thanh và sự tĩnh lặng của phố huyện.Bên cạnh đó Thạch Lam còn thành công trong việc kết hợp giữa bút pháp hiện thực và trữ tình . Những nghệ thuật đặc sắc ấy đều nhất loạt vẽ lên bức tranh phố huyện ấy gợi ra sự buồn tẻ, đói nghèo quẩn quanh, bế tắc.Đây cũng chính là cảnh làng quê Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt, “Hai đứa trẻ” cũng đã cho thấy tấm lòng nhân đạo, cảm thương đối với con người, thiết ta gắn bó với quê hương của tác giả Thạch Lam.Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã vẽ lên những số phận nghèo khổ, bế tắc với khát vọng vươn tới một cuộc sống tốt đẹp. Và qua đó,tác phẩm còn cho thấy ngòi bút tinh tế của Thạch Lam khi miêu tả thiên nhiên và con người cũng như giúp người đọc nhận ra tình cảm xót thương mà Thạch Lam đã dành cho những kiếp người ấy.
Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya - mẫu 4
Trong văn học, thơ ca, phong cách riêng của mỗi nhà văn, nhà thơ chính là điểm thu hút độc giả và tạo nên thành công cho riêng họ và nhà văn Thạch Lam chính là một ví dụ như vậy. Một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Thạch Lam và đã góp phần không nhỏ vào thành công của nhà văn là tác phẩm “Hai đứa trẻ”, trong đó bên cạnh hai nhân vật chính, người đọc cũng vô cùng ấn tượng với bức tranh phố huyện lúc về đêm được tác giả kì công dồn nhiều tâm sức.
Được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938, có thể nói rằng “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Thạch Lam. Khác với nhiều nhà văn khác trong tác phẩm của mình luôn tập trung xoay quanh một hay nhiều nhân vật chính, trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam chẳng tập trung xây dựng cốt truyện cho nhân vật chính của mình mà ông tập trung miêu tả khung cảnh là chính, vì vậy mà xuyên suốt tác phẩm, chúng ta có thể thấy rõ ràng khung cảnh phố huyện nơi hai chị em Liên đang sinh sống tại nhiều thời điểm trong nhà. Và khi những ánh nắng cuối cùng trong ngày chợt tắt, cuộc sống của những người dân nơi phố huyện vẫn chưa ngừng lại. Nhưng cuộc sống về đêm ấy chẳng tấp nập, sôi động như ta tưởng mà có chút gì đó buồn man mác, càng nổi bật hơn cuộc sống bình dị, lam lũ của những người dân nơi phố huyện.
Ngay từ những dòng văn đầu tiên mở đầu câu chuyện, Thạch Lam đã cho độc giả thấy được khả năng quan sát tài tình và ngòi bút tài hoa của mình bằng cách vẽ lên một bức tranh đơn giản mà đẹp đến không ngờ, cũng những sự vật mà hằng ngày chúng ta vẫn thường thấy nhưng qua trang văn của Thạch Lam, chúng bỗng dưng như biến thành khung cảnh của một câu chuyện cổ nào đó với “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn; dãy tre làng nước trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Nhà văn đã rất tinh tế khi điệp từ “chiều”, tạo cảm giác bóng tối như lan nhanh hơn mà thấm đẫm tâm hồn bé Liên, âm thanh “êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra ngoài đồng” làm trong lòng cô bé dậy lên “nỗi buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn”.
Trời đã muộn, phiên chợ phố huyện cũng đã “vãn từ lâu”, “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, làm trở lại những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá dứa” và “mùi âm ẩm bốc lên”. Rõ ràng là một phiên chợ huyện thế nhưng khung cảnh ấy lại tiêu điều, đơn sơ quá mức, càng làm nổi bật thêm sự nghèo khó, lam lũ của người dân nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh những đứa trẻ nhà nghèo lom khom đi lại, tìm tòi, hi vọng bắt được một chút gì đó có giá trị còn sót lại sau phiên chợ ấy càng làm độc giả thêm trăn trở, xúc động.
Và rồi sự nghèo khó, đơn sơ của nơi phố huyện này được bộc lộ rõ nhất khi hình ảnh sinh hoạt của người dân nơi đây lần lượt được tác giả miêu tả. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí xách điếu đóm, đội chõng tre dọn hàng nước mặc dù chẳng kiếm được bao nhiêu. Chắc hẳn sẽ có độc giả nghĩ rằng nếu đã chẳng thể kiếm lời được từ việc ấy thì tại sao lại không bỏ nó đi để tìm một công việc khác, thế nhưng bán nước tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng ít nhất nó là công việc mà hai mẹ con có thể nhờ nó mà kiếm được miếng cơm manh áo, bỏ nó rồi biết làm gì giữa phố huyện nghèo nàn như thế. Tiếp theo, chúng ta có thể thấy hình ảnh gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng để trước mặt hay hình ảnh gánh phở của bác Siêu mà đối với chị em Liên thì đó quả là một thứ xa xỉ. Phải khó khăn, lam lũ đến mức nào mà một tô phở vốn chúng ta coi là rất bình thường lại có thể trở thành một thứ đồ xa xỉ như vậy?
Không chỉ dừng lại ở đó, chúng ta còn bắt gặp hình ảnh bà cụ Thi hơi điên vẫn mua rượu ở hàng Liên, bà cụ mà vẫn cất tiếng cười khanh khách rồi lẽo đẽo đi vào trong màn đêm tăm tối mênh mông và lay lắt như ngọn đèn trước gió của hàng nước chị Tí. Có lẽ cũng chính vì cuộc sống lam lũ, bươn chải cực nhọc đã đẩy một bà lão ở độ tuổi đáng được hưởng phúc của con cháu phải rơi vào một hoàn cảnh đáng thương đến thế. Những nhân vật này chỉ là một phần rất nhỏ đại diện cho những mảnh đời bất hạnh nơi phố huyện, đại diện cho cuộc sống tăm tối như màn đêm đen kịt ngoài kia của họ.
Bằng tài năng và tình thương yêu con người, Thạch Lam đã thành công vẽ lên một bức tranh phố huyện lúc về đêm với cảnh vật yên bình, thơ mộng nhưng lại là nền để khắc hoạ những mảnh đời bất hạnh của người dân nơi đây, qua đó để lại nhiều trăn trở, cảm xúc trong lòng độc giả.
Phân tích bức tranh phố huyện lúc về khuya - mẫu 5
Nhà văn Thạch Lam là một trong những tác giả chính của Tự Lực Văn Đoàn. Nhiều tác phẩm của ông rất trong sáng, nhẹ nhàng nhưng lại khắc họa những cảm xúc rất sâu sắc. Đằng sau những trang văn ấy là lòng trắc ẩn và lòng nhân ái đối với những thành phần nghèo khổ hơn trong xã hội. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm hay nhất của ông. Ghi lại những khoảnh khắc cuối cùng trong ngày, tác giả đã vẽ nên cuộc sống đen tối nhưng đầy mong ước về tương lai của người dân nơi đây. Thạch Lam đã chọn thời điểm mặt trời lặn, khi vạn vật bắt đầu chuẩn bị bước vào trạng thái nghỉ ngơi. Bằng ngòi bút tinh tế và nhạy bén của mình, ông không chỉ ghi lại tinh thần cuộc sống con người mà còn cả những hình ảnh của thiên nhiên. Thông qua hai bức tranh này, quan điểm, cảm xúc của tác giả về hiện thực cuộc sống được thể hiện.
Cảnh vật mộng mơ mà buồn bã, âm thanh còn lại chỉ là “tiếng trống mùa thu trong căn chòi thị trấn nhỏ; Từng tiếng hát lần lượt gọi chiều, xa xa tiếng ếch kêu trong tiếng gió”. tưởng chừng như ồn ào náo nhiệt nhưng hóa ra lại buồn bã, bồn chồn và u ám. Có lẽ khoảng không gian phải rất tĩnh lặng và yên tĩnh mới có thể bắt trọn hết những âm thanh trong đó. Trong khoảng thời gian này, mặt trời cũng dần đi vào sự nghỉ ngơi: “Phương Tây đỏ như lửa cháy”, “Mây ánh hống như than sắp tàn”, màu sắc tươi sáng, màu sắc ấm áp nhưng đều gợi lên sự tàn lụi. Những hàng tre đen lại trước làng cắt ngang bầu trời trong vắt, gây nên khung cảnh u ám khi bóng tối bao trùm cảnh vật xung quanh. Những câu văn như có nhạc với nhịp điệu chậm rãi giống như một bài thơ vẽ nên khung cảnh êm đềm, êm dịu từ một bức tranh thiên nhiên. Hình ảnh hoàng hôn đẹp, mộng mơ, yên bình nhưng đầy nỗi buồn, u ám.
Ngoài tranh thiên nhiên, Thạch Lam còn đưa nét vẽ của mình vào những bức tranh miêu tả hoạt động của con người. Ông nhìn thấy một khu chợ bị bỏ hoang. Người ta thường nói rằng nếu bạn muốn biết cuộc sống ở đó như thế nào, tất cả những gì bạn phải làm là đến chợ. Và tác giả cũng làm như vậy. Khung cảnh chợ sau buổi họp trông thật cằn cỗi, hoang tàn. Sự hối hả và ồn ào đã biến mất và bây giờ chỉ còn lại sự im lặng bao trùm. Ít người bán hàng về muộn để cất đồ và trò chuyện ngắn gọn với nhau. Tất cả những gì còn lại trên sàn chợ chỉ là rác, vỏ thị và vỏ bưởi. Những đứa trẻ tội nghiệp ở rìa chợ đang cúi xuống sàn tìm nhặt những thanh tre hay thứ gì đó. Hoàn cảnh của họ thật đáng thương. Hai mẹ con Tí cùng mẹ đi bắt cua, ốc vào ban ngày và bán nước vào ban đêm. Dù làm việc chăm chỉ nhưng vẫn không đủ để nuôi sống bản thân. Còn bà cụ Thi thì luông nghiện rượu, luôn say khướt và có vẻ hay cười. Trong khi đó, chị em Liên có một cửa hàng tạp hóa nhỏ nơi họ bán những món đồ đơn giản cho khách hàng. Mặc dù An và Liên vẫn còn nhỏ nhưng đã bận rộn kiếm sống. Cuộc sống của người dân nơi đây thật nhàm chán, quẩn quanh và tượng trưng cho một cuộc sống mệt mỏi. Trong sâu thẳm, họ luôn khao khát một điều gì đó tươi đẹp hơn trong cuộc sống nhưng điều đó vẫn còn mơ hồ, chưa rõ ràng.
Tâm hồn dịu dàng, nhạy cảm của nhân vật Liên nổi bật nhất trong bức tranh này. Liên nhạy cảm và nhạy bén trước sự thay đổi của thiên nhiên trong từng giây phút, cảm nhận từng chi tiết nhỏ quen thuộc của cuộc sống nơi đây: “mùi ẩm ướt bốc lên, xen lẫn mùi cát bụi quen thuộc”. quen quá…”, một mùi hương quen thuộc đã gắn liền với cuộc đời cô bé bao năm qua. “Liên ngồi lặng lẽ bên quả thuốc sơn đen…” Nhìn phong cảnh, dường như sự u ám, tĩnh lặng của thiên nhiên đã thấm sâu vào tâm hồn trẻ trung, nhạy cảm của Liên. Liên cũng là một cô gái tốt bụng và giàu tình yêu thương. Có sự quan tâm dành cho hai mẹ con Tí, những câu hỏi ân cần, đầy yêu thương, nhân ái và quan tâm đến hoàn cảnh gia đình cô. Liên nghe tiếng cười, biết là bà cụ Thi, “lặng lẽ rót đầy ly rượu đưa cho bà cụ” và “đứng sững nhìn theo”. Nhìn hình ảnh những đữa trẻ nghèo đi nhặt rác, cô bé thấy thương cảm nhưng không có tiền cho.
“Bức tranh phố huyện lúc về đêm” cho thấy chất thơ tỏa ra từ thiên nhiên, từ những cảnh vật bình dị, quen thuộc của quê hương, như tiếng trống mùa thu, tiếng ếch ngoài đồng.. Ngoài ra, chất thơ cũng được thể hiện ở ngôn từ, các câu văn đều nhịp nhàng, giàu nhịp điệu và âm nhạc: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều tĩnh lặng như một bài hát ru, tiếng ếch kêu ngoài đồng theo làn gió nhẹ” đã tăng thêm chất trữ tình cho tác phẩm.
Bức tranh về một phố huyện lúc cuối ngày không chỉ khắc họa thiên nhiên tươi đẹp nhưng buồn bã mà còn khắc họa cuộc sống bộn bề, bần cùng, quẩn quanh của người dân nơi đây. Đằng sau những hình ảnh về thị trấn tỉnh lẻ này, bạn còn có thể thấy được tình yêu thiên nhiên, lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả – một cách tiếp cận trân trọng số phận và ước mơ đổi đời của người dân. Nghệ thuật biểu đạt độc đáo và chất trữ tình sâu sắc cũng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích bức tranh thiên nhiên Tây tiến
- Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc dàn ý
- Phân tích cái chết của cô bé bán diêm
- Phân tích cái ngông của Tản Đà
- Phân tích cảm nhận bài thơ Chiều tối
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

