10+ Phân tích đoạn 4 Việt Bắc (điểm cao)

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích đoạn 4 Việt Bắc (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích đoạn 4 Việt Bắc

1. Mở bài

- Giới thiệu về bài thơ Việt Bắc.

- Khái quát nội dung khổ thơ thứ 4.

2. Thân bài

- Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô "mình-ta" làm cho lời thơ trở nên tha thiết, ngọt ngào.

- "Ta với mình, mình với ta" câu thơ thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại.

- Tình cảm thủy chung, trước sau như một "sau trước mặn mà đinh ninh"

- Cách so sánh độc đáo "Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu":

+ "Nguồn" là nơi bắt đầu của dòng nước, lúc nào cũng dồi dào, không bao giờ cạn.

+ Tình cảm của người cách mạng luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà trở nên đổi thay.

- "như nhớ người yêu" cụ thể hóa nỗi nhớ: tha thiết, trào dâng, luôn thường trực.

- Hình ảnh "Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương" mở ra bức tranh đẹp của núi rừng và nỗi nhớ thường trực ngày đêm trong trái tim người cách mạng.

Quảng cáo

- Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và thời gian:

+ Nhớ về tất cả những gì thân thuộc nhất: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê.

+ Nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng khổ chia sẻ những "đắng cay ngọt bùi".

3. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ 4.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc - mẫu 1

Việt Bắc là một tác phẩm tiêu biểu của Tố Hữu. Nổi bật trong bài thơ là khổ 4 gửi gắm nhiều nội dung giá trị.

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Ở đây, “ta với mình” - “mình với ta” như hòa quyện làm một, cộng hưởng cùng nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” như một sự khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Nếu n guồn với nước dào dạt bao nhiêu thì ta với mình nghĩa tình sâu nặng bấy nhiêu: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Phép tu từ điệp cấu trúc kết hợp với điệp ngữ đặt ở đầu câu “nhớ gì, nhớ từng” đã khẳng định người ra đi không quên bất cứ một hình ảnh nào ở Việt Bắc, ở thiên nhiên Việt Bắc và ở con người nơi đây.

Quảng cáo

"Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương"

Quảng cáo

Nỗi nhớ của người ra đi với người ở lại được so sánh như nỗi nhớ người yêu. Từ đó, người ra đi bộc lộ một tình cảm mãnh liệt, sâu sắc dành cho đồng bào Việt Bắc. Nhà thơ đã chỉ ra những đối tượng của nỗi nhớ:

"Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…"

Nỗi nhớ về một miền không gian, hay thời gian nào đó đầy thơ mộng, trữ tình. Những “đêm trăng đầu núi”, những “nắng chiều lắng lưng nương” gợi ra không gian, thời gian hẹn hò của đôi lứa yêu nhau. Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp lửa. “Bếp lửa” - hình ảnh gợi ra khung cảnh của một mái nhà ấm cúng nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. Họ dường như đã trở thành gia đình, người thân đối với “người ra đi”. Kế tiếp là các địa danh: “Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê” - các địa danh gắn với dấu ấn Cách mạng. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Sau đó người ra đi như muốn khẳng định lại một lần nữa: “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Một loạt những h ình ảnh gợi ra sự sẻ chia nồng ấm của tình cảm quân dân mà như tình cảm gia đình: “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi”. Họ đã cùng nhau đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó, cùng giúp đỡ nhau trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn.

Đoạn thơ thứ tư của bài thơ Việt Bắc đã gợi ra một nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi dành cho người ở lại trước cuộc chia ly đầy lưu luyến này.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc - mẫu 2

Những năm tháng hào hùng của dân tộc đã được thơ ca văn học Cách mạng ghi lại trong những trang văn, trang thơ. Trong đó phải kể đến tác phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu là khúc ân tình thủy chung của đồng bào kháng chiến và chiến sĩ. Nổi bật là khổ bốn - đoạn thơ là nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến:

“- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Năm 1954, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lặp lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ và bộ đội rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Trong không gian đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những chiến sĩ cách mạng nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn trích đã miêu tả sâu sắc cuộc chia ly giữa cán bộ và người dân Việt Bắc gợi lại cuộc kháng chiến anh hùng mà đầy nghĩa tình. Đó là một cuộc chia tay đầy bịn rịn lưu luyến, đầy nghĩa tình sâu đậm.

"Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

Đáp lại tình cảm của người ra đi, người ở lại cũng của người cán bộ về xuôi bày tỏ nỗi lòng của mình với người Việt Bắc. Dù xa nhưng người chiến sĩ vẫn luôn một dạ một lòng thủy chung hướng về Việt Bắc:

"Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh"

Cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa người ở lại và người ra đi: "Mình đi, mình lại nhớ mình”. Việc sử dụng hình ảnh so sánh: "Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” là một hình ảnh đặc sắc. "Nguồn" là nơi bắt đầu của một dòng sông, con suối vì thế lúc nào cũng tràn đầy, ở đây được so sánh với "nghĩa tình” đã cho thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy chất chứa ko bao giờ cạn hao đi. Tiếp đến, "nhớ gì như nhớ người yêu" tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh rất độc đáo so sánh nỗi nhớ của người chiến sĩ với nỗi nhớ "người yêu” một tình cảm cháy bỏng rạo rực luôn dâng trào.

“Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Người chiến sĩ nhớ về cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Bắc nấu bữa tối, khói từ các ống bếp bốc ra nghi ngút. Rồi đêm tới lại bập bùng bên bếp lửa cháy rực cùng nhau quây quần kể chuyện, múa hát. Họ nhớ về:

“Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.

Nhớ những thứ thân thuộc khi ngày ngày gắn bó, với những địa điểm hết sức nổi tiếng như: "Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, "suối Lê” ở đây chính là suối Lê Nin. Cuối cùng, đoạn thơ khép lại trở về với cách xưng hô mình và ta:

“Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

"Đắng cay ngọt bùi” là những khó khăn gian khổ vất vả. “Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…” ở đây muốn chỉ những người chiến sĩ và người dân Việt Bắc đã cùng nhau trải qua những khó khăn, gian khổ, họ đã cùng trải qua. Với việc sử dụng sáng tạo hài đại từ “mình - ta” với lối đối đáp giao duyên trong dân ca. Bài thơ Việt Bắc thể hiện tính dân tộc đậm đà. Cả bài thơ khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trọn niềm tự hào dân tộc.Các câu thơ đậm chất dân tộc, trong việc sử dụng hình thức đối đáp với cặp đại từ nhân xưng “mình – ta”, ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, nhịp thơ uyển chuyển, sử dụng thể thơ dân tộc – thể thơ lục bát… Bài thơ cho chúng ta thấy nghĩa tình của người dân Việt trong những năm tháng khó khăn, gian khổ của cuộc chiến tranh, giành độc lập, tự do cho dân tộc.

Đoạn thơ đã khép lại nhưng lại để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng về hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh giản dị, đó là khói của bếp lửa, là hình ảnh suối đèo, bờ tre thân thuộc… Tất cả đã để lại một hoài niệm khó quên trong lòng người ra đi về cái nghĩa, cái tình của đồng bào thân thương cùng nhau chia sẻ miếng cơm, manh áo trong những giây phút ngặt nghèo, từ đó cũng cho thấy sự đoàn kết của hậu phương và tiền tuyến trong giai đoạn lịch sử thăng trầm bấy giờ. Nó cũng là lời nhắc nhở cho thế hệ hôm nay đang được sống trong hòa bình cần trân trọng lịch sử, trân trọng những thành quả của cha ông để lại, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc - mẫu 3

Tố Hữu từng nói: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên của tâm hồn con người”. Ở đó, những nỗi niềm sâu kín của trái tim mỗi thi nhân được thể hiện một cách độc đáo. Bởi vậy, ta có dịp bắt gặp nỗi nhớ niềm thương da diết của nhà thơ Tố Hữu gửi gắm tới quê hương cách mạng trong khổ bốn trích trong bài thơ “Việt Bắc”.

“- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...”

Năm 1954, khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết mở ra trang sử mới của cách mạng dân tộc. Các cơ quan trung ương Đảng dời quê hương cách mạng Việt Bắc - nơi cưu mang, che chở họ trong những năm kháng chiến để trở về xuôi tiếp quản thủ đô. Bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi là chất xúc tác chắp đôi cánh cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ. Giữa những năm tháng kháng chiến khói lửa, văn học trở thành vũ khí động viên tinh thần yêu nước của nhân dân, nhưng tiếng thơ Tố Hữu không giáo điều, đoạn thơ thấm đẫm nỗi nhớ người ở lại được gợi nhắc bởi người ra đi.

Thể thơ lục bát mềm mại, giọng điệu thiết tha, tâm tình cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc thường đi về trong những câu hát giao duyên trong buổi tình tự, hẹn hò, trai gái mở hội lòng gợi bầu không gian đậm chất trữ tình. Cụm từ “mình - ta” cũng trở đi trở lại trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng tư bàn việc chung đã mềm hóa nội dung chính trị. Ân nghĩa sâu nặng của đồng bào miền núi - cưu mang, che chở các chiến sĩ suốt mười lăm năm, được khẳng định như lời thề son sắt, mãi vẹn nguyên “đinh ninh, nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Mình” với “ta” tuy hai mà một kết hợp cách nói bình dị, sáng tạo nhắc nhớ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của ông cha làm câu thơ giàu nhạc tính.

Điệp từ “nhớ” gợi nỗi nhớ thương khôn nguôi đậm tô tình đồng chí, nghĩa đồng bào tạo nhịp chảy xuyên suốt dòng kỉ niệm ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” đậm hơi thở dân gian:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”

Nhà thơ mượn tình yêu đôi lứa thân thiết, đằm thắm để nói tình đồng đội với nhân dân một cách tự nhiên, thấm thía. Không gian người cất bước nhớ tới đều thấp thoáng hình bóng của người ở lại, bao trùm đồi núi, lưng nương, khoảng thời gian khi trăng lên, lúc chiều xuống. Nơi đây đất đã hóa tâm hồn người đi xuôi. Hình ảnh luyến lưu người ra đi còn là bản làng, sương, khói - cuộc sống êm đềm, mộng thơ của chốn núi non xa xôi:

“Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

Khắp mọi nơi đều để lại sợi nhớ, sợi thương hình dáng “người thương đi về”. Trong không gian ấm cúng của ánh lửa, giữa thời gian “sớm khuya” gợi sự tảo tần, bền bỉ, sự bền chí, vững lòng trong suốt cuộc chiến đấu. “Người thương” vừa có thể là chiến sĩ, đồng bào cùng lý tưởng, có thể là người mẹ, cô em gái… hình tượng gợi nhiều chiều liên tưởng, mà không khô khan. Tác giả còn liệt kê một số địa danh cụ thể “Ngòi Thia, sông Ðáy, suối Lê” - đó là những không gian vĩnh hằng, vơi đầy con nước như nỗi lòng đong đầy của người đi và kẻ ở những ngày tháng đậm nghĩa tình cùng trải qua bao đắng cay, ngọt bùi. Chính gian khổ đã trở thành chất lửa thử vàng để tình nghĩa quân dân cá nước thêm gắn bó, bền chặt, vượt lên mọi rào cản khoảng cách và thời gian để “ta” đi ta nhớ, “mình” ở mình chẳng thể quên. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Bên cạnh những địa danh Cách mạng, nhà thơ còn tiếp tục kể đến những kỷ niệm đẹp đẽ, đáng nhớ của đời sống thuở còn kháng chiến. Những hình ảnh thân thương, cảm động của tình sẻ chia nồng ấm “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi” đã gợi ra cái nghĩa tình đậm sâu, sự đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó của người Việt Bắc trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học i tờ”, “tiếng ca vang đầu núi”, “tiếng chày đêm nện cối” lại đưa dẫn tâm trí người đọc đến một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến, đó là những phút giây thanh bình, vui tươi tỏa ra từ niềm hạnh phúc, lạc quan Cách mạng.

Nhà thơ dụng công khắc họa nỗi nhớ niềm thương của cán bộ miền xuôi tới đồng bào miền núi, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ rung động vào lòng người. Bài thơ “Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kỳ gian khó mà huy hoàng của dân tộc.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc - mẫu 4

Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim”. Và tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người bởi những hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời. Bởi tình người thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong cách thơ Tố Hữu - một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi:

"Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu..."

Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự của người ở lại, người ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một lời thề. Cặp đại từ “ta - mình” hòa quyện quấn quýt với tấm lòng thủy chung gắn bó. "Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” nghĩa là không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Tiếp đến, câu thơ "Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu" vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn học dân gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề trước lời nhắn nhủ thiết tha của người ở "...nhìn sông nhớ nguồn". Cuộc chia tay của người dân Việt Bắc và con người kháng chiến cũng đầy bịn rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không muốn đã đâm lễ khi những cuộc chia tay trong văn học cổ:

"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai"

Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng, đó là cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng của ngày mai gặp lại.

Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt Bắc của về trong tâm trí người ra đi.

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một người đầy say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi "nhớ người yêu" một nỗi nhớ cháy bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ càng cồn cào da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức, của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm hai nửa thời gian: vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược - nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu. Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong tâm trí của người ra đi.

Theo mỗi điệp khúc "nhớ" là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác nhau. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló lương, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, những rừng nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi trong nỗi nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu, lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” là những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng - nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là động thái chuẩn bị trong một thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra "sớm khuya bếp lửa người thương đi về". Sự đối lập giữa cái lạnh và cấm cái trừu tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào với cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ, thương nhớ đến xót xa. Nhịp thơ mượt mà êm ái như người đọc vào những kỉ niệm bâng khuâng. đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Ở đây thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm "những mây cùng mù" nữa mà ấm áp, tươi vui. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ của thị vị, gợi rõ nét riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống gắn bó máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn diện của nỗi nhớ da diết da và cảm nhận sâu sắc đến thế. Như Chế Lan Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:

"Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn"

Trên phông nền thiên nhiên, Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con người thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thật thân thương mộc mạc gắn liền với kỷ niệm của một thời không thể nào quên. Việt Bắc để trở thành người yêu vì thương của tác giả và của những con người kháng chiến.

"Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi"

Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc đi nhiều khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn trở nên thật ấm áp biết bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn bó đồng hành bên nhau.

Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ, sự cân đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa ấy đã đánh thức dậy trong lòng người ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân keo sơn gắn bó, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu thơ êm ái là khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc - mẫu 5

Nỗi nhớ xưa nay luôn là một niềm cảm hứng, một hình ảnh nghệ thuật khơi gợi niềm thi hứng trong tâm hồn biết bao nhà thơ. Đó là một nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi” trong ca dao xưa, một nỗi nhớ thiết tha trong “Tương tư chiều” của Xuân Diệu hay nỗi nhớ “chín nhớ mười mong” trong thơ Nguyễn Bính. Đi vào thơ ca, nỗi nhớ mang rất nhiều sắc thái. Và ta cũng bắt gặp trong thơ Tố Hữu, trong bài thơ “Việt Bắc” một nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy rất riêng, rất đậm sâu, một nỗi nhớ đã được nhà thơ gửi gắm qua từng hình ảnh, ý thơ trong đoạn thơ thứ tư của bài.

Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam, đặc biệt là thơ ca Cách mạng dân tộc. Là một nhà thơ tâm huyết với vốn tài sản văn chương phong phú, đồ sộ, Tố Hữu đã từng phát biểu về quan niệm của mình rằng: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng, xác định thật rõ tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân… Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Đọc “Việt Bắc” ông viết năm 1954, ta cảm thấu rõ tư tưởng đó của nhà thơ. Trong tác phẩm, khổ thơ thứ tư nhà thơ thể hiện nỗi nhớ nhung da diết của người ra đi đối với mảnh đất, con người Tây Bắc với biết bao kỷ niệm được coi là một đoạn thơ đặc sắc, được nhiều người quan tâm.

Những câu thơ trong đoạn bốn là lời nhớ thương tha thiết của người ở lại:

“- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Nhà thơ Tố Hữu đã khắc họa sắc thái của nỗi nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ ấy là tình cảm chính trị. Nỗi nhớ ấy là tình cảm thủy chung ân nghĩa với cội nguồn, sự tri ân và niềm gắn bó với đồng bào Việt Bắc. Chủ đề chính trị thường bị coi là khô khan, tuy vậy nhà thơ Tố Hữu đã khéo léo gửi vào chủ đề ấy rất nhiều cung bậc cảm xúc trữ tình. Hình ảnh so sánh: “Nhớ gì như nhớ người yêu” đã đẩy cảm xúc lên đến tột độ của niềm dâng trào, qua đó mà bộc lộ tình cảm nồng nàn mãnh liệt của nỗi nhớ. Tình đồng chí đồng bào, tình quân dân thắm thiết bỗng mang sắc thái nồng thắm, trẻ trung hệt như tình yêu lứa đôi. Nỗi nhớ thương đã hội tụ hai nguồn cảm hứng trong ca dao: nỗi tương tư và niềm biệt ly. Có lẽ bởi vậy mà lời thơ càng trở nên thiết tha, chan chứa. Điệp từ “nhớ” ở đầu mỗi câu lục tựa như một đôi mắt nhìn sâu vào tâm trí của “mình” để thấy hình ảnh Việt Bắc, đất trời thiên nhiên và con người, hiện ra đầy tình thương mến thương, thân thuộc và nghĩa tình.

Những ý thơ tiếp theo nhà thơ Tố Hữu khéo léo chỉ ra địa chỉ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ dung da diết, dạt dào ấy trở về với một không gian, khoảnh khắc thời gian thơ mộng, trữ tình. Tựa hồ đó là những đêm trăng lên đầu núi, những chiều lắng đọng lưng nương, phảng phất một không gian hò hẹn của lứa đôi. Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp lửa. Bếp lửa, hình ảnh ấy đã gợi ra khung cảnh của một mái ấm nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. “Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê”, đó là một loạt các địa danh gắn với dấu ấn Cách mạng. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Không chỉ có những địa danh Cách mạng, nhà thơ còn tiếp tục kể đến những kỷ niệm đẹp đẽ, đáng nhớ của đời sống thuở còn kháng chiến. Những hình ảnh thân thương, cảm động của tình sẻ chia nồng ấm “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi” đã gợi ra cái nghĩa tình đậm sâu, sự đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó của người Việt Bắc trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học i tờ”, “tiếng ca vang đầu núi”, “tiếng chày đêm nện cối” lại đưa dẫn tâm trí người đọc đến một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến, đó là những phút giây thanh bình, vui tươi tỏa ra từ niềm hạnh phúc, lạc quan Cách mạng.

Đoạn thơ chính là những cung bậc cảm xúc khác nhau của đời sống kháng chiến biết bao kỷ niệm đã đọng lại trong tâm trí, ký ức người ra đi. Đó là những dấu khắc ghi không bao giờ phai, những dáng hình thân thuộc sẽ nhớ mãi và trân trọng mãi. Cảm nhận những cảm xúc, những hình ảnh của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ, ta hiểu đó cũng chính là những nghĩ suy, nỗi niềm tâm trạng của chính nhà thơ Tố Hữu và chia sẻ những cảm xúc đó với nhà thơ.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc - mẫu 6

“Việt Bắc” là khúc hùng ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng. Bài thơ đã khắc họa được tình cảm của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ cách mạng. Trong bài thơ, nổi bật lên là khổ thơ thứ bốn đã khắc họa nỗi nhớ về con người và thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những năm kháng chiến:

“- Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”

Để đáp lại ân tình của người ở lại, lời của người ra đi cũng tha thiết không kém. “ Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tách rời. Người ra đi khẳng định với người ở lại rằng "lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh". Hai từ "đinh ninh" dường như đã ghim chặt vào lòng người đọc một tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả. Dù hôm nay có chia xa để trở về miền xuôi, thì lòng của người ra đi vẫn không thay đổi. Với việc sử dụng hình ảnh so sánh “nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” cho thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy.

Kế tiếp, nỗi nhớ của cán bộ chiến sĩ dành cho đồng bào Việt Bắc được so sánh với nỗi nhớ người yêu. Một hình ảnh so sánh thật độc đáo bởi có nỗi nhớ nào mãnh liệt và tha thiết bằng nỗi nhớ của những người yêu nhau. Ca dao xưa từng có câu:

"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than"

Hay:

"Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?"

Thế mới thấy được tình cảm sâu sắc của chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Tuy họ chưa chia xa mà đã nhớ về nhau với tấm lòng sâu sắc đến chừng nào. Câu thơ tiếp theo được chia ra làm hai vế: “trăng lên đầu núi” - gợi thời gian hò hẹn của đôi lứa yêu nha và “nắng chiều lưng nương” - gợi không gian lao động của người Việt Bắc. Câu thơ như gợi ra cuộc sống lao động chứa chan tình cảm yêu thương, gắn bó.

Người ra đi tiếp tục nhớ về những kỉ niệm trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cùng với đồng bào Việt Bắc. Nỗi nhớ về bản làng ẩn hiện trong sương khói mờ ảo. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” gợi về một miền Việt Bắc đầy ấm áp, thân thương của “bếp lửa”. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, nhà thơ đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” cùng với hai tiếng “vơi đầy” khép lại đoạn thơ gợi ra những kỉ niệm chứa chan yêu thương: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào. Cuối cùng là với cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người ra đi dành cho những người ở lại hay của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm.

Với khổ thơ này, Tố Hữu đã thể hiện được nỗi nhớ của người ra đi dành cho người ở lại trước những kỉ niệm trong đời sống kháng chiến sẽ mãi lưu lại trong tâm trí của cán bộ chiến sĩ.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc - mẫu 7

Đến với bài thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu, người đọc sẽ cảm nhận được tình cảm quân dân giữa đồng bào Việt Bắc và những chiến sĩ cách mạng. Và điều đó được thể hiện vô cùng sâu sắc qua khổ thơ thứ bốn của bài thơ.

Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồn chồn, xúc động. Tất cả điều đó đã khơi dậy rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của người chiến sĩ. Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly trở nên bịn rịn, lưu luyến hơn bao giờ hết. Nó như một sợi dây níu kéo người ở và người đi. Mười lăm năm dài đằng đẵng đã gắn kết người với người lại với nhau. Họ đã cùng nhau chung sống, cùng nhau trải qua biết bao khó khăn, chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, manh áo để đến giờ phút chia ly cảm xúc trào ra thành câu chữ:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Lúc này, “ta với mình” - “mình với ta” như hòa quyện làm một, cộng hưởng cùng nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” như một sự khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì có thể thay thế được dù có trải qua bao nhiêu thời gian, hay xa cách về không gian. Nếu n guồn với nước dào dạt bao nhiêu thì ta với mình nghĩa tình sâu nặng bấy nhiêu: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Phép tu từ điệp cấu trúc kết hợp với điệp ngữ đặt ở đầu câu: nhớ gì, nhớ từng… khẳng định người ra đi không quên bất cứ một hình ảnh nào ở Việt Bắc, ở thiên nhiên Việt Bắc và ở con người nơi đây.

Nỗi nhớ ấy được khéo léo so sánh với nỗi nhớ người yêu:

"Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương"

Việc so sánh như vậy giúp người ra đi bộc lộ một tình cảm mãnh liệt, sâu sắc dành cho đồng bào Việt Bắc. Tình quân dân bỗng trở nên thắm thiết như tình yêu lứa đôi.

Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã chỉ ra những đối tượng của nỗi nhớ:

"Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…"

Nhà thơ Tố Hữu khéo léo chỉ ra những đối tượng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ về một miền không gian, hay thời gian nào đó đầy thơ mộng, trữ tình. Đó là những “đêm trăng đầu núi”, những “nắng chiều lắng lưng nương” gợi ra không gian, thời gian hẹn hò của đôi lứa yêu nhau. Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp lửa. “Bếp lửa” - hình ảnh gợi ra khung cảnh của một mái nhà ấm cúng nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. Họ dường như đã trở thành gia đình, người thân đối với “người ra đi”. Kế tiếp là các địa danh: “Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê” - các địa danh gắn với dấu ấn Cách mạng. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Sau đó người ra đi như muốn khẳng định lại một lần nữa: “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm.

Trong cuộc sống đó, người ra đi và người ở lại đã “chia sẻ ngọt bùi” - biết bao cay đắng, ngọt ngào đã cùng trải qua. Với một loạt những h ình ảnh gợi ra sự sẻ chia nồng ấm của tình cảm quân dân mà như tình cảm gia đình: “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi”. Họ đã cùng nhau đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó, cùng giúp đỡ nhau trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn.

Tóm lại, đọc khổ thơ thứ tư của bài thơ Việt Bắc, người đọc đã thấy được một nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi dành cho người ở lại trước cuộc chia ly đầy lưu luyến này.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc - mẫu 8

Tố Hữu, bậc thầy của thơ ca Cách mạng Việt Nam, đã sáng tác nên tác phẩm cao quý “Việt Bắc”. Trong đó, khổ thứ tư là điểm nhấn về lòng thủy chung của người chiến sĩ và nỗi nhớ sâu sắc về vùng đất huyền bí Việt Bắc. Tác giả giỏi dùng ngôn ngữ sống động, hình ảnh sinh động để diễn đạt tình cảm, văn chương sâu sắc của mình.

Trong những ngày khó khăn của cuộc chiến chống Pháp, khi Trung ương Đảng và Chính phủ phải rời bỏ Hà Nội, người cán bộ và chiến sĩ chia tay với nơi quê thân thương. Sau khi ký hiệp định Giơ-ne-vơ, khi miền Bắc độc lập, Tố Hữu đã tả lại những cảm xúc, những kỷ niệm của người ra đi và người ở lại qua bài thơ 'Việt Bắc'. Tác phẩm là biểu tượng của lòng trung hiếu và tình quân dân gắn bó chặt chẽ.

Bốn câu thơ đầu của khổ bốn là sự khẳng định vững chắc về tình nghĩa và lòng thủy chung của người ra đi:

“Mình và ta, ta và mình

Lòng ta, trước sau, mặn mà và đinh ninh

Mình đi, lòng lại ghi nhớ mình

Dòng nước chảy bao la, tình yêu lớn không lẽ là vô tận”

Tránh xa những từ ngữ phổ biến, khi đồng đội và những chiến sĩ gọi nhau như người tri kỷ, hòa mình vào bản ngữ “mình” và “ta”. Hai từ này, dù khác biệt, lại gắn bó mật thiết. “Mình” đôi khi là “ta”, và ngược lại. Tình cảm như dòng thác, không ngừng chảy và liên kết. Câu thơ “Trái tim sau trước chân thành, vững vàng như cây cỏ” thể hiện sự chung thuỷ, tình cảm đặc biệt như nước nguồn không bao giờ cạn kiệt. Những cặp từ đối xứng “bao la” – “vô tận” là biểu tượng cho sự mãnh liệt, không ngừng của tình yêu và nhớ nhung.

Kỷ niệm ngọt ngào như hương vị của người yêu

Bình minh rực sáng đỉnh núi, hoàng hôn ôm trọn bóng dáng quê hương

Hồi ức mỗi hơi khói kèm theo giọt sương mỏng

Bếp lửa khuya sáng rực, người thương trở về

Nhớ những cánh rừng ven bờ, nơi bờ tre mênh mông

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê hòa quyện thành bản nhạc ngọt ngào

Cả ba cặp thơ lục bát khám phá “nhớ”, làm bừng tỉnh cảm xúc về vùng đất Việt Bắc thanh bình, êm đềm. Tình cảm này nồng nàn, hồng ngoại, như “nhớ người yêu”. Tác giả mô tả hùng vĩ những địa điểm, khung cảnh, đưa ta đắm chìm vào không gian của núi rừng bao la. Việt Bắc thơ mộng, trăng tròn bàng bạc nơi đỉnh núi, ấm áp dưới ánh nắng chiều trải đều trên rẫy. Bản làng hòa mình trong khói bếp chiều và làn sương huyền bí, làm say đắm trái tim. Người dân Việt Bắc trở thành “người thương”, những cảnh quen thuộc như “rừng nứa”, “bờ tre”, “Ngòi Thia”, “sông Đáy”, “suối Lê” khắc sâu nỗi nhớ.

Trả lời câu hỏi trước đó, “Mình đi có nhớ những ngày”, người ra đi đáp lại “Ta đi ta nhớ những ngày/Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”. Cả người ra đi và người ở lại đều đã trải qua những khoảnh khắc chia sẻ “đắng cay ngọt bùi” trong thời kỳ đầy thách thức chống Pháp. Điều này làm nên tình đồng lòng, tình quân dân gắn bó thêm, khắc sâu thêm sự thân thiết. Điều này cũng làm cho người ra đi do dự, không muốn rời xa Việt Bắc.

“Việt Bắc” thành công không chỉ ở nội dung ý nghĩa mà còn ở nghệ thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng thể thơ lục bát dân dụ cùng với lời thơ đậm chất ca dao, dân ca. Hình ảnh trong bài thơ giản dị, gần gũi, dễ hiểu. Những yếu tố này giúp tác phẩm trở nên thân thiện, dễ tiếp cận với độc giả mọi lứa tuổi.

Trong bốn khổ thơ, Tố Hữu làm nổi bật tình cảm thủy chung, sâu sắc của người cán bộ chiến sĩ khi trở về. Họ ghi nhớ những khung cảnh yên bình và tình cảm trong những năm chiến đấu cùng bà con dân nơi núi rừng Việt Bắc. Mối quan hệ thân thiết, gắn bó giữa quân và dân như người nhà là điểm đặc biệt. Điều này làm cho người ra đi do dự, khó lòng rời xa Việt Bắc.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc - mẫu 9

Việt Bắc, đại diện cho sự anh hùng và hào hùng, là một tình khúc ngọt ngào, thiêng liêng về tình nghĩa quân dân trong cuộc chiến tranh. Đặc biệt, ở khổ thứ tư, Tố Hữu đã thể hiện tình cảm gắn bó, lòng trung hiếu, và sự son sắt giữa những người ra đi và những người ở lại; những chiến sĩ cách mạng với con người và vùng đất chiến khu.

Sử dụng lối đối đáp của ca dao và cách diễn đạt qua 'mình-ta', Tố Hữu không chỉ mở ra trước mắt độc giả bức tranh của sự chia ly, mà còn mang đến tâm trạng ngọt ngào, tha thiết như lời tâm sự:

'Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...'

'Ta với mình, mình với ta' nhưng là một, câu thơ tôn vinh sự đồng lòng, thống nhất trong tình cảm của người ra đi và người ở lại. Câu thơ là bản hồi đáp chặt chẽ về tình cảm mặn mà, thủy chung 'sau trước'. Những gắn bó với con người và vùng đất chiến khu sẽ mãi sống động trong trái tim, tâm hồn của những chiến sĩ cách mạng, không bao giờ phai nhạt. So sánh 'Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu' làm bộc lộ tấm lòng, tình cảm sâu sắc của người ra đi. 'Nguồn' là nguồn cội của dòng nước, luôn dồi dào, mạnh mẽ, không bao giờ cạn kiệt, giống như tình cảm không ngừng sục sôi, đong đầy của người cách mạng. So sánh tự nhiên, giản dị nhưng thành công khơi dậy những cảm xúc ấm áp, chân thành của người ở lại.

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Tiếp theo, Tố Hữu thể hiện nỗi nhớ, tình thương qua những câu thơ ngọt ngào, giàu hình ảnh. Nỗi nhớ không thể diễn tả bằng lời, nhà thơ đã cụ thể hóa qua một cảm xúc cụ thể 'như nhớ người yêu'. So sánh độc đáo, gợi những liên tưởng thể hiện được tình cảm sâu sắc, trào dâng trong lòng mỗi chiến sĩ khi chia tay vùng đất chiến khu để quay về. Hình ảnh 'Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương' không chỉ mở ra bức tranh đẹp của núi rừng Việt Bắc mà còn khéo léo diễn tả nỗi nhớ luôn sục sôi, thường trực ngày đêm, bao trùm không gian và thời gian.

Rời xa Việt Bắc, nhưng những hình ảnh thân quen của cuộc sống, con người vẫn đong đầy trong trái tim những chiến sĩ trẻ. Làn khói bảng lảng, không gian mờ sương núi rừng, hơi ấm bếp lửa, hình ảnh người thương 'sớm khuya bếp lửa người thương đi về'. Nỗi nhớ cụ thể qua những hình ảnh, địa danh quen thuộc: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê...Từ 'vơi đầy' trong câu thơ 'Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy' được sử dụng khéo léo, không chỉ gợi ra cái đong đầy của nước suối mà còn là cái đong đầy của tình cảm trong tâm hồn người ra đi.

Nhấp bước, hồi ức ùa về những tháng ngày

Ở đây, ẩn chứa niềm buồn, hương vị đắng ngát...

Quay trở về vùng Nam, những chiến sĩ không chỉ nhớ về bức tranh quen thuộc của núi rừng, mà còn đem theo những kí ức gắn bó trong những khoảnh khắc khó khăn nhất. 'Đắng ngọt, chát ngất' là những thử thách, cống hiến mà họ cùng con người miền Bắc đã trải qua. Tình cảm được củng cố trong bối cảnh gian nan trở nên quý giá hơn bao giờ hết, vì chỉ khi gặp khó khăn mới thấu hiểu đến sự chân thành.

Bằng thể thơ lục bát đậm nét dân tộc kết hợp với lối diễn đạt thân thuộc trong ca dao, nhà thơ Tố Hữu đã tạo ra bức tranh đậm sắc màu về tình cảm trung thành giữa người ra đi và người ở lại. Đó là những tình cảm xây dựng từ lòng chân thành, sự gắn bó trong những thời kỳ khó khăn nhất của cả dân tộc, vì thế dù có chia xa về địa lý, về không gian, tình cảm của người ra đi vẫn luôn hồn nhiên, bốc cháy như ngọn lửa.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học