10+ Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (điểm cao)
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (mẫu 1)
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (mẫu 2)
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (mẫu 3)
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (mẫu 4)
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (mẫu 5)
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (mẫu 6)
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (mẫu 7)
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (mẫu 8)
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (mẫu 9)
- Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (các mẫu khác)
10+ Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập (điểm cao)
Dàn ý Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập
1. Mở bài
- Tóm lược về Hồ Chí Minh bao gồm cuộc đời, công cuộc cách mạng và đóng góp trong văn học.
- Phân tích tổng quan về ngữ cảnh sáng tác, ý nghĩa lịch sử và giá trị văn học của Tuyên ngôn độc lập.
2. Thân bài
* Cơ sở pháp lý của Tuyên ngôn độc lập
- Hồ Chí Minh lấy hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp làm cơ sở pháp lý cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam:
+ Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: "Tất cả mọi người ... quyền mưu cầu hạnh phúc."
+ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: "Người ta sinh ra tự do ... bình đẳng về quyền lợi."
- Ý nghĩa:
+ Hành động này thể hiện sự tôn trọng và sử dụng hai bản tuyên ngôn có giá trị, được thế giới công nhận làm cơ sở pháp lý không thể chối cãi.
+ Thực hiện phương pháp "gậy ông đập lưng ông", Hồ Chí Minh sử dụng tuyên ngôn của Pháp để phản bác lại chúng, ngăn chặn âm mưu tái xâm lược của chúng.
+ Bằng cách đặt ngang hàng cuộc cách mạng và giá trị bản tuyên ngôn của Việt Nam với hai cường quốc Mỹ và Pháp, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
+ Hồ Chí Minh lập luận chặt chẽ và sáng tạo khi từ quyền con người như tự do, bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc, "suy rộng ra" để thể hiện quyền tự do bình đẳng của mọi dân tộc trên thế giới.
* Cơ sở thực tiễn của Tuyên ngôn độc lập
- Phơi bày tội ác của thực dân Pháp:
+ Đưa ra sự thật về chiến dịch "khai hóa" của thực dân Pháp, nhấn mạnh vào việc thi hành nhiều chính sách tàn bạo trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa - xã hội - giáo dục và kinh tế.
+ Phân tích bản chất của cuộc "bảo hộ" của Pháp, đặc biệt là hai lần bán nước Việt Nam cho Nhật vào các năm 1940 và 1945, gây ra thảm họa đói kém cho hơn hai triệu dân Việt.
+ Lên án mạnh mẽ hành động phản bội của Pháp đối với Đồng minh, không chỉ từ chối hợp tác với Việt Minh mà còn tấn công khủng bố vào các hoạt động của Việt Minh.
- Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam:
+ Nhân dân Việt Nam đã chống đối ách nô lệ trong hơn 80 năm, đứng về phía Đồng minh để chống lại phát xít, và kêu gọi Pháp đối mặt với sự xâm lược của Nhật, từ đó giành lại quyền tự chủ cho đất nước từ tay Nhật.
+ Kết quả của cuộc đấu tranh là việc đồng loạt phá tan ba "xiềng xích" đang trói buộc dân tộc Việt Nam (Pháp chạy trốn, Nhật đầu hàng và vua Bảo Đại thoái vị), mở ra hành trình xây dựng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
* Lời tuyên bố độc lập và ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc
- Sử dụng từ ngữ phủ định để tuyên bố hoàn toàn giải thoát khỏi sự chi phối của thực dân Pháp, hủy bỏ mọi hiệp ước đã kí kết và mọi đặc quyền của Pháp tại Việt Nam.
- Dựa vào các điều khoản về nguyên tắc dân tộc bình đẳng được quy định tại Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam.
- Tuyên bố với thế giới về quyền tự do của dân tộc Việt Nam: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do...". Điều này thể hiện quyết tâm của quốc gia trong việc giữ vững chủ quyền, độc lập và tự do của dân tộc.
- Văn phong mạnh mẽ, rõ ràng như một lời thề và là nguồn động viên tinh thần cho toàn bộ nhân dân yêu nước.
3. Kết bài
- Trình bày về giá trị nghệ thuật:
+ Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm văn chính luận mẫu mực, nổi bật với lập luận chặt chẽ, sức thuyết phục mạnh mẽ và dẫn chứng xác thực.
+ Sử dụng ngôn ngữ hùng hồn, gần gũi và giàu tính biểu cảm, tạo nên sức hút và ấn tượng sâu sắc đối với độc giả.
- Đánh giá về giá trị nội dung:
+ Tuyên ngôn độc lập không chỉ mang giá trị văn học mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, ý chí kiên định trong cuộc chiến chống quân xâm lược.
+ Nó nêu cao truyền thống tự hào dân tộc và đánh dấu một mốc son quan trọng trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn nhà một nhà nghệ thuật đầy tài năng. Bác đã để lại cho kho tàng văn học nước ta hàng loạt những tác phẩm có giá trị. Bác viết văn, viết thơ không chỉ để thỏa mãn niềm đam mê dành cho văn chương mà những tác phẩm ấy có một vai trò rất quan trọng với kháng chiến, với cách mạng. Một trong những áng văn mà người để lại có giá trị đến mãi sau này chính là "Tuyên ngôn độc lập" - một tác phẩm chính luận đầy mẫu mực, một văn kiện lịch sử vô cùng quan trọng đánh dấu bước chuyển mình lịch sử của dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Bản "Tuyên ngôn độc lập" được được viết vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, khi Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội và nhanh chóng soạn thảo tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang. Tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập. Để tạo nên một áng văn chính luận đầy mẫu mực, Hồ Chí Minh đã sử dụng những lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép và những bằng chứng xác thực không thể chối cãi. Áng văn này còn chất chứa cả một tấm lòng yêu nước sâu sắc, một niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ, một sự khát khao độc lập tự do đến cháy bỏng và ý chí quyết tâm để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc của Bác.
Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những lý lẽ đầy thuyết phục từ những văn kiện lịch sử mà các quốc gia lớn đã từng tuyên bố để làm cơ sở cho bản tuyên ngôn của mình. Người đã đưa ra một đoạn trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đây là những quyền lợi chính đáng mà ai cũng được hưởng, là những quyền lợi bất khả xâm phạm. Từ đây, Bác đã nhấn mạnh, khẳng định chắc chắn rằng "tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Điều này có nghĩa là không riêng dân tộc nào, mà tất cả các dân tộc trên toàn thế giới đều cần và xứng đáng được đối xử công bằng, hưởng các quyền vốn dĩ được hưởng. Để những lý lẽ được thuyết phục hơn, Bác đã tiếp tục trích dẫn một đoạn trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do về bình đẳng và quyền lợi". Trích dẫn này đã tiếp tục bổ sung và khẳng định rằng không chỉ riêng Bác hay nước Mỹ, mà nước Pháp cũng đồng tình với quan điểm này. Tại sao Bác Hồ lại lựa chọn những lý lẽ trong Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp mà không phải là một quốc gia nào khác? Bởi lúc bấy giờ đó là hai đế quốc hùng mạnh bậc nhất, lại mang tư tưởng tiến bộ. Nếu như trên thế giới đã công nhận các quyền cơ bản của hai quốc gia này thì cũng sẽ phải công nhận các quyền đó với Việt Nam. Hơn nữa, một trong hai nước đó chính là kẻ thù xâm lược ta, điều này như đã giáng một đòn vào âm mưu cũng như thứ luận điệu xảo trá của kẻ thù khi đang nhòm ngó và muốn quay lại xâm lược ta lần nữa. Bên cạnh đó, khi đặt bản tuyên ngôn của nước ta ngang hàng với bản tuyên ngôn của hai cường quốc thì lại càng tăng thêm sự thuyết phục. Điều đó càng chứng tỏ rằng nền độc lập của dân tộc ta là có căn cứ chính đáng đầy sức thuyết phục. Cuối cùng, Người đã sử dụng một câu ngắn gọn nhưng đầy sức nặng để kết lại: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Chỉ với một câu văn ngắn nhưng cho chúng ta thấy được một sự quyết liệt trong cách viết của Bác và hiện lên trong đó là một khát khao đem về cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam sự tự do, bình đẳng giống như các quốc gia khác trên thế giới vậy. Những dẫn chứng, lý lẽ được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn đầy sức thuyết phục đã có những tác động mạnh mẽ đến toàn dân tộc, đồng thời ngầm phê phán những hành động xảo trá, đi ngược lại với những gì cha ông đã lập ra của người Pháp cũng như gợi sự ủng hộ của nhân dân Pháp và các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Sau khi đưa ra những lý lẽ ấy, Bác đã làm cho chúng trở nên thuyết phục hơn bằng cách vạch trần bộ mặt thật của thực dân Pháp bằng những chứng cứ rõ ràng: "Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng khác hẳn với nhân đạo và chính nghĩa". Trước hết, chúng đã tước đi những tự do về chính trị của dân tộc Việt Nam "tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút quyền tự do dân chủ nào...", "chúng thẳng tay chém giết những người tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng", "chúng thi hành những luật pháp dã man", "chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết"... Về kinh tế, chúng đã "bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều", rồi chúng đưa ra biết bao nhiêu nhưng thứ sưu thuế vô lý, chèn ép nhân dân ta đến bước đường cùng. Chao ôi những tội ác tày trời của Pháp đã được Bác liệt kê ngắn gọn nhưng đầy chân thực, sắc bén đã cho chúng ta thấy được những hành động tàn ác, không có tính người đáng lên án của chúng. Bác đã xé toạc cái lớp mặt nạ giả dối của sự "khai hoá" mà bao lâu này chúng sử dụng để bịp bợm, để giấu đi sự tàn bạo, xấu xa của chúng.
Bên cạnh việc bóc trần luận điệu "khai hóa" ấy, Hồ Chủ tịch lại tiếp tục bác bỏ sự "bảo hộ" xảo trá để che đậy những âm mưu bẩn thỉu của bọn thực dân Pháp. Bác đã nêu ra dẫn chứng đầy thuyết phục về việc dù có tiếng bảo hộ thế nhưng sự thật là Pháp đã hai lần dâng nước ta cho phát xít Nhật trong vòng 5 năm. Điều này dẫn đến hậu quả vô cùng đau thương, khiến cho hơn 2 triệu đồng bào ta đã bị chết đói. Chúng còn từ chối việc liên minh với ta chống Nhật dù mang tiếng bảo hộ, chúng quay lại khủng bố, đàn áp khiến cho quân và dân ta tổn thất nặng nề...Chỉ với bấy nhiêu dẫn chứng, Bác đã xé tan đi cái mặt nạ của sự 'khai hoá" và "bảo hộ", cho tất cả đều thấy được bộ mặt giả nhân giả nghĩa của kẻ thù. Đến cuối cùng, Bác một lần nữa nhấn mạnh rằng: "Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà" và "Sự thật là nhân dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp". Điều này đã thêm một lần nữa xác thực việc nước Việt Nam không hề nhận sự khai hoá hay bảo hộ từ Pháp, hoàn toàn tách biệt với Pháp.
Sau khi đã đưa ra những lý lẽ và các luận điểm đầy sức thuyết phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!". Ở đây Người đã sử dụng những lời lẽ đầy hùng hồn, kết cấu trùng lặp để liên tục xoáy sâu vào độc lập và tự do của dân tộc. Những lời lẽ ấy xuất phát từ một trái tim yêu nước, yêu dân đến nồng nàn, yêu chuộng hòa bình, ghét chiến tranh. Đó còn là những khao khát cháy bỏng không chỉ của riêng Người mà của toàn dân tộc Việt Nam, muốn cả thế giới biết được rằng Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh thổ và toàn bộ người dân Việt Nam đều có thể hi sinh tất cả để bảo vệ thứ thiêng liêng, cao quý ấy.
Như vậy, bản Tuyên Ngôn độc lập với một hệ thống luận điểm, luận cứ đầy thuyết phục thật xứng đáng là một áng văn chính luận xuất sắc. Bên cạnh đó, đây còn là một văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đánh dấu một bước ngoặt vô cùng vĩ đại trong lịch sử dân tộc - một cánh cửa mở ra một kỉ nguyên của độc lập, tự do và dân chủ ở nước ta.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 2
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo thiên tài, mà còn là anh hùng đã giải phóng dân tộc và đất nước Việt Nam khỏi xiềng xích nô lệ. Ngài cũng là một nhà thơ, nhà văn vĩ đại của dân tộc, để lại nhiều tác phẩm xuất sắc trên nhiều thể loại. Trong số đó, bản “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 được coi là một tác phẩm nổi bật, tiêu biểu cho văn chính luận của Người.
Ngay từ phần mở đầu của tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh đã khéo léo xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc về quyền con người và quyền dân tộc. Ngài thông minh khi trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ, nhấn mạnh quyền bình đẳng và tự do. Bằng cách này, Người không chỉ giữ tính khách quan của bản tuyên ngôn mà còn thể hiện tôn trọng và trân trọng đối với giá trị nhân quyền. Hơn nữa, trích dẫn này nhấn mạnh sự sáng tạo và lập luận sắc bén của Hồ Chí Minh, đồng thời đánh mạnh vào âm mưu xâm lược của kẻ thù. Đặc biệt, phần mở đầu thể hiện rõ tài năng và sự sáng tạo của Người khi kết hợp quyền con người trong hai bản tuyên ngôn để suy luận quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.”
Hồ Chí Minh tỏa sáng đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình- Hà Nội
Không chỉ nêu lên cơ sở pháp lí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát ngôn về hiện thực của bản tuyên ngôn. Diễn đạt từ phần thứ nhất đến phần thứ hai, Người tài tình sử dụng ngôn từ “thế mà”, mở đầu cho sự đối lập giữa lý lẽ và hành động của thực dân Pháp. Từ đó, Người chi tiết và sắc bén chỉ trích tội ác của thực dân Pháp tại Việt Nam. Bằng cách sử dụng phương pháp liệt kê, Người đề cập rõ tội ác man rợn của thực dân Pháp từ lĩnh vực chính trị đến kinh tế. Trong chính trị, họ áp đặt các “luật pháp dã man”, tạo ra “ba chế độ khác nhau ở ba miền Bắc Trung Nam” để phân chia dân tộc, “xây thêm nhà tù hơn trường học”, và “kiểm soát ý kiến cộng đồng”... Liệt kê này không chỉ đảm bảo tính khách quan của bản tuyên ngôn mà còn thể hiện sự tôn trọng và trân trọng đối với giá trị nhân quyền. Ngoài ra, Người tài năng khi sử dụng chiến thuật “gậy ông đập lưng ông”, nhấn mạnh vào độc ác của thực dân Pháp và ám chỉ âm mưu xâm lược của họ. Cuối cùng, Người khéo léo kết hợp quyền con người trong hai bản tuyên ngôn để suy luận quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.”
Dựa trên cơ sở pháp lí và hiện thực đã đề cập, phần cuối của tác phẩm là lời tuyên bố độc lập. Lời tuyên ngôn ngắn gọn nhưng mạnh mẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Việt Nam đã “hoàn toàn thoát li khỏi quan hệ với Pháp, hủy bỏ mọi hiệp ước và đặc quyền của Pháp trên đất nước”. Đồng thời, Người tuyên bố Việt Nam là một quốc gia tự do, độc lập. Lời tuyên ngôn ngắn gọn nhưng thể hiện quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam.
Tóm lại, qua lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén cùng những chứng cứ thuyết phục, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh dấu một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. Bằng cách này, Người không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nội dung của tuyên ngôn mà còn khẳng định vị thế nổi bật của tác phẩm, được xem là “văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại”.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhà lãnh đạo tuyệt vời, đã thể hiện toàn bộ lòng trung hiếu và phẩm cách cao quý trong sự nghiệp đa dạng của Người, từ cách mạng đến quân sự, ngoại giao, giáo dục, văn hóa,... Trong đó, sự nghiệp văn chương của Người đóng vai trò quan trọng, là điểm đặc biệt khi nói đến tư tưởng đạo đức và phong cách của Người. Người viết văn không chỉ để làm hài lòng sự tinh tế của giới văn nghệ, mà còn để phục vụ chiến tranh giành độc lập và cách mạng thành công. Văn thơ của Người đã đồng hành và hỗ trợ mọi nỗ lực cách mạng trong suốt cuộc đời. Một trong những tác phẩm nổi bật của Hồ Chí Minh, đánh dấu một sự kiện quan trọng cho độc lập quốc gia, chính là bản Tuyên ngôn độc lập. Người tuyên bố nó vào ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khởi nguồn cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Đảng nhanh chóng phát động nổi dậy giành chính quyền từ tay Nhật. Bác Hồ, sau thành công của Tổng khởi nghĩa, trở về Hà Nội và soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập tại nhà số 48, phố Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945, Bác Hồ tuyên đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chấm dứt hơn 80 năm nô lệ, giành lại độc lập từ Pháp và Nhật. Bản tuyên ngôn còn là lời công kích mạnh mẽ đến thù địch, khích lệ dân tộc và các quốc gia bị áp bức trên thế giới đấu tranh cho độc lập, tự do.
Tuyên ngôn độc lập không chỉ là một văn kiện lịch sử quan trọng mà còn là một tác phẩm văn chính luận xuất sắc với luận điểm chặt chẽ, súc tích. Bác Hồ thể hiện tài năng văn chính luận và thơ ca trữ tình chính trị.
Bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố sự khai sinh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong tác phẩm này, Bác Hồ lấy cơ sở pháp lý từ các văn kiện lịch sử nổi tiếng như Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp để chứng minh rằng tất cả các dân tộc đều xứng đáng với quyền bình đẳng, tự do, và mưu cầu hạnh phúc. Luận điểm của Bác Hồ đưa ra là không thể chối cãi.
Sau khi tuyên bố tính công bằng của pháp luật, Bác Hồ tiếp tục bẻ gãy âm mưu và luận điệu xảo trá của thực dân Pháp. Bằng những chứng cứ rõ ràng, Bác lên án hành động ác ý của Pháp trong chính trị, kinh tế và văn hóa, đồng thời vạch trần những chiêu bẩn của chúng. Bằng sự sắc bén và thông thái, Bác đối phó mọi cố gắng của Pháp trong việc xâm chiếm và đồng hóa dân tộc ta.
Bác Hồ nhanh chóng bác bỏ luận điệu “bảo hộ” của thực dân Pháp bằng chứng cứ thuyết phục. Bác chỉ ra rằng, dù tỏ ra bảo hộ, nhưng thực tế Pháp đã hai lần đầu hàng cho phát xít Nhật, khiến hơn 2 triệu người Việt chịu đói và thậm chí bị tàn sát. Bằng cách này, Bác làm cho luận điệu “bảo hộ” của Pháp trở nên vô nghĩa và hèn mọn.
Sau khi làm sáng tỏ cơ sở pháp lý và đưa ra cơ sở thực tiễn với lý lẽ và quan điểm ngắn gọn, Bác Hồ tập trung tuyên bố độc lập và tự do của Việt Nam. Bằng lời lẽ hùng hồn và sắc bén, Bác khẳng định quyết tâm của toàn dân Việt Nam giữ vững độc lập và tự do, thể hiện lòng yêu nước và mong muốn hòa bình của nhân dân.
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh không chỉ là tác phẩm văn xuất sắc với lập luận sắc sảo, mà còn là văn kiện lịch sử quan trọng. Bác khẳng định độc lập của dân tộc sau hơn 80 năm chịu áp bức, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc, đánh dấu sự xuất hiện của kỷ nguyên độc lập, tự do và tự chủ.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 4
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo cách mạng tuyệt vời mà còn là một nhà văn nghệ thuật tài năng của cả dân tộc. Bác vừa thể hiện sự cổ điển vừa mang đậm tinh thần hiện đại, sáng tạo và đầy tầm nhìn tư tưởng. Trong thơ trữ tình, những bài thơ của Người tràn ngập niềm lạc quan và tinh thần tự do, phóng khoáng. Trong văn học chính luận, Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm mẫu mực của Bác, chứa đựng tình cảm sâu sắc, tư tưởng phản ánh thời đại và vẻ đẹp tinh tế của dân tộc Việt Nam.
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước chúng ta bước vào kỷ nguyên mới, thời kỳ của độc lập và tự do. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đối mặt với những thách thức khó khăn khi bị thực lực và đế quốc lợi dụng danh nghĩa quân Đồng minh để âm mưu xâm lược lần nữa. Đúng vào thời điểm đó, vào ngày 2-9-1945 tại Quảng Trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, mở ra trang mới của lịch sử với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây thực sự là một tuyên ngôn dành cho nhân dân Việt Nam, cũng như toàn thế giới và cộng đồng quốc tế.
'Hỡi anh chị em cả nước, Mọi người đều được sinh ra bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền không thể xâm phạm được; trong những quyền đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc'.
'...Mọi người được sinh ra đều tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn duy trì sự bình đẳng đó'.
Hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1976 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1971 đã được Bác trích dẫn một cách thông minh. Đó là hai văn bản quan trọng trên thế giới, khi mà lịch sử đã chứng minh giá trị vô song của quyền con người. Đó là những chân lý mang ý nghĩa to lớn. Bác đã sử dụng nghệ thuật tâm lý 'gậy ông đập lưng ông'. Âm mưu của Mĩ và Pháp bị ngăn chặn bởi những tuyên ngôn và lời dạy của tổ tiên. Nếu họ xâm phạm quyền tự do của dân tộc ta, họ sẽ đối mặt với sự phản đối của chính lý lịch sử. 'Đây là một lời nói không thể phủ nhận', Bác khẳng định quan điểm vững vàng, kiên quyết của dân tộc ta. Đồng thời, khi trích dẫn hai bản tuyên ngôn này, tác giả đã thể hiện sự khôn ngoan khi tôn trọng những tuyên ngôn bất hủ, đồng thời sử dụng lý lẽ của chúng để đối mặt với âm mưu xâm lược của Đế quốc. Ba bản tuyên ngôn và ba cuộc cách mạng đều nằm ngang hàng, mang tầm vóc lớn của thế giới. Như một động lực mạnh mẽ, đánh bại cuộc chiến của các nước thuộc địa chống lại thực dân trên toàn cầu, tác giả đã đưa ra những lập luận sắc bén, tinh tế và chứa đựng tình cảm lớn lao đối với nhân dân.
Số 48 phố Hàng Ngang - Nơi Bác tạo nên Tuyên ngôn Độc lập
Sau khi đề cập đến cơ sở pháp lý của Tuyên ngôn, Bác đi sâu vào cơ sở thực tế, những sự kiện lịch sử và bằng chứng sống trong hơn nửa thế kỷ chiến đấu của nhân dân. Đây là những lập luận thuyết phục vì chúng được chứng minh bằng thực tế, được nhân dân chứng kiến và tham gia, tạo nên động lực lớn cho hàng triệu trái tim trên khắp thế giới. Lời cáo buộc đầy ác cảm và xúc động là:
'Đã hơn 80 năm trôi qua, bọn thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ của tự do, bình đẳng, và nhân ái để xâm lược đất nước ta, áp bức nhân dân ta. Hành động của chúng là hoàn toàn không nhân văn và trái ngược với chính nghĩa.'. Cuộc sống của nhân dân ta đầy khổ cực, đất nước chìm trong nỗi than thở. Nhiều gia đình đã mất cha, mẹ, con,... tất cả đều mang dấu vết của sự thống trị của đế quốc thực dân.
'Về mặt chính trị, chúng không cho phép nhân dân ta tận hưởng bất kỳ tự do dân chủ nào.'. Chúng áp đặt những luật lệ tàn bạo và tạo ra ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản sự thống nhất của dân tộc ta, để phân chia và làm yếu dân tộc ta. Chúng xây dựng nhiều nhà tù hơn cả trường học. Chúng tàn bạo giết chết những anh hùng yêu nước của chúng ta. Họ ngâm những cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong biển máu. Chúng kiểm soát ý kiến cộng đồng, thực hiện những chính sách làm ngu dân. Chúng sử dụng thuốc phiện và rượu cồn để làm suy giảm sức mạnh của dòng dõi chúng ta.
Trong lĩnh vực kinh tế, chúng hành hạ nhân dân ta đến từng tế bào, làm cho dân ta trở nên nghèo đói, thiếu thốn, đất nước chúng ta trở nên phá sản và kiệt quệ. Chúng chiếm đoạt ruộng đất, mỏ vàng, cũng như nguyên liệu quan trọng. Chúng kiểm soát độc quyền quá trình in giấy bạc, quản lý cảng xuất nhập. Chúng áp đặt hàng trăm loại thuế phi lý, khiến cho dân ta, đặc biệt là những người làm nông và buôn bán, rơi vào cảnh đói khổ. Chúng không cho phép các doanh nhân của chúng ta phát triển. Chúng lợi dụng tận cùng lao động của công nhân ta một cách tàn nhẫn.
Bác đã phơi bày bản chất đạo đức giả dối, lộ ra sự tàn ác và đô hộ thực sự của thực dân, châm ngôn nhân đạo chỉ là vỏ bọc cho việc áp đặt chủ nghĩa thống nhất lên dân tộc ta. Mỗi từ ngữ như một nhát dao sâu vào tâm hồn người đọc, từng từ ngữ đậm chất máu và nước mắt của nhân dân. Bao nhiêu sự căm phẫn, bao nhiêu cảm xúc xót xa và thương tiếc được gói gọn trong những luận điệu, những phán quyết được đặt ra.
Với lời lẽ súc tích, những dòng văn như cơn sóng cảm xúc, chứa đựng sự căm hận, đau đớn và hình ảnh đầy mạnh mẽ, Bác đã khắc sâu vào tâm hồn thế giới một giai đoạn lịch sử đau buồn của dân Việt. Bác lên án tội ác 'trời không dung, đất không tha' của Pháp, đánh giá hành động của họ là xảo trá, gian trá, và tàn nhẫn. Nhân dân Việt đã đứng lên chiến đấu mạnh mẽ, không chịu khuất phục trước một Pháp hèn nhát, kiệt quệ.
'Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, không còn là thuộc địa của Pháp. Khi Nhật hàng Đồng minh, nhân dân Việt Nam đã nổi dậy, chiếm chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta giành lại nước Việt Nam từ tay Nhật, không phải từ tay Pháp.'
Cách mạng tháng Tám thành công đã đồng thời giải quyết hai nhiệm vụ quan trọng là độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Từ sự đối đầu của nhân dân, Bác tiến lên khẳng định những thành tựu đã đạt được. Đó là lời tuyên bố tự do, không liên quan đến Pháp, hủy bỏ những hiệp ước đã kí với Pháp. Đồng thời, Bác rõ ràng khẳng định quyền tự do và dân tộc của đất nước Việt Nam.
'Một dân tộc quả cảm đối mặt với ách nô lệ Pháp suốt hơn 80 năm, một dân tộc kiên cường ủng hộ Đồng Minh chống phát xít, đó là dân tộc xứng đáng với tự do! Dân tộc đó xứng đáng với độc lập! Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật là nó đã trở thành một quốc gia tự do và độc lập.'. Với sự thông thái và tầm nhìn của một nhà cách mạng, Bác đã phát hiện ra bản chất đồi bại của kẻ thù. Bằng lập luận chặt chẽ, Bác đã cung cấp cơ sở pháp lí mạnh mẽ. Bằng tình cảm sâu sắc dành cho nhân dân và lòng yêu nước sâu sắc, Bác đã thức tỉnh niềm tự hào, ý chí chiến đấu và khẳng định những quyền lợi chính đáng của con người trên khắp thế giới. Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm bất hủ của một linh hồn lớn, một nhân cách vĩ đại. Như Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét:
'Nghệ thuật ở đây là việc xây dựng một luận điệu vững chắc, đưa ra những điểm chính, những chứng cứ không thể bác bỏ và phía sau những lý lẽ đó là một tri thức, một văn hóa lớn, được rút ra từ kinh nghiệm của nhiều thế kỷ chiến đấu cho độc lập, tự do và nhân quyền cho dân tộc và nhân loại'.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 5
Hồ Chí Minh vừa là một lãnh tụ vĩ đại, vừa là một anh hùng đã giải phóng dân tộc, đất nước Việt Nam thoát khỏi xiềng xích của nô lệ. Bên cạnh đó, Người còn là một cây bút nghệ thuật đầy tài hoa của dân tộc ta. Thơ văn của Bác vừa mang sắc thái cổ điển pha lẫn sắc thái hiện đại và luôn mang lại những giá trị tư tưởng cao. Đặc biệt, trong số những sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản “Tuyên ngôn độc lập” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chính luận của Người, có sức thuyết phục cao đối với độc giả. Tác phẩm này chính là kết quả của bao nhiêu con người đã rơi nước mắt, đổ máu, hi sinh. Đó cũng là kết quả của bao niềm hi vọng và sự tin tưởng của người dân Việt Nam.
Ngay từ những lời mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập Hồ Chí Minh đã đi thẳng vào vấn đề. Người đã khéo léo đưa ra những cơ sở pháp lý về quyền con người và quyền dân tộc mà không ai có thể chối cãi được để làm nền tảng căn cứ vững chắc cho bản tuyên ngôn. Tác giả trích dẫn hai bản tuyên ngôn bất hủ của Pháp và Mỹ – hai cường quốc hùng mạnh trên thế giới. Với bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Mỹ vào năm 1776, Người đã chỉ ra rằng: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Không chỉ vậy, để làm nổi bật hơn tính phổ biến của những lẽ phải, Người cũng nêu lên trong bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của nước Pháp vào năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã có tác dụng, ý nghĩa vô cùng to lớn, đây là cách nêu dẫn chứng vừa khéo léo vừa kiên quyết. Nó góp phần đảm bảo tính khách quan của bản tuyên ngôn và hơn thế nó còn thể hiện thái độ tôn trọng chân lí chung hay những giá trị tiến bộ được nhân loại thừa nhận của tác giả. Bên cạnh đó, với cách trích dẫn này, Hồ Chí Minh đã sử dụng thành công nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” để dùng lí lẽ của kẻ thù chống lại kẻ thù, đồng thời đánh mạnh vào dã tâm xâm lược nước ta của các thế lực thù địch.
Đặc biệt, hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ chỉ dừng lại ở việc nhấn mạnh quyền con người, thì ở đây Người đã suy rộng thêm về quyền dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là:...quyền sung sướng và quyền tự do”. Điều này thể hiện được sự sáng tạo, tài năng với những lập luận sắc bén của Hồ Chí Minh, câu nói ấy dường như tiếp sức và mở đầu cho trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới. Đồng thời, việc trích dẫn bản tuyên ngôn bất hủ còn mang ý nghĩa sâu xa hơn đó là Bác đã đặt bản Tuyên ngôn độc lập nước ta ngang hàng với hai bản tuyên ngôn ấy.
Không chỉ dừng lại ở việc nêu lên cơ sở pháp lý, Hồ Chí Minh còn nêu lên những cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn để kết tội thực dân Pháp. Người viết: “Thế mà đã hơn 80 năm nay… nhân đạo và chính nghĩa”. Ở đây cụm từ “Thế mà” đã phần nào nhấn mạnh mở sự trái ngược giữa lí lẽ và hành động của thực dân Pháp. Từ đó, tác giả đã đi sâu để vạch rõ, tố cáo tội ác tày trời của chúng trên đất nước ta. Sau khi kết tội thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp liệt kê: “Về chính trị, chúng tuyệt đối … dân chủ nào”. Trong lĩnh vực chính trị, thực dân Pháp đã đưa ra hàng loạt các “luật dã man” để thực hiện chính sách ngu được tác giả liệt kê cụ thể “lập ba chế độ khác nhau ở ba miền Bắc Trung Nam” để ngăn sự đoàn kết của dân ta và thống nhất đất nước, “lập nhà tù nhiều hơn trường học”, “ràng buộc dư luận”…
Không chỉ vậy, trên lĩnh vực kinh tế, bọn chúng thi hành các chính sách dã man tàn bạo, “bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo đói, thiếu thốn, nước ra xơ xác, tiêu điều’. Để minh chứng cho điều đó, Hồ Chí Minh đã một lần nữa liệt kê ra chi tiết những chính sách mà bọn thực dân Pháp đã thi hành như cướp ruộng đất của nhân dân, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, bóc lột sức lao động của công nhân vô cùng tàn ác… Những chính sách ấy của bọn chúng đã để lại hậu quả nặng nề cho đồng bào và đất nước ta khi “từ năm ngoái đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ có hơn 2 triệu đồng bào chết đói”. Qua lời văn của Bác Hồ, ta có thể thấy rõ những tội ác tày trời của thực dân Pháp trên đất nước ta nhiều không thể nào đếm kể. Đặc biệt, tác giả đã sử dụng biện pháp điệp cấu trúc nhằm nhấn mạnh hơn tội ác tàn bạo của bọn giặc, đó là những hành động, việc làm trái với lẽ phải, chính nghĩa, mà tổ tiên chúng đã nêu lên.
Chưa dừng lại ở đó, Người đã đưa ra một loạt những dẫn chứng cụ thể để vạch trần bản chất thật công cuộc “khai hóa” và “bảo hộ” của chúng trước toàn thể nhân dân. Thực chất đó là các chiêu bài về “khai hóa” trong kinh tế – chính trị và đặc biệt là chiêu bài “bảo hộ” khi chỉ trong vòng năm năm thực dân Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật.
Cuối cùng, trong phần cơ sở thực tiễn, Người đã nêu sự thật về cuộc cách mạng Việt Nam. Cuộc cách mạng của ta chính là cuộc cách mạng chính nghĩa khi “Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh chống Nhật”. Ngoài ra, chúng ta còn thi hành các chính sách khoan hồng và nhân đạo đối với người Pháp “giúp nhiều người Pháp chạy qua biên thùy”, “cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật”…
Có thể thấy, bằng những dẫn chứng cụ thể, rõ ràng, tác giả Hồ Chí Minh đã nêu rõ những tội ác tày trời, man rợ của Pháp và sự thật về cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam ta. Từ đó, Bác đã kết thúc phần hai của bản Tuyên ngôn bằng lời khẳng định được lặp lại đến hai lần “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”, điều đó khẳng định chắc nịch thực dân Pháp không có quyền quay lại Việt Nam.
Trên các cơ sở pháp lý và thực tiễn được tác giả nêu ra, phần cuối của bản Tuyên ngôn chính là lời tuyên bố độc lập. Lời tuyên ngôn hết sức ngắn gọn, nhưng đanh thép và rõ ràng, Người đã trịnh trọng tuyên bố thành lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khẳng định nhân dân, đất nước ta đã hoàn toàn “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước, mọi đặc quyền của Pháo trên đất nước Việt Nam”, đồng thời tuyên bố Việt Nam là một nước tự do, độc lập.
Cuối cùng, thay mặt cho toàn thể dân tộc ta, một dân tộc vừa giành được quyền tự do độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên lời thề, lời tuyên bố cùng với lòng yêu nước, thương dân, sự quyết tâm chiến đấu để bảo vệ, giữ gìn sự tự do độc lập ấy. Lời tuyên ngôn tuy ngắn gọn, súc tích nhưng bày tỏ rõ thái độ quyết tâm giữ vững độc lập tự do dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng và của nhân dân, đất nước Việt Nam ta nói chung.
Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng thuyết phục cùng giọng văn hùng hồn, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh đã tuyên bố đánh dấu một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam ta. Qua đó tác giả cũng giúp chúng ta hiểu vì sao bản “Tuyên ngôn độc lập” lại được xem là áng văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại của đất nước ta.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 6
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, người Cha già của dân tộc đã dành cả cuộc đời mình để lo cho dân, phục vụ nước. Người không chỉ là nhà chính trị tài giỏi mà còn là một nhà văn, nhà thơ đa tài với kho tàng văn học đồ sộ. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Người đã nhận ra sức mạnh của văn chương và dùng nó như một thứ vũ khí để tấn công kẻ thù, khích lệ quần chúng nhân dân. Trong vô vàn những tác phẩm để đời đó, nổi bật lên là tác phẩm "Tuyên ngôn độc lập" được chắp bút khi Người rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Đó không chỉ là ẩn chứa khát vọng, khát khao cháy bỏng về độc lập tự do dân tộc mà còn nêu lên tội ác của kẻ thù, vạch trần bộ mặt xảo trá của chúng.
Ngay từ đầu tác phẩm, Bác đã khéo léo trích dẫn bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền, dân quyền của Pháp để khẳng định chân lí lịch sử: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Thật vậy, con người tất cả đều bình đẳng như nhau, bất kể kẻ giàu người nghèo thì đều được hưởng những quyền cơ bản của con người, đó là quyền được được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Những điều trên rõ ràng được trích trong những bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và Pháp, vậy cớ sao chúng lại nói một đằng làm một nẻo. Trong khi hùng hồn tuyên bố về quyền của con người, bên ngoài thì ca ngợi tung hô về lí tưởng cao đẹp quyền tự do của con người thì lại chính tay tước đi quyền của người khác. Lí lẽ của Bác không chỉ dừng lại ở đó mà nó còn được mở rộng ra với các dân tộc trên thế giới, bất kể một dân tộc nào cũng đều có quyền tự do, độc lập của mình. Thật vậy, đây không còn là bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mà đã trở thành bản tuyên bố chính thức về quyền độc lập tự do của các dân tộc nhỏ bé đang bị áp bức trên thế giới.
Viết đến đây, dường như bao xúc cảm của Bác bùng cháy, để rồi với những dòng tiếp theo, Người đặt bút vạch lên tội ác của những kẻ giả nhân giả nghĩa. Đó chính là lũ thực dân Pháp cùng bọn phát xít Nhật tàn bạo dã man khiến dân ta rơi vào cảnh cùng cực tan cửa nát nhà. Pháp tự hào rêu rao với thế giới về công lao to lớn của mình khi đến bảo hộ rồi lại thêm công trạng khai sáng cho người dân ta, thế nhưng sự thật lại hoàn toàn khác. Khai hóa kiểu gì mà lại thi hành chính sách ngu dân, bảo hộ thế nào mà lại để người dân khởi nghĩa biểu tình rồi lại dã man đàn áp, tắm các cuộc khởi nghĩa bằng những biển máu. Đã bao người chết vì cái lương tâm "cha mẹ hiền" của chúng. Hơn thế nữa, chúng còn bắt nhốt nhiều cán bộ cách mạng của ta, dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản nước ta thống nhất, bóc lột con dân ta đến tột cùng. Rồi sau đó, khi không chống cự được với phát xít Nhật thì lại quỳ gối hai tay dâng nước ta cho chúng để nước ta một cổ hai xiềng. Bao đau thương cứ như thế mà nhân lên gấp bội, nhân ta phải chịu đủ mọi thứ thuế, bị bóc lột dã man và cao trào đỉnh điểm là hơn hai triệu đồng bào chết đói năm 1945. Đó là tội ác trời không dung đất không tha, những kẻ xảo trá ác bá đến vậy mà lại tự tung hô mình với thế giới là đang khai sáng, đang bảo hộ thì thật là nực cười và không biết nhục nhã.
Pháp đã gây đủ mọi đớn đau cho dân tộc Việt Nam, thế nhưng thái độ của dân ta đối với dân Pháp thì thực sự khoan hồng. Sau cuộc biến động ngày 9-3, Việt Minh đã nhân đạo cứu giúp nhiều đồng bào Pháp chạy qua biên giới, thoát khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tài sản cho họ. Dân tộc Việt Nam vốn lương thiện và nhân đạo, chúng ta không vơ đũa cả nắm và đổ mọi tội lỗi cho người dân Pháp, vì họ cũng là những người dân thấp cổ bé họng chịu bất hạnh, những kẻ cầm quyền ác bá mới đáng tội, trời đất không thể dung tha.
Sau khi vạch tội lũ ác nhân, Bác bắt tay vào mục đích chính của mình đó là tuyên bố nền độc lập của nước Việt. Bác khẳng định quyền độc lập của dân tộc Việt Nam với thế giới, dân tộc ta đã trải qua nhiều đau đớn nhưng vẫn sát cánh cùng nhau vực dậy đấu tranh đạp đổ ách thống trị của cả một đế chế, tinh thần bất khuất kiên cường như thế xứng đáng và đủ tư cách để có quyền độc lập tự do cho riêng mình. Sau vô số tội ác không đếm xuể của bọn thực dân thì nay dân tộc ta quyết tâm thoát ly, cắt đứt quan hệ với Pháp và đồng thời kêu gọi toàn dân đồng lòng, đồng sức chống lại kẻ thù bên ngoài.
Xuyên suốt tác phẩm, Bác đã cho chúng ta thấy tài nghệ văn chương của mình, đó là cách lập luận, dẫn chứng cụ thể đanh thép khiến kẻ thù không thể chối cãi. Lời văn để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc, tố cáo tội ác của kẻ thù đồng thời lấy được sự đồng cảm của người dân trên thế giới. Đây là áng văn chính luận mang giá trị lịch sử sâu sắc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nước ta và các nước yếu đang bị áp bức trên thế giới.
Khép lại tác phẩm Tuyên ngôn độc lập, ta thấy một Chủ tịch Hồ Chí Minh cả đời vì dân vì nước, cả thanh xuân Người gửi theo mây trời để đổi lấy tự do dân tộc. Và sau bao cố gắng chúng ta cũng đã đạt được mong ước ấy. Nhưng khi đất nước ấm lo, độc lập thì Người lại không ở đây, có lẽ Người đã hoàn thành nhiệm vụ của mình ở chốn trần gian đầy rẫy đau thương này, khi nhiệm vụ hoàn thành Người lại trở về nơi mà Người thuộc về. Huyền thoại về vị cha già dân tộc vĩ đại sẽ còn vang mãi, truyền lại đến ngàn đời sau để chúng ta tôn thờ và noi theo.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 7
Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc ta ngàn đời tôn kính, biết ơn là một trong những nhà văn bậc thầy về thể chính luận. Trong những áng văn chương đồ sộ mà người để lại, “Tuyên ngôn độc lập” hiện lên như một áng văn chính luận mẫu mực nhất, là kết tinh của giá trị lịch sử, giá trị thời đại và nó trường tồn bất diệt.
Toàn văn bản Tuyên ngôn độc lập không quá dài mà rất súc tích, cô đọng, hàm ý sâu xa. Bản tuyên ngôn độc lập được ra đời vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, người soạn thảo bản Tuyên ngôn và sau đó, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập.
Hồ Chí Minh dùng những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không thể chối cãi được để viết nên áng văn chính luận mẫu mực. Không chỉ vậy, văn kiện này còn là tấm lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, sự khao khát độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập của nhân dân Việt Nam ở Người.
Mở đầu bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo đưa cơ sở lí lẽ về nhân quyền và dân quyền. Trước hết Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đây là quyền lợi đáng được hưởng từ khi mỗi người sinh là, là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Hồ Chí Minh đã khéo léo trích dẫn thuyết phục hai bản tuyên ngôn của thực dân Pháp và của đế quốc Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” ( Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp). Tại sao Người lại chọn Pháp và Mỹ mà không phải các nước khác? Ta thấy được rằng, hai nước này mang tư tưởng tiến bộ bấy giờ. Nếu thế giới công nhận các quyền cơ bản của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ thì họ cũng sẽ công nhận các quyền ấy với đất nước Việt Nam. Một cú gậy ông đập lưng ông hoàn hảo. Bản tuyên ngôn của ta đặt ngang hàng với bản tuyên ngôn của hai nước lớn càng tạo sự thuyết phục mạnh mẽ trong cộng đồng thế giới. Người đã chặn đứng âm mưu xâm lược của chúng bằng cách:“ Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Và Người khẳng định chắc nịch: “Đó là lí lẽ không ai có thể chối cãi được”. Vậy có nghĩa là nền độc lập của dân tộc ta là có căn cứ chính đáng, sâu sắc. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ không thể đi trái với tổ tiên của họ.
Để làm nổi bật hơn cho lí lẽ thêm sắc bén và thuyết phục, Người đã vạch trần bộ mặt thối tha của thực dân Pháp với những tội ác khó có thể dung tha cả về 3 mặt: chính trị, kinh tế, xã hội
Đầu tiên, về mặt chính trị, “chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Chúng thi hành pháp luật dã man, chúng lập ba chế độ khác nhau, chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học, chúng chém giết người yêu nước, chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân, chúng còn dùng thuốc phiện, rượu cồn làm cho giống nòi ta suy nhược. Một loạt tội ác của Pháp được liệt kê một cách chân thực dưới ngòi bút sắc bén của Hồ Chí Minh với những lập luận xác đáng, thuyết phục. Hành động của chúng vô cùng độc ác, vô nhân đạo, cay nghiệt đáng lên án.
Tiếp đến, về mặt kinh tế, chúng bóc lột sức lao động của người dân, chúng cướp ruộng đất, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí nhằm bào mòn cả thể chất, sức cùng lực kiệt của dân Việt. Người đã phơi bày bản chất dã man, tàn bạo của thực dân Pháp ra ánh sáng, mang bộ mặt giả đội lốt người “khai hóa, bảo hộ” đến nhân dân thế giới, khơi dậy lòng căm thù giặc, tinh thần chiến đấu xả thân cứu nước của nhân dân ta.
Giọng văn ở phần này thay đổi linh hoạt được Người vận dụng một cách triệt để. Nếu như ở phần liệt kê tội ác, việc làm xấu xa của thực dân Pháp, Người dùng giọng đanh thép, mỉa mai, căm thù quân địch thì khi tới miêu tả hậu quả mà dân ta phải chịu, phải gồng mình lên gánh chống đỡ thì giọng văn lại chuyển sang nhẹ nhàng, đau xót, thương cảm. Đọc đoạn kết tội ấy, ta lại nhớ tới Nguyễn Trãi, ông cũng từng viết:
“Độc ác thay trúc Lam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa hết mùi”
Hồ Chí Minh không luận tội mà kết tội trực tiếp những việc làm kinh khủng mà thực dân Pháp đã tạo ra. Dường như, Người như một vị quan tòa anh minh đang lột tả tộc ác của kẻ cầm đầu phơi bày bộ mặt ra cho thế giới chiêm ngưỡng, ném gạch.
Người đã lột lớp mặt nạ đểu cáng của thực dân Pháp xuống. Điệp từ “sự thật là..” lặp lại để thể hiện chiến thắng của quân ta. Ta giành lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Để rồi kết: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn và súc tích, nghe như một lời reo vui. Tự do mà ta giành được thật đáng trân trọng. Bản tuyên ngôn gần như chỉ xoáy sâu vào 2 trọng điểm lớn: một là, phủ nhận hoàn toàn quyền liên quan đến thực dân pháp, hai là khẳng định quyền độc lập và ý thức bảo vệ mãnh liệt quyền độc lập đã giành được ấy: “ tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
Từ những lí lẽ trên, Người như muốn tuyên bố cho cả thế giới biết rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.” Để đánh đổi được nền độc lập ấy, biết bao nhiêu con người đã phải hi sinh, họ nằm xuống nơi đất khách quê người, họ bỏ tuổi trẻ còn dở dang, họ bỏ cuộc sống êm đềm bên người thân, gia đình, bạn bè, theo tiếng gọi của tổ quốc để chiến đấu, bảo vệ, giữ gìn những cái mà chúng ta đã giành được. Người đã khẳng định: “Sự thật đã thành một nước tự do, độc lập” thật tuyệt vời biết bao. Trong phần tuyên này, Hồ Chí Minh cũng hết sức thuyết phục khi lồng ghép lập luận, lí lẽ sắc bén, ngòi bút chính luận thâm thúy với những từ ngữ hào hùng, khí thế của thể văn chính luận.
Có thể thấy rằng, Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bằng lí lẽ, lập luận sắc bén, giọng văn thay đổi luân chuyển nhịp nhàng, Người vừa vạch ra hàng loạt tội ác tày đình của thực dân Pháp, vừa bày tỏ lòng biết ơn sự hi sinh, tình yêu quê hương sâu sắc của dân tộc Việt Nam đã đúc kết thành một làn sóng mạnh mẽ. Tuyên ngôn độc lập như mở ra một trang sử mới cho lịch sử nước nhà, mở đầu cho kỉ nguyên độc lập tự do, là bàn đạp cho Việt Nam hòa mình vào với thế giới.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại, toàn bộ khát vọng và nhân cách cao đẹp của Người đều thể hiện trong sự nghiệp cách mạng, quân sự, ngoại giao, giáo dục, văn hóa,... Trong số đó sự nghiệp văn chương là một trong những điểm nhấn quan trọng khi nói về tư tưởng đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Người viết văn không phải chỉ để thỏa mãn cái thú tao nhã của văn nhân nghĩa sĩ, mà sinh thời văn thơ của Người luôn đóng một vai trò trò quan trọng trong việc phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng đi đến thành công. Có thể nói rằng trong bước đường cách mạng suốt cả cuộc đời, văn thơ của Người luôn theo sát và đóng vai trò bổ trợ mọi lúc mọi nơi. Điển hình cho việc văn học song hành với cách mạng phải kể đến tác phẩm sáng giá nhất của Hồ Chủ tịch, văn kiện có ý nghĩa lịch vô cùng quan trọng, đặt dấu mốc quan trọng cho nền độc lập của dân tộc ấy là bản Tuyên ngôn độc lập, được Bác tuyên đọc vào ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với bối cảnh lịch sử quan trọng, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật buông vũ khí đầu hàng quân Đồng Minh, nhận thấy thời cơ giải phóng đã đến, Đảng đã tiến hành phát động nhân dân cả nước nổi dậy giành chính quyền từ tay Nhật. Tổng khởi nghĩa thành công, ngày 26/8/1945 Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, tức tốc soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đã tuyên đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước hàng triệu người dân Việt Nam tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chấm dứt hơn 80 năm xiềng xích nô lệ, giành lại độc lập chủ quyền từ đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời cũng chính thức chấm dứt chế độ phong kiến, quân chủ chuyên chế đã tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên của độc lập, tự do và tự chủ. Bản tuyên ngôn cũng là lời công kích mạnh mẽ đến các thế lực thù địch đang nhăm nhe quay lại xâm lược nước ta, đập tan những luận điệu xảo trá, âm mưu thâm độc của chúng. Khuyến khích, cổ vũ, động viên các dân tộc đang bị áp bức trên thế giới mạnh mẽ đứng lên giành lại chính quyền, độc lập tự chủ cho đất nước của mình, và tranh thủ sự đồng tình, thiện chí giúp đỡ của các quốc gia khác trên thế giới.
Tuyên ngôn độc lập với vai trò là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, thì bản thân nó còn là một áng văn chính luận xuất sắc với những hệ thống luận điểm, luận cứ, chặt chẽ, ngắn gọn và súc tích, mang tính thuyết phục cao. Thể hiện tài năng ấn tượng của Bác trong lĩnh vực văn chính luận với ngòi bút sắc bén, uyên bác, bên cạnh biệt tài thơ ca trữ tình chính trị.
Luận điểm đầu tiên Bác đưa ra trong tác phẩm ấy là đưa ra cơ sở pháp lý dựa trên những văn kiện lịch sử của các nước lớn, đã từng được công bố trước đây để làm tiền đề cho bản tuyên ngôn của mình. Đầu tiên Người đã trích dẫn một đoạn rất ấn tượng trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), được xem là chân lý của thời đại rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sau đó bằng sự sáng tạo và sự khôn khéo của mình Bác đã chú giải mở rộng ý, và đồng thời cũng nhấn mạnh, tập trung vào câu: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Để khẳng định sự bao quát của chân lý đã được nêu ra trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, rằng không chỉ riêng mình dân tộc nào, mà tất cả các dân tộc trên thế giới đều xứng đáng được đối xử công bằng, được hưởng những quyền con người, như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Và để tiếp tục bổ sung và khẳng định sự đúng đắn của luận điểm trên Bác đã mượn và trích dẫn một đoạn trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của các mạng Pháp(1791) trong đó người quan tâm và nhấn mạnh ở hai từ “bình đẳng” và “tự do”, với mục đích chứng minh rằng không chỉ riêng mình Bác hay nước Mỹ mà ở Pháp người ta cũng đồng tình với quan điểm này. Như vậy có thể nhận thấy rằng bằng việc sử dụng tuyên ngôn của hai đế quốc hùng mạnh bậc nhất lúc bấy giờ, trong đó có một nước là kẻ thù xâm lược nước ta, đã giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu cũng như những luận điệu xảo trá của kẻ thù nhằm nhòm ngó, quay trở lại nước ta lần nữa. Không chỉ vậy với vị thế của hai đế quốc như Mỹ và Pháp, giá trị của Bản tuyên ngôn lại càng được củng cố, có độ tin cậy và sức thuyết phục cao hơn cả. Cuối cùng Hồ Chủ tịch chốt hạ một câu ngắn gọn và sắc bén để kết lại phần cơ sở pháp lý rằng: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Thể hiện sự mạnh mẽ, quyết liệt trong nghệ thuật chiến luận của Hồ Chủ tịch và khát khao đem về cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam sự tự do bình đẳng, công bằng và bác ái giống như các nước trên thế giới đã từng làm. Những lý lẽ và dẫn chứng chọn lọc, không chỉ tác động sâu sắc đến toàn thể dân tộc Việt Nam mà còn đánh động vào nhân dân Pháp, quân đội Pháp, ngấm ngầm phê phán, thức tỉnh lương tri của họ rằng quân đội của họ, chính quyền của họ đang đi ngược lại với những gì cha ông mình đã lập ra, khiến phái Pháp phải tự soi xét lại về những hành động bịp bợm, xảo trá đang tự tay bôi nhọ chính cha anh của mình. Đồng thời khơi gợi sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Sau khi nêu ra và khẳng định tính chân lý của cơ sở pháp lý, Bác tiếp tục đưa ra những luận cứ về cơ sở thực tiễn để phá tan âm mưu cùng những luận điệu xảo trá mà thực dân Pháp đưa ra nhằm biến nước ta thành thuộc địa như sự “khai sáng văn minh” hay “nền bảo hộ”,... Đầu tiên Hồ Chủ tịch nêu ra chứng cứ vô cùng xác đáng và rõ ràng rằng: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Sau đó Người triển khai những luận điểm mạnh mẽ để bác bỏ, phá vỡ những luận điệu xảo trá được cho là “khai hóa” dân tộc ta của thực dân Pháp lần lượt trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa. Thứ nhất về chính trị và văn hóa, chúng đã “khai hóa” chúng ta bằng cách “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, lại liên tục lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, giết hại, tàn sát đồng bào ta không thương tiếc, đem thứ thuốc phiện ghê gớm, cùng thứ rượu chè bê tha để tiêu diệt và làm suy thoái giống nòi của ta một cách từ từ. Quả thật không biết thực dân Pháp đã “khai hóa” gì với những trò bẩn thỉu, ghê tẩm ấy. Về kinh tế, chúng lại “khai hóa” bằng cách “bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”, rồi đặt ra đủ các loại sưu thuế vô lý, chèn ép nhân dân ta đến cùng đường mạt vận. Như vậy, với những dẫn chứng rõ ràng và sắc bén ấy, Bác đã giáng một đòn chí mạng vào thực dân Pháp, đặc biệt là những kẻ nắm quyền luôn ấp ủ cái luận điệu “khai hóa” cốt để lừa bịp nhân dân ta và nhân thế giới, để thuận bề xâm chiếm và đồng hóa dân tộc ta. Tuy nhiên, chúng đã quá coi thường dân tộc Việt Nam, quá trắng trợn khi thực thi việc “khai hóa” điên rồ của chúng, dẫn đến bị bóc trần mà không thể chối cãi.
Bên cạnh luận điệu “khai hóa” nực cười, thực dân Pháp còn liên tục ra giảng luận điệu “bảo hộ” một cách đường đường chính chính, thế nhưng cái trò xảo trá ấy cũng chẳng thể nào che đậy được âm mưu bẩn thỉu của chúng. Hồ Chủ tịch đã nhanh chóng bác bỏ chúng bằng cách nêu ra dẫn chứng vô cùng thuyết phục và rõ ràng rằng, dù mang tiếng bảo hộ, nhưng thực tế Pháp đã hai lần dâng nước ta cho phát xít Nhật trong vòng 5 năm trời. Dẫn đến hậu quả là hơn 2 triệu đồng bào ta phải chịu chết đói, không chỉ vậy chúng mang tiếng bảo hộ thế nhưng lại khước từ liên minh với ta chống Nhật, thậm chí quay ra khủng bố, khiến quân dân ta tổn thất nặng nề, cùng với đó chúng còn tàn sát cả những người tù chính trị. Với bấy nhiêu bằng cớ về hành động vô liêm sỉ của thực dân Pháp, quả thực nói đến luận điệu “bảo hộ” lại chỉ khiến người ta thấy nực cười, chẳng lẽ bọn chúng không thấy xấu hổ và nhục nhã chăng? Có thể nói rằng bằng ngòi bút luận chiến sắc bén, trí tuệ và sự khéo léo Bác đã vạch trần được âm mưu và sự xảo trá của thực dân Pháp với hai luận điệu “khai hóa” và “bảo hộ” khiến chúng không thể nào chối cãi, giáng một đòn đau vào bộ mặt giả nhân giả nghĩa của kẻ thù. Cuối cùng để kết thúc phần cơ sở thực tiễn Bác đã nhấn mạnh hai sự thật rằng: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” và “Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Để xác minh việc Việt Nam hoàn toàn không hề nhận sự “khai hóa” hay “bảo hộ” gì từ Pháp và hoàn toàn tách biệt với Pháp, từ đó tiến tới việc Tuyên ngôn độc lập.
Sau khi đã làm rõ cơ sở pháp lý và nêu ra được cơ sở thực tiễn với những lý lẽ và luận điểm chặt chẽ, ngắn gọn xúc tích và đi vào lòng người, Hồ Chủ tịch đã sử dụng những lời lẽ hùng hồn, đanh thép, kết cấu trùng lặp, liên tục nhấn mạnh và xoáy sâu vào hai vấn đề chính là “độc lập” và “tự do” để tuyên bố nền độc lập của dân tộc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”. Đó là những lời lẽ xuất phát từ trái tim của một con người có lòng yêu nước, yêu dân, yêu chuộng hòa bình sâu sắc, là những khát khao cháy bỏng không chỉ của riêng mình Bác mà còn chính là thay lời muốn nói của toàn thể dân tộc Việt Nam. Muốn tuyên bố với cả thế giới rằng nước Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh thổ, nhân dân Việt Nam quyết hy sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập thiêng liêng, cao quý ấy.
Như vậy, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh không chỉ là áng văn chính luận xuất sắc với luận điểm sắc sảo, luận cứ thuyết phục mà còn là văn kiện lịch sử quan trọng, là bản tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Khẳng định nền độc lập của dân tộc sau hơn 80 năm giời nô lệ, mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do và tự chủ.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 9
Vị lãnh tụ vĩ đại của nước Việt Nam ta không ai khác ngoài Bác Hồ. Người là danh nhân văn hóa thế giới khiến ai ai cũng phải nghiêng mình. Người đã để lại cho nền văn học nước nhà một kho tàng tác phẩm giá trị. Và bản tuyên ngôn độc lập là một trong số đó.
Tác phẩm được soạn thảo vào ngày 26 tháng 8 năm 1945 tại số nhà 48 Hàng Ngang. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, bác đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn có kết cấu ba phần: cơ sở pháp lý - cơ sở thực tế - khẳng định.
Bản tuyên ngôn mở đầu bằng cách trích dẫn những lời bất hủ của “tuyên ngôn độc lập mỹ” và “tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của pháp. Cả hai bản tuyên ngôn này đều đề cập đến quyền tự do, quyền sống, quyền bình đẳng của con người. Người trân trọng, đề cao những lời lẽ trong hai văn bản này. Người khẳng định: “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Bởi đây là thành quả của những cuộc cách mạng tháng Tám tiến bộ và chân lý mang đầy tính nhân văn của nhân loại. Nhà văn đấu tranh cho quyền của con người. Từ hai bản tuyên ngôn Bác đã vận dụng sáng tạo. Từ quyền của con người, Bác nâng lên quyền của cả dân tộc. Tầm nhìn sâu rộng của Bác đã tạo nên một lời khẳng định đanh thép: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Việc trích dẫn hai văn bản này có tác dụng rất lớn. Nó như một cách “gậy ông đập lưng ông”, đập tan mọi luận điệu xảo trá của kẻ thù, tố cáo tội ác của chúng. Đồng thời bằng cách này, Bác đã đặt tuyên ngôn của Việt Nam sánh vai với tuyên ngôn Pháp và Mỹ và khơi dậy mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Kết thúc phần mở đầu là câu khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn không gì khác ngoài tội ác của bọn thực dân và lập trường chính nghĩa của ta. Để tố cáo bộ mặt thối nát của thực dân Pháp, Bác dùng một câu vừa khẳng định, phủ định. Bác đã lật ngược lại vấn đề: “thế mà hơn 80 năm nay”. Bác đã vạch trần luận điệu xảo trá của thực dân Pháp, giáng đòn phủ đầu về phía chúng. Tội ác của bọn thực dân được vạch trần trên các khía cạnh: chính trị - văn hóa, kinh tế. "Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man, lập ra ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc, chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu; thi hành chính sách ngu dân; dùng rượu cồn thuốc phiện để làm cho nòi giống ta suy nhược. Thực dân Pháp nói đến An Nam để khai hóa, văn minh, tự do, bình đẳng, bác ái nhưng ngược lại. Tất cả những tội ác trên đã cho thấy sự bịp bợm, dối trá của bọn chúng. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến dân ta nghèo nàn thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn. Để thấy được tội ác chồng chất của bọn chúng, Người đã sử dụng phương pháp lặp cấu trúc cú pháp kết hợp liệt kê. Lời văn đanh thép của Người thể hiện rõ sự căm hờn khiến cho người đọc, người nghe dấy lên lòng căm thù ghê gớm. Đặc biệt là hình ảnh “tắm cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Hình ảnh này có sức gợi hình gợi cảm hết sức mạnh mẽ. Nhưng tội ác của chúng chưa phải là hết. Trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Mùa thu năm 1940, Nhật vào Đông Dương, Pháp đã “quỳ gối đầu hàng”. Từ đó nhân dân ta lại chịu hai tầng xiềng xích Pháp - Nhật khiến từ Quảng Trị tới Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Chúng còn thẳng tay đàn áp, khủng bố Việt Minh ta. Tội ác của chúng đã khiến dân ta khốn khổ cùng cực.
Ta có lập trường chính nghĩa của ta. Đồng bào ta vẫn giữ một thái độ nhân đạo và khoan hồng. Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân ta cả nước nổi dậy giành chính quyền. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị, dân ta đã đánh đổ mấy tầng xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Với giọng điệu nhanh dồn dập, sử dụng nhiều từ khẳng định: “sự thật là…”, Người đã thành công trong việc khẳng định ta chính nghĩa, Pháp phi nghĩa, ta có độc lập tự do là tất yếu.
Phần cuối của bản tuyên ngôn là lời tuyên bố. Lời tuyên bố này là với Pháp, với Đồng minh, với nhân dân Việt Nam và Thế giới. Đồng thời khẳng định ý chí quyết tâm giữ vững độc lập tự do của nhân dân ta: “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
Cũng giống như “Bình ngô đại cáo” và “Nam quốc sơn hà”, bản “Tuyên ngôn độc lập” là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc ta.
Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - mẫu 10
Mùa thu năm 1945, cả nước ta tưng bừng trong niềm sung sướng hân hoan. Cách mạng tháng Tám thành công đã rũ bỏ khỏi vai người dân Việt Nam những xiềng xích nô lệ và áp bức, đưa họ qua ngưỡng cửa tối tăm bước tới vùng sáng độc lập tự do. Sáng ngày 2/9, một buổi sáng trời trong với nắng vàng ấm áp, trước hàng triệu nhân dân trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, chính thức khai sinh một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ.Bản tuyên ngôn được Người viết ra trong một tâm trạng vui sướng nhất. Bằng tất cả tâm hồn và trí tuệ, bằng những xúc cảm mãnh liệt, người đã truyền đến triệu trái tim nhân dân những rung động sâu xa và thấm thía, đồng thời tuyên bố một cách vững chắc và hào hùng với thế giới về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước ta.
Toàn văn bản tuyên ngôn không dài, chỉ gói trọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ nhưng vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liền mạch với nhau theo một bố cục chặt chẽ mạch lạc… Phần đầu bản Tuyên ngôn nêu lên những chân lý về nhân quyền và dân quyền. Tác giả trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ và bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp đã có dụng ý sâu sắc. Bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ ra đời sau khi nước Mỹ; đã đấu tranh giành độc lập thành công.
Bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” cũng ra đời trong chiến thắng của cách mạng Pháp, cuộc cách mạng của những thị dân và nông dân phản kháng lại áp bức, bất công. Lời lẽ của hai bản tuyên ngôn trên tự thân đã nêu lên những chân lý, lại đại diện cho những cuộc cách mạng có tính tiên phong của những nước có ảnh hưởng lớn trên thế giới, nên mang tính công pháp quốc tế, khiến cho không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Ta có thể thấy sự hiểu biết và cân nhắc kỹ càng của vị Chủ tịch khi trích dẫn những chân lý đó. Hơn thế Người còn vận dụng sáng tạo: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát hơn và cũng đầy thuyết phục. Điều đáng nói hơn nữa là ngay ở đoạn đầu này, cũng chính là lời trích dẫn bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” đã tỏa ra sức chiến đấu mạnh mẽ và tiềm tàng của Tuyên ngôn độc lập. Bởi vì chính phủ Pháp chính phủ phụng sự cho tinh thần của “Tuyên ngôn nhân quyền” đầy lẽ phải kia lại đang thi hành những hành động trái ngược hẳn; “Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do… hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Rõ ràng qua cách lập luận như thế, một sự thật được phơi bày một cách hiển nhiên: bản chất của thực dân Pháp ở Việt Nam là trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa, kết thúc phần này là một câu khẳng định ngắn gọn và đầy sức thuyết phục.
Mở rộng hơn, phần hai liệt kê ngắn gọn và đầy đủ những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất nước ta trong suốt gần một trăm năm đô hộ. Trước tiên, chúng tước đoạt tự do chính trị “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút quyền tự do dân chủ nào…”, “chúng thẳng tay chém giết những người tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”, “chúng thi hành những luật pháp dã man ”, “chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc, để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”… Chỉ trong một đoạn ngắn hai mươi mốt câu, tác giả xé toang chiêu bài “khai hóa, bảo hộ” giả dối bịp bợm bấy lâu chúng dùng để che đậy những việc làm xấu xa độc ác. Từ những hành động tàn nhẫn của thực dân Pháp như khủng bố Việt Minh, giết những người tù chính trị… tác giả dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo. Chúng ta chống phát xít, chúng ta đứng về phía mặt trận dân chủ chống phát xít, chúng ta có vai trò và vị trí xứng đáng trước thế giới chính do sức mạnh tự thân của dân tộc.
Tự do vừa giành được ấy thật vô giá, để có được nó, nhân dân ta đã phải đánh đổi bằng bao nhiêu hy sinh, bao nhiêu xương máu và tâm huyết. Ấy thế mà vẫn còn bao nhiêu thế lực thù trong giặc ngoài đến, lúc bấy giờ đang lăm le bóp chết sự sống mới hình thành của nước Việt Nam non trẻ, hiểu được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân nêu lên lời tuyên bố trịnh trọng và quyết liệt.
Đây là bản Tuyên ngôn độc tập lần đầu tiên tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới, đánh dấu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do cho một dân tộc bất khuất kiên cường. Nó đánh dấu thắng lợi đầu tiên của một nước thuộc địa châu Á. Mặt khác, bản Tuyên ngôn coi là một áng văn chính luận mẫu mực, đanh thép và lôi cuốn ở lý lẽ và lập luận chặt chẽ, ở từ ngữ, hình ảnh dễ cảm, chính xác, mạnh mẽ, ở câu văn gọn mà sắc, giản dị mà hùng hồn, đã vừa cảnh cáo, vạch mặt kẻ thù, vừa khích lệ, động viên tinh thần nhân dân, và tranh thủ sự đồng tình quốc tế.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích Tấm
- Phân tích tâm trạng Kiều trong đoạn trích Trao duyên
- Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng sáng hôm sau
- Phân tích tâm trạng Thúy Kiều
- Phân tích Thiên trường vãn vọng
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

