10+ Thuyết minh Nguyễn Du (điểm cao)
Thuyết minh Nguyễn Du điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Thuyết minh Nguyễn Du
- Thuyết minh Nguyễn Du (mẫu 1)
- Thuyết minh Nguyễn Du (mẫu 2)
- Thuyết minh Nguyễn Du (mẫu 3)
- Thuyết minh Nguyễn Du (mẫu 4)
- Thuyết minh Nguyễn Du (mẫu 5)
- Thuyết minh Nguyễn Du (mẫu 6)
- Thuyết minh Nguyễn Du (mẫu 7)
- Thuyết minh Nguyễn Du (mẫu 8)
- Thuyết minh Nguyễn Du (mẫu 9)
- Thuyết minh Nguyễn Du (các mẫu khác)
10+ Thuyết minh Nguyễn Du (điểm cao)
Dàn ý Thuyết minh Nguyễn Du
1. Mở bài
Giới thiệu về đại thi hào Nguyễn Du
2. Thân bài
* Tổng quan về tác giả Nguyễn Du
- Nhà thơ vĩ đại cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX
- Góp phần quan trọng cho văn hóa Việt Nam
- Tác phẩm Truyện Kiều mở ra cánh cửa hội nhập với văn hóa thế giới
* Cuộc đời của nhà thơ Nguyễn Du
- Nguyễn Du (1765-1820), quê Tiên Điền, Hà Tĩnh
- Sinh ra trong gia đình truyền thống nho giáo, nhiều đời làm quan
- Sống trong thời kỳ biến động xã hội
- Trải qua 'mười năm gió bụi'--> Những biến cố xã hội và cuộc sống riêng tư tạo nên cuộc sống đầy đủ, lòng nhân ái sâu sắc
- Hoạt động dưới hai triều Lê, Nguyễn
* Sự nghiệp sáng tác văn thơ:
- Tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm
- Nội dung: Bảo vệ, đồng cảm với số phận con người, đặc biệt là những người tài năng nhưng không may mắn; Phê phán xã hội tối tăm đã làm tổn thương nhân phẩm, hạnh phúc con người.
- Nghệ thuật:
+ Đã có những đóng góp quan trọng, đưa thể thơ truyền thống của dân tộc lên tầm cao mới, trở thành điển luận và mẫu mực.
+ Phát triển và làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc.
3. Kết bài
Nhận định tổng quan về tác giả Nguyễn Du: Nhà thơ tài năng, đã có những đóng góp to lớn cho văn hóa độc đáo của quê hương.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 1
Nguyễn Du là danh nhân văn hóa nổi tiếng thế giới, hơn ai hết, dưới ngòi bút tài hoa của ông "Truyện Kiều" hiện lên là một tác phẩm kinh điển của nền văn học Việt Nam và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau để nhiều độc giả trên khắp thế giới cảm nhận.
Tên thật của ông là Tố Như, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình họ hàng có nhiều người làm quan. Cả cha và mẹ của ông đều là người quyền quý trong triều đình và được nhà vua trọng dụng.
Từ thuở còn nhỏ ông sống trong cảnh giàu sang, từ khi cha mẹ mất cuộc đời ông rơi vào cảnh lầm than, nghèo khổ, nay đây mai đó không chốn dung thân. Thời gian sống ngoài xã hội độc ác, thấm thía nỗi bất hạnh của mảnh đời bần cùng nhất xã hội lúc bấy giờ đó là trẻ em, phụ nữ, người dân lao động...đã góp phần đúc kết nên tính cách thiên tài Nguyễn Du.
Nội dung thơ văn của Nguyễn Du mang giá trị nghệ thuật sâu sắc, phản ánh cuộc đời vất vả, cơ cực của bản thân và xã hội loạn lạc, rối ren, bất công. Nếu đọc qua những tác phẩm của Nguyễn Du thì các bạn sẽ cảm nhận được tinh thần nhân đạo, ca ngợi những mảnh đời bần cùng xã hội nhất là những người phụ nữ vốn đã thiệt thòi, hẩm hiu.
Trong các tác phẩm của ông, yếu tố nghệ thuật được đánh giá cao hơn cả, ông đã đặt nền móng cho hai tác phẩm dân gian nước ta đạt đến trình độ điêu luyện thượng thừa, chính ông đã tiểu thuyết hóa thể loại truyện Nôm, miêu tả tâm lý nhân vật kỹ càng, thấu đáo, đóng góp phần lớn làm cho từ ngữ tiếng Việt trở nên phong phú, sâu sắc hơn. Nói không quá khi công nhận ông chính là người góp phần làm cho nền văn học nước nhà đạt tới trình độ mới.
Tác phẩm của ông mang những giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện khát vọng tự do, công bằng, thương cảm cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ nhưng số phận bất hạnh "Hồng nhan bạc phận", từ đó tố cáo tội ác man rợ của chế độ phong kiến thối nát.
Nguyễn Du là một người vô cùng tài giỏi đã đóng góp một phần quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ tiếng Việt trở nên phong phú, phóng khoáng, thiên biến vạn hóa hơn. Nguyễn Du chắc chắn là một thi sĩ nâng tầm phát triển của nền văn học trung đại nước nhà.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 2
Nếu mỗi một quốc gia đều có một nhà thơ, nhà văn để tự hào khác nhau như: Trung Quốc tự hào về Lỗ Tấn, Nga tự hào về Macxim Gorki thì Việt Nam cũng có Nguyễn Du để tự hào. Ông đã nâng tầm nền văn học Việt Nam, với tác phẩm để đời của ông lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng khác nhau là "Truyện Kiều". Với học vấn uyên bác cùng tài năng văn học xuất chúng, tư tưởng nhân đạo thấm đẫm trong tính cách của ông, Truyện Kiều dưới ngòi bút tài hoa của ông thực sự đã trở thành một niềm tự hào dân tộc của toàn người dân Việt.
Ông vốn xuất thân từ một gia đình quyền quý, cả cha và mẹ đều làm quan trong triều đình và được nhà vua trọng dụng. Nhưng một biến cố đã ập đến với ông, năm 13 tuổi ông đã mô côi cả cha lẫn mẹ, phải chuyển đến sống cùng với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Khi 15 tuổi, Nguyễn Khản bị buộc tội mưu phản, ông phải nương tựa ở nhà họ hàng xa. Đặc biệt là cuộc đời ông gắn bó chặt chẽ với những biến cố lịch sử giai đoạn thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - giai đoạn mà chế độ phong kiến thể hiện bản chất thối nát, tham lam, không quan tâm đến đời sống nhân dân, đấu đá, chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền lực.
Ông đã phiêu bạt khắp nơi, đến năm 1802 khi Nguyễn Ánh lên ngôi, ông miễn cưỡng làm quan. Ông được cử đi sang Trung Quốc 2 lần nhưng đến lần thứ 2 năm 1820 chưa kịp đi thì ông đã bị mất đột ngột tại Huế. Tuy cuộc đời có rất nhiều thăng trầm nhưng chính vì lẽ đó đã đúc kết một con người tài hoa, sở hữu vốn kiến thức sâu rộng như ông cùng với nỗi thương cảm cho số phận con người lúc bấy giờ. Ông là đại thi hào của dân tộc với rất nhiều tác phẩm kinh điển như ba tập thơ bằng chữ Hán, gồm Thanh Hiên Thi tập, Nam Trung tạp ngôn, Bắc Hành tạp lục và tác phẩm chữ Nôm xuất sắc để đời nhất của ông đó là "Truyện Kiều".
"Truyện Kiều" trước kia được gọi là "Đoạn trường Tân Thanh". Truyện được Nguyễn Du kế thừa và phát triển sáng tạo từ truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm tài nhân Trung Quốc. Tuy nhiên, khác với bản gốc, Truyện Kiều được viết bằng thể thơ lục bát gồm 3254 câu thơ và được chia làm ba giai đoạn: Gặp gỡ và đính ước, gia biệt và lưu lạc, đoàn tụ.
"Truyện Kiều" là tác phẩm tiêu biểu cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ vô cùng xinh đẹp "Hồng nhan bạc phận", đồng thời cũng là bản cáo trạng đanh thép cho tội ác xấu xa của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Một xã hội đã vùi dập một người con gái tài sắc vẹn toàn phải chịu nỗi khổ đau. Từ đó những áng thơ này đã cất lên tiếng gọi về một sự tự do, là bài ca công lý trong xã hội.
Để làm nên một tầm vóc của một đại thi hào, một danh nhân văn hóa thế giới là do sự đúc kết của rất nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là cái "Tâm" và cái "Tài" làm trọng tâm của người nghệ sĩ. "Truyện Kiều" sẽ là tác phẩm sống mãi trong lòng người dân Việt Nam bởi những giá trị nghệ thuật và nội dung sâu sắc mà nó ẩn chứa.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 3
Cuộc đời của nhà thơ có nhiều biến đổi thăng trầm. Sau những năm tháng ấu thơ êm đềm và hạnh phúc, đến năm 10 tuổi tang thương bắt đầu ập đến: cha mất, tiếp theo hai năm sau mẹ cũng qua đời. Nguyễn Du phải đến sống nhờ nhà người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi hương đậu tam trường, rồi làm một chức quan võ ở Thái Nguyên. Năm 1789 nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình, rồi tiếp đó về sống ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đó là quãng đời “mười năm gió bụi” vô cùng long đong khổ cực của nhà thơ.
Năm 1802 nhà Nguyễn được thiết lập, Nguyễn Du bất đắc dĩ từ chối không được phải miễn cưỡng ra làm quan. Ông từng làm tri huyện, tri phủ Thường Tín, cai bạ Quảng Bình. Tiếp đó, năm 1813 ông được thăng chức học sĩ điện Cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước ông được thăng làm Tham tri bộ Lễ. Năm 1820 Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa nhưng chưa kịp đi thì ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn ông mất đột ngột trong một trận dịch lớn.
Trong cuộc đời nhiều sóng gió của mình Nguyễn Du đã để lại một sự nghiệp văn học vô giá: đồ sộ về số lượng, sâu sắc về nội dung, xuất sắc trong nghệ thuật thể hiện. Nguyễn Du sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán có ba tập: Thanh Hiên thi tập, được làm lúc nhà thơ đang sống ở quê vợ Thái Bình và quê nhà Nghi Xuân; Nam trung tạp ngâm, viết trong thời gian Nguyễn Du làm quan ở Quảng Bình; Bắc hành tạp lục là tập thơ chữ Hán xuất sắc nhất, tập hợp những sáng tác ra đời trong lúc Nguyễn Du đi sứ ở Trung Quốc.
Trong những tập thơ này có nhiều bài thơ rất đặc sắc: Độc Tiểu Thanh kí, sở kiến hành, Long Thành cầm giả ca, Thái Bình mại ca giả. về thơ chữ Nôm, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều và một tác phẩm cũng rất nổi tiếng: “Văn tế thập loại chúng sinh”.
Những sáng tác của Nguyễn Du trước hết cho thấy khả năng bao quát hiện thực và một cảm quan nhạy bén sắc sảo trước những vấn đề lớn của con người, của thời đại. Hiện thực cuộc sống với bao điều nhức nhối đã được Nguyễn Du ghi lại một cách trung thực và xúc động. Trên cái nền của sự phản ánh đó người đọc cũng thấy được ý thức phản kháng xã hội và đặc biệt là ý thức khẳng định, vun đắp cho cuộc sống hạnh phúc của con người của nhà thơ.
Không chỉ có vậy, sáng tác Nguyễn Du còn là minh chứng của một nghệ thuật đã đạt tới trình độ bậc thầy của một tài năng kiệt xuất. Ngôn ngữ văn chương, đặc biệt là tiếng Việt đạt đến đỉnh cao của sự nhuần nhuyễn, tinh tế, tự nhiên, có khả năng biểu hiện sâu sắc đời sống và nội tâm con người. Đó còn là thứ ngôn ngữ được kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, tạo nên nhiều sắc thái biểu hiện rất đa dạng.
Cuộc đời hơn năm mươi năm sống giữa trần gian của Nguyễn Du dẫu nhiều bi kịch cay đắng, có khi mất phương hướng trong những cơn lốc xoáy của lịch sử, thế nhưng trước sau Nguyễn Du vẫn là con người của tài hoa, của một trái tim luôn chan chứa dạt dào niềm yêu thương và nỗi xót đau vô hạn cho mỗi kiếp người bất hạnh trên khắp thế gian. Nguyễn Du là một tài năng, một tâm hồn mà càng qua thời gian càng ngời sáng.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 4
Khi nhắc đến nền văn học Việt Nam thì chúng ta không thể nào bỏ qua tác phẩm "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du viết về số phận hẩm hiu của một người con gái xinh đẹp. Với kiến thức uyên bác hơn người cùng với ngòi bút tài hoa của mình, ông đã nâng tầm văn học nước nhà. Trong đó nổi bật hơn cả chính là tác phẩm "Truyện Kiều".
Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820, tên thật là Tố Như hiệu là Thanh Hiên, quê tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thời thơ ấu, ông sinh được sinh ra trong một gia đình vô cùng quyền lực và giàu có. Cha ông làm quan lớn trong triều nhà Lê. Tuy mồ côi cha mẹ sớm, cuộc đời ông đầy rẫy những biến động, phải nay đây mai đó lông bông chốn không nhà, nhưng chính những biến cố đó đã đúc kết nên một con người đầy tài năng kiệt xuất, trái tim chan chứa những yêu thương và cảm thông sâu sắc cho những mảnh đời nghèo khổ Nguyễn Du. Cộng thêm vào giai đoạn đó lịch sử nước nhà đang hỗn loạn, có nhiều rối ren, các thế lực chém giết nhau tranh giành quyền lực, nông dân khắp nơi nổi dậy đòi quyền tự do, bình đẳng tiêu biểu như là phong trào Tây Sơn được lãnh đạo bởi Nguyễn Huệ. Những yếu tố đó đã góp phần không nhỏ giúp ông vĩ đại như vậy.
Nguyễn Du được coi là người có tài năng học hành, tư chất thông minh từ nhỏ, bậc thầy trong việc sử dụng các từ ngữ tiếng Việt, thiên biến vạn hóa những câu chữ như sao sáng chói trên bầu trời văn học Việt. Ông ra đi nhưng đã để lại cho nền văn học nước nhà một kho tàng phong phú với khoảng hơn nghìn tác phẩm được sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm.
Truyện Kiều trước đó thường được gọi là "Đoạn tường Tân Thanh" được nhà thơ sáng tác vào khoảng cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX. Đây là một tác phẩm tiêu biểu được sáng tác bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện có nguồn gốc từ Trung Quốc - tiểu thuyết của Thanh Tâm, tuy nhiên đã được biến đổi tài tình để phù hợp với xã hội và con người Việt Nam lúc bấy giờ. Cây truyện được viết bằng 3254 câu thơ được chia làm 3 phần chính: Gặp gỡ và đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ.
Truyện Kiều có nội dung kể về một gia đình nọ có 3 người con: Thúy Vân, Vương Quan và Thúy Kiều. Cả 2 người con gái đều sở hữu vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành đến những thứ vô tri vô giác như cỏ cây cũng phải ghen tị. Thúy Kiều bất ngờ gặp được Kim Trọng trong lễ hội đạp thanh từ đó 2 người nảy sinh tình cảm, nguyện thề một lòng sống chết vì nhau. Nhưng do gia đình đang mang một khoản nợ, Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha, để lại mối tơ duyên với Kim Trọng cho em gái Thúy Vân. Từ đây bắt đầu một cuộc sống 15 năm lưu lạc thấm đẫm những gian khổ, khó khăn của Thúy Kiều. Nhưng may mắn thay, Kiều gặp được Từ Hải, một vị anh hùng đã cứu Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh. Sau đó, Thúy Kiều tuy chỉ được tự do trong một thời gian ngắn đã lại bị bắt và nhảy xuống sông tự vẫn, may mắn thay vẫn được sư vãi Giác Duyên cứu sống và đi tu.
Về giá trị nhân đạo, Truyện Kiều chính là tiếng nói cho sự yêu thương giữa người với người. Đó là sự thương cảm giữa những mảnh đời bất hạnh, đồng thời cũng là ca ngợi khát vọng được tự do và hạnh phúc trong tâm trí con người. Bên cạnh đó, sự khao khát công lý, chiến thắng những thế lực tàn bạo còn được nhà thơ lấy nhân vật Từ Hải để gửi gắm.
Có thể nói rằng Truyện Kiều chính là một tác phẩm ca ngợi hết những sự tài hoa, kiệt xuất của đại thi hào Nguyễn Du từ cách xây dựng cốt truyện hấp dẫn, cách điều khiển ngôn từ, nghệ thuật miêu tả...mà ông đã sử dụng trong tác phẩm. Từ đó, tác phẩm Truyện Kiều cũng đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của rất nhiều nhà thơ thế hệ sau, nó truyền tải ý nghĩa sâu sắc và khơi gợi tình cảm thương yêu giữa những con người sống trong cùng một xã hội.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 5
Khi nhắc đến nền văn học Việt Nam thì chúng ta không thể nào bỏ qua tác phẩm "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du viết về số phận hẩm hiu của một người con gái xinh đẹp. Với kiến thức uyên bác hơn người cùng với ngòi bút tài hoa của mình, ông đã nâng tầm văn học nước nhà. Trong đó nổi bật hơn cả chính là tác phẩm "Truyện Kiều".
Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820, tên thật là Tố Như hiệu là Thanh Hiên, quê tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thời thơ ấu, ông sinh được sinh ra trong một gia đình vô cùng quyền lực và giàu có. Cha ông làm quan lớn trong triều nhà Lê. Tuy mồ côi cha mẹ sớm, cuộc đời ông đầy rẫy những biến động, phải nay đây mai đó lông bông chốn không nhà, nhưng chính những biến cố đó đã đúc kết nên một con người đầy tài năng kiệt xuất, trái tim chan chứa những yêu thương và cảm thông sâu sắc cho những mảnh đời nghèo khổ Nguyễn Du. Cộng thêm vào giai đoạn đó lịch sử nước nhà đang hỗn loạn, có nhiều rối ren, các thế lực chém giết nhau tranh giành quyền lực, nông dân khắp nơi nổi dậy đòi quyền tự do, bình đẳng tiêu biểu như là phong trào Tây Sơn được lãnh đạo bởi Nguyễn Huệ. Những yếu tố đó đã góp phần không nhỏ giúp ông vĩ đại như vậy.
Nguyễn Du được coi là người có tài năng học hành, tư chất thông minh từ nhỏ, bậc thầy trong việc sử dụng các từ ngữ tiếng Việt, thiên biến vạn hóa những câu chữ như sao sáng chói trên bầu trời văn học Việt. Ông ra đi nhưng đã để lại cho nền văn học nước nhà một kho tàng phong phú với khoảng hơn nghìn tác phẩm được sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm.
Truyện Kiều trước đó thường được gọi là "Đoạn tường Tân Thanh" được nhà thơ sáng tác vào khoảng cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX. Đây là một tác phẩm tiêu biểu được sáng tác bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện có nguồn gốc từ Trung Quốc - tiểu thuyết của Thanh Tâm, tuy nhiên đã được biến đổi tài tình để phù hợp với xã hội và con người Việt Nam lúc bấy giờ. Cây truyện được viết bằng 3254 câu thơ được chia làm 3 phần chính: Gặp gỡ và đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ.
Truyện Kiều có nội dung kể về một gia đình nọ có 3 người con: Thúy Vân, Vương Quan và Thúy Kiều. Cả 2 người con gái đều sở hữu vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành đến những thứ vô tri vô giác như cỏ cây cũng phải ghen tị. Thúy Kiều bất ngờ gặp được Kim Trọng trong lễ hội đạp thanh từ đó 2 người nảy sinh tình cảm, nguyện thề một lòng sống chết vì nhau. Nhưng do gia đình đang mang một khoản nợ, Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha, để lại mối tơ duyên với Kim Trọng cho em gái Thúy Vân. Từ đây bắt đầu một cuộc sống 15 năm lưu lạc thấm đẫm những gian khổ, khó khăn của Thúy Kiều. Nhưng may mắn thay, Kiều gặp được Từ Hải, một vị anh hùng đã cứu Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh. Sau đó, Thúy Kiều tuy chỉ được tự do trong một thời gian ngắn đã lại bị bắt và nhảy xuống sông tự vẫn, may mắn thay vẫn được sư vãi Giác Duyên cứu sống và đi tu.
Về giá trị nhân đạo, Truyện Kiều chính là tiếng nói cho sự yêu thương giữa người với người. Đó là sự thương cảm giữa những mảnh đời bất hạnh, đồng thời cũng là ca ngợi khát vọng được tự do và hạnh phúc trong tâm trí con người. Bên cạnh đó, sự khao khát công lý, chiến thắng những thế lực tàn bạo còn được nhà thơ lấy nhân vật Từ Hải để gửi gắm.
Có thể nói rằng Truyện Kiều chính là một tác phẩm ca ngợi hết những sự tài hoa, kiệt xuất của đại thi hào Nguyễn Du từ cách xây dựng cốt truyện hấp dẫn, cách điều khiển ngôn từ, nghệ thuật miêu tả...mà ông đã sử dụng trong tác phẩm. Từ đó, tác phẩm Truyện Kiều cũng đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của rất nhiều nhà thơ thế hệ sau, nó truyền tải ý nghĩa sâu sắc và khơi gợi tình cảm thương yêu giữa những con người sống trong cùng một xã hội.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 6
Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương
Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng
Nhân tình nhắm mắt chưa xong
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?
(Tố Hữu – Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Đã gần ba thế kỉ trôi qua nhưng những vần thơ thấm đẫm nước mắt và tràn trề tình thương mà Nguyễn Du để lại vẫn còn nguyên giá trị. Tác phẩm của Nguyễn Du thể hiện những nỗi lòng u uất, những tâm trạng thổn thức đến bất an.
Nguyễn Du được coi là một thiên tài, một danh nhân văn hóa không chỉ của Việt Nam mà của cả nhân loại. Nhắc đến Nguyễn Du, chúng ta không thể không nói đến một trái tim luôn đau nỗi đau của con người. Mọi nỗi buồn đau, thống khổ của kiếp người vang động đến đều có thể khiến cho trái tim ấy rỉ máu. Từ đó Nguyễn Du viết nên những dòng thơ xót xa mà thấm đẫm tình người. Trong cuộc đời mình, ông cũng trải qua không ít dâu bể, biến cố nên mở đầu kiệt tác Truyện Kiều ông viết:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, quê ở Tiên. Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và văn chương ở Thăng Long. Năm 1802, ông được cử đi sứ Trung Quốc lần thứ hai, chưa kịp đi thì mắc bệnh mà mất. Ông để lại cho nền văn học, nước nhà một sự nghiệp văn chương đồ sộ trong đó Truyện Kiều xứng đáng là niềm tự hào của dân tộc ta.
Cuộc đời Nguyễn Du gắn liền với nhiều biến động lịch sử: chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng trầm trọng, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên ở khắp nơi mà tiêu biểu là khởi nghĩa Tây Sơn. Ông trải qua một cuộc đời nhiều thăng trầm, lúc sống xa hoa, quyền quý, khi lưu lạc gió bụi nơi đất khách quê người. Bởi thế ông tích lũy được vốn sống phong phú và học tập được ngôn ngữ của nhân dân. Đó phải chăng là cơ sở cho tư tưởng nhân đạo trong thơ văn Nguyễn Du?
Đọc và tìm hiểu những sáng tác của Nguyễn Du, ta sẽ thấy ông xót xa nhất cho con người trong cảnh bể dâu trước những đổi thay trớ trêu của cuộc đời. Đó là những khi thân phận con người trở nên mỏng manh, bị vùi dập, bị giày xéo. Cả xã hội phong kiến lẫn định mệnh mù quáng đã vào hùa với nhau để hành hạ con người. Mà trong cảnh bể dâu kia, thân phận bi kịch điển hình nhất là những người tài sắc. Họ như những bông hoa nở trong dông tố, danh nhân cũng hóa nạn nhân, vàng ngọc cũng bị coi như đất bùn. Tư tưởng nhân đạo trong thơ Nguyễn Du được thể hiện qua sự căm phẫn của ông đối với những thế lực chà đạp con người, hủy hoại tài năng:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Đọc Tiểu Thanh Kí)
Ông luôn bày tỏ nỗi đau một cách bi phẫn trước những kiếp người thấp cổ bé họng, trước sự thất bại của cái thiện, cái mĩ. Trong trái tim bao la của ông, ta thấy cái phần thông thiết nhất luôn được dành cho thân phận bi kịch của những con người tài hoa bạc mệnh, đặc biệt là những người phụ nữ. Họ là những nạn nhân đáng thương nhất trong cuộc đời đầy lang sói, lắm biến thiên dâu bể này.
Đó là Đạm Tiên “nổi danh tài sắc một thì” mà phải chịu cảnh “sống làm vợ khắp người ta” để rồi “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương” và cuối cùng chỉ còn lại “sè sè nấm đất bên đường”. Đó là Tiểu Thanh “son phấn có phần chôn vẫn hận – văn chương không mệnh đốt còn vương”. Tiêu biểu hơn tất cả là Thúy Kiều “sắc đành đòi một tài đành họa hai” mà phải chịu một đời truân chuyên chìm nổi “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, muốn thoát khỏi kiếp sống ô nhục lại bị đạp xuống sâu hơn, bế tắc hơn… Tất cả những thân phận phụ nữ tài sắc mà bất hạnh ấy được Nguyễn Du tổng kết trong hai câu thơ ứa máu khái quát quy luật nghiệt ngã của cuộc đời:
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
(Văn chiêu hồn)
Viết về những con người ấy, Nguyễn Du bày tỏ lòng nhân ái của con người đối với con người nhưng cũng chính là nỗi niềm của người tri kỉ, của kẻ cùng hội cùng thuyền, đồng bệnh tương lân. Nguyễn Du tìm thấy mình ở trong họ, tìm thấy họ ở trong mình. Cho nên lời thơ của ông chân thành đến tận đáy lòng. Ông truyền tất cả những đau đớn của trái tim vào những trang viết để tạo nên những “Tiếng thơ ai động đất trời”.
Nguyễn Du đã sống và đã nếm trải đến cùng vị mặn của dòng nước mất. Không chỉ xót xa cho những người phụ nữ, Văn tế thập loại chúng sinh là một tiếng khóc lớn khóc cho tất cả những số phận bi thảm của con người. Tất cả họ khi sông dù mũ cao áo dài như những thư sinh nho sĩ hay những người cùng đinh chân lấm tay bùn… khi chết đi đều là những cô hồn thất thểu, vất vưởng, khổ đau, không nơi nương tựa. Nguyễn Du khóc cho họ, khóc cho tất cả. Khi họ sống ông vẫn phân biệt rõ ràng kẻ ngay người gian, kẻ ông yêu người ông ghét nhưng khi họ chết đi, Nguyễn Du thương tất cả. Ông đang sống trong cõi dương trần thế mà dường như lại chìm hẳn vào cõi chết để tìm đến, chia sẻ với trăm ngàn oan hồn bạc mệnh:
Sống đã chịu một đời phiền não
Chết lại nhờ hớp cháo lá đa.
Người đọc như chết lặng trước những lời thơ nghẹn ngào như một tiếng thở dài, một tiếng nấc đau đớn. Nguyễn Du với “con mắt trông thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” (Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân) đã nhìn thấy những cô hồn bước đi lặng lẽ về một nơi vô định trong bóng tối thăm thẳm mịt mùng. Người cũng đã lặng lẽ rơi nước mắt trong từng con chữ làm nhức nhối hàng triệu người đọc nhiều thế hệ.
Nhắc đến Nguyễn Du ta không thể không nhắc đến Truyện Kiều bởi đây là đỉnh cao trong sự nghiệp của ông nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tuy Truyện Kiều vay mượn cốt truyện từ tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng Nguyễn Du đã có sự sáng tạo tài tình làm nên một kiệt tác tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo và nỗi đau thân phận con người. Truyện Kiều cũng là một bài ca về tình yêu tự do và ước mơ công lí với những triết lí mà Nguyễn Du gửi gắm qua từng nhân vật, từng biến cố. Thúy Kiều đã bước qua lốì vườn khuya hay bước qua hàng rào phong kiến để đi theo tiếng gọi của con tim?
Truyện Kiều là tiếng kêu đứt ruột cho những nỗi đau của con người, tiếng khóc thương cho tình cảm cao đẹp bị chia lìa, xót xa cho nhân phẩm bị chà đạp. Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết lên bản cáo trạng đanh thép tố cáo các thế lực chà đạp quyền sống của con người. Đó là những kẻ như quan xử kiện, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến… Nguyễn Du luôn đau đáu nỗi đau chung của con người nên trước cảnh tối tăm phơi bày trước mắt, ông đã cất lên tiếng thét bi phẫn trước những thế lực tàn bạo đó – không chỉ có con người mà còn một thế lực vô hình khác nhưng cũng bạo tàn không kém: thế lực của đồng tiền.
Với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật sâu sắc, độc đáo, những sáng tác văn chương của Nguyễn Du đã trở thành những tác phẩm lưu giữ linh hồn dân tộc với tư tưởng nhân đạo bao trùm. Mộng Liên Đường đã từng nhận xét về Nguyễn Du như sau: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nưóc mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thìa ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”.
Với những đóng góp to lớn của mình, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào dân tộc, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam chúng ta và là Danh nhân văn hóa thế giới được cả nhân loại tôn vinh.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 7
Nền văn học Việt Nam được tạo nên bởi nhiều tài năng lớn. Trong số đó Nguyễn Du luôn xứng đáng là đại diện xuất sắc lỗi lạc nhất cho văn học dân tộc ở mọi thời đại.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê gốc ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh nhưng được sinh ra tại Thăng Long ngày 25 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 11 năm 1765). Xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, từng có nhiều người làm quan và nhiều người sáng tác văn học, cha là Nguyễn Nghiễm, từng là tể tướng triều Lê, mẹ là Trần Thị Tần, vợ thứ ba của cha, xuất thân từ một gia đình bình dân ở Bắc Ninh, vốn rất giỏi hát xướng, Nguyễn Du sớm kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của gia đình.
Cuộc đời của nhà thơ có nhiều biến đổi thăng trầm. Sau những năm tháng ấu thơ êm đềm và hạnh phúc, đến năm 10 tuổi tang thương bắt đầu ập đến: cha mất, tiếp theo hai năm sau mẹ cũng qua đời. Nguyễn Du phải đến sống nhờ nhà người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi hương đậu tam trường, rồi làm một chức quan võ ở Thái Nguyên. Năm 1789 nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình, rồi tiếp đó về sống ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đó là quãng đời "mười năm gió bụi" vô cùng long đong khổ cực của nhà thơ.
Năm 1802 nhà Nguyễn được thiết lập, Nguyễn Du bất đắc dĩ từ chối không được phải miễn cưỡng ra làm quan. Ông từng làm tri huyện, tri phủ Thường Tín, cai bạ Quảng Bình. Tiếp đó, năm 1813 ông được thăng chức học sĩ điện Cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước ông được thăng làm Tham tri bộ Lễ. Năm 1820 Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa nhưng chưa kịp đi thì ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn ông mất đột ngột trong một trận dịch lớn.
Trong cuộc đời nhiều sóng gió của mình Nguyễn Du đã để lại một sự nghiệp văn học vô giá: đồ sộ về số lượng, sâu sắc về nội dung, xuất sắc trong nghệ thuật thể hiện. Nguyễn Du sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán có ba tập: Thanh Hiên thi tập, được làm lúc nhà thơ đang sống ở quê vợ Thái Bình và quê nhà Nghi Xuân; Nam trung tạp ngâm, viết trong thời gian Nguyễn Du làm quan ở Quảng Bình; Bắc hành tạp lục là tập thơ chữ Hán xuất sắc nhất, tập hợp những sáng tác ra đời trong lúc Nguyễn Du đi sứ ở Trung Quốc.
Trong những tập thơ này có nhiều bài thơ rất đặc sắc: Độc Tiểu Thanh kí, sở kiến hành, Long Thành cầm giả ca, Thái Bình mại ca giả. về thơ chữ Nôm, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều và một tác phẩm cũng rất nổi tiếng: "Văn tế thập loại chúng sinh”.
Những sáng tác của Nguyễn Du trước hết cho thấy khả năng bao quát hiện thực và một cảm quan nhạy bén sắc sảo trước những vấn đề lớn của con người, của thời đại. Hiện thực cuộc sống với bao điều nhức nhối đã được Nguyễn Du ghi lại một cách trung thực và xúc động. Trên cái nền của sự phản ánh đó người đọc cũng thấy được ý thức phản kháng xã hội và đặc biệt là ý thức khẳng định, vun đắp cho cuộc sống hạnh phúc của con người của nhà thơ.
Trái tim của đại thi hào luôn thao thức cùng bao nỗi buồn vui của con người trên khắp chốn nhân gian: từ người ca nữ đất Long Thành nổi danh tài sắc thì giờ tủi hờn trong cảnh chiều tà xế bóng ( Long Thành cầm giá cá); từ nàng Kiều tài sắc hơn người mà một đời bất hạnh (Truyện Kiều); cho đến người hát rong (Thái Bình mại ca giả), những người ăn xin (Sở kiến hành), cả đến những cô hồn tội nghiệp đang vất vưởng trong khắp cõi trời đất (Văn chiêu hồn)… tất cả đều hiện lên sống động trong bao niềm ưu tư trăn trở của Nguyễn Du. Hơn ai hết Nguyễn Du là một nhà hiện thực và nhân đạo vĩ đại của văn chương mọi thời đại bởi con mắt nhìn thấu cả sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt đến ngàn đời của ông.
Không chỉ có vậy, sáng tác Nguyễn Du còn là minh chứng của một nghệ thuật đã đạt tới trình độ bậc thầy của một tài năng kiệt xuất. Ngôn ngữ văn chương, đặc biệt là tiếng Việt đạt đến đỉnh cao của sự nhuần nhuyễn, tinh tế, tự nhiên, có khả năng biểu hiện sâu sắc đời sống và nội tâm con người. Đó còn là thứ ngôn ngữ được kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, tạo nên nhiều sắc thái biểu hiện rất đa dạng.
Nguyễn Du còn đặc biệt thành công trong việc xây dựng nhân vật. Ông đã để lại cho nền văn học dân tộc nhiều điển hình nhân vật bất hủ. Đến Nguyễn Du thế giới nội tâm con người với bao biến thái tinh vi, phức tạp dường như mới được khám phá trọn vẹn ở những chiều sâu không cùng của nó. Có thể nói tác phẩm của Nguyễn Du đã đạt tới sự mẫu mực của nghệ thuật cổ điển.
Cuộc đời hơn năm mươi năm sống giữa trần gian của Nguyễn Du dẫu nhiều bi kịch cay đắng, có khi mất phương hướng trong những cơn lốc xoáy của lịch sử, thế nhưng trước sau Nguyễn Du vẫn là con người của tài hoa, của một trái tim luôn chan chứa dạt dào niềm yêu thương và nỗi xót đau vô hạn cho mỗi kiếp người bất hạnh trên khắp thế gian. Nguyễn Du là một tài năng, một tâm hồn mà càng qua thời gian càng ngời sáng.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 8
Hiệu là Tố Như, Thanh Hiên, con Nguyễn Nghiễm, làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), văn chương vượt hẳn bạn bè, nhưng học vị chỉ là tam trường (tú tài).
Nguyễn Du gặp nhiều khó khăn hồi con thanh niên. Mười một tuổi mồ côi cha, mười ba tuổi mất mẹ, suốt đời trai trẻ ăn nhờ ở đâu: hoặc ở nhà anh ruột (Nguyễn Khản), nhà anh vợ (Đoàn Nguyễn Tuấn), có lúc làm con nuôi một võ quan họ Hà, và nhận chức nhỏ: chánh thủ hiệu uý. Do tình hình đất nước biến động, chính quyền Lê Trình sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh, họ Nguyễn Tiên Điền cũng sa sút tiêu điều: “Hồng Linh vô gia, huynh đệ tán”.
Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Năm 1802, ra làm quan với triều Nguyễn được thăng thưởng rất nhanh, từ tri huyện lên đến tham tri (1815), có được cử làm chánh sứ sang Tàu (1813). Ông mất vì bệnh thời khí (dịch tả), không trối trăng gì, đúng vào lúc sắp sửa làm chánh sứ sang nhà Thanh lần thứ hai.
Nguyễn Du có nhiều tác phẩm. Thơ chữ Hán như Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Cả ba tập này, nay mới góp được 249 bài nhờ công sức sưu tầm của nhiều người. Lời thơ điêu luyện, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội, biểu lộ tình thương xót đối với các nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và phản diện trong lịch sử Trung Quốc, một cách sắc sảo. Một số bài như Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả, Long thành cầm giả ca đã thể hiện rõ rệt lòng ưu ái trước vận mệnh con người.
Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi Nguyễn Du đã đi qua đều toát lên nỗi ngậm ngùi dâu bể. Nguyễn Du cũng có gắn bó với cuộc sống nông thôn, khi với phường săn thì tự xưng là Hồng Sơn liệp hộ, khi với phường chài thì tự xưng là Nam Hải điếu đồ. Ông có những bài ca dân ca như Thác lời con trai phường nón, bài văn tế như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, chứng tỏ ông đã tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian với các phường vải, phường thủ công ở Nghệ Tĩnh.
Tác phẩm tiêu biểu cho thiên tài Nguyễn Du là Đoạn trường tân thanh và Văn tế thập loại chúng sinh, đều viết bằng quốc âm. Đoạn trường tân thanh được gọi phổ biến là Truyện Kiều, là một truyện thơ lục bát. Cả hai tác phẩm đều xuất sắc, tràn trề tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, phản ánh sinh động xã hội bất công, cuộc đời dâu bể. Tác phẩm cũng cho thấy một trình độ nghệ thuật bậc thầy.
Thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết. Giai thoại xung quanhi cũng rất phong phú. Tuồng Kiều, cải lương Kiều, phim Kiều cũng ra đời. Nhiều câu, nhiều ngữ trong Truyện Kiều đã lẫn vào kho tàng ca dao, tục ngữ. Từ xưa đến nay, Truyện Kiềuđã là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc bút chiến. Ngay khi Truyện Kiều được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều trường học của các nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Đầu thế kỷ XX, cuộc tranh luận về Truyện Kiều càng sôi nổi, quan trọng nhất là cuộc phê phán của các nhà chí sĩ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phản đối phong trào cổ xuý Truyện Kiều do Phạm Quỳnh đề xướng (1924).
Năm 1965, Nguyễn Du chính thức được nhà nước làm lễ kỷ niệm, Hội đồng hoà bình thế giới ghi tên ông trong danh sách những nhà văn hoá thế giới. Nhà lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng ở làng quê ông xã Tiên Điền. Trường viết văn để đào tạo những cây bút mới mang tên ông.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 9
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà lãnh đạo tài tình và với sự nhìn đời thấu đáo, tầm lòng luôn hướng đến sự tốt đẹp cho người dân.
Nguyễn Du tên thật là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở Làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 trong một gia đình quyền quý có nhiều đời làm quan to ở triều đình. Cha ông là Nguyễn Nghiễm từng có khoảng thời gian 15 năm giữ chức Tể tướng. Mẹ ông là Trần Thị Tần - một người phụ nữ có tài xướng ca. Nhưng biến cố đã đến với cuộc đời ông, năm 10 tuổi mồ côi cha, năm 13 tuổi mồ côi mẹ, từ một mảnh đời giàu có đã trở thành một con người nghèo khổ, cơ cực.
Hơn 10 năm sinh sống và trải nghiệm ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống rất gần gũi với nhân dân và thẫm đẫm tình cảnh nghèo khổ của kiếp người lao động, trẻ em, phụ nữ, ăn mày....Những thân phận bần cùng xã hội. Chính nỗi bất hạnh lớn nhất của cuộc đời Nguyễn Du đã đúc kết tính cách và bản chất thiên tài của ông - nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
Miễn cưỡng trước lời mời của nhà Nguyễn, ông ra làm quan. Ông được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử đi làm Chánh sứ đi Trung Quốc vào năm 1813. Năm 1820, ông được cử đi lần thứ hai thì lại mất đột ngột vào ngày 18-9-1820. Suốt khoảng thời gian làm quan, ông trầm tính, ít nói, lại chan chứa rất nhiều tâm sự không biết trải lòng cùng ai.
Nguyễn Du là nhà thơ dù phải sống trong cảnh cơ cực, khổ đau mà vẫn mở hồn đón lấy tất cả những vẻ vang của cuộc đời. Thơ chữ Hán của ông giống như nhật ký ghi chép lại tất cả các hoạt động đời sống, tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lay lắt,cơ cực, nghèo đói, bệnh tật,...đều được ông ghi chép lại rất tỉ mỉ, cẩn thận.
Truyện Kiều mượn bối cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là lời buộc tội đanh thép của ông về những tội ác tày trời của xã hội phong kiến thối nát, độc ác mà ông đã được chứng kiến. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, kiên quyết, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc thường được thấy trong từng tác phẩm để đời của Nguyễn Du.
Những tác phẩm của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là sự quan tâm đặc biệt đối với những thân phận bất hạnh của con người trong xã hội phong kiến. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là bản tình ca của đôi uyên ương trong sáng, da diết, mãnh liệt, là giấc mộng được tự do, công bằng trong cuộc đời để cháy bỏng với nửa kia của mình. Nhưng xuyên suốt Truyện Kiều chỉ đầy ắp những tiếng khóc xé ruột cho số phận của người phụ nữ xinh đẹp bị chà đạp dữ dội cả về thể xác lẫn tinh thần.
Không chỉ riêng Truyện Kiều mà hầu hết các tác phẩm của ông đều bao trùm những sự đau thương, mất mát đến khó tả. Thậm chí ông còn vượt qua cả không gian biên giới, vượt cả khoảng cách giữa ta và địch để thương xót cho những kẻ phải hy sinh nơi chiến trường.
Nguyễn Du là một người có công rất lớn trong sự nâng tầm nền văn học Việt Nam, cho sự phong phú, thiên biến vạn hóa của tiếng Việt. Đặc biệt, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm biểu tượng cho nền văn học Việt Nam đối với thế giới.
Thuyết minh Nguyễn Du - mẫu 10
Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, tên thật là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Thời thơ ấu, ông sống tại Thăng Long trong một gia đình quyền quý. Nhưng đến năm 10 tuổi, cha ông mất, năm 13 tuổi, mẹ ông mất, Nguyễn Du chuyển đến sống cùng với người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.
Do nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, từ một con của gia đình giàu có đầy quyền lực mà ông đã trở thành một mảnh đời đầy cơ cực, nghèo khổ. Năm 1802, Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn và đường công danh, đời sống trở nên chuyển biến tích cực hơn.
Nguyễn Du là một nhà thơ có học vấn uyên bác hơn người, ông thành thạo rất chắc nhiều thể loại thơ Trung Quốc như: ca, hành, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật,... nên ở thể thơ nào ông cũng đều có những tác phẩm rất xuất sắc. Đặc biệt nhất không thể bỏ qua tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam là "Truyện Kiều". Ngày nay, "Truyện Kiều" vẫn được các nhà xuất bản cho ra số lượng lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng khác nhau để tất cả các quý bạn đọc trên thế giới có thể cảm nhận và đánh giá về tác phẩm. Các chuyên gia và nhà nghiên cứu về văn học đánh giá rất cao Truyện Kiều.
Đặc điểm nội dung: Những tác phẩm của ông có khuynh hướng đề cao xúc cảm, tức là đề cao tình nghĩa, tình yêu. Những khái quát của ông về cuộc đời, thân phận con người trong xã hội thối nát, độc ác phong kiến thường mang tính triết lý cao và thẫm đẫm xúc cảm.
Nguyễn Du là một nhà thơ sống trọn đời với nghệ thuật, sống hết mình với tình cảm, tư tưởng, tài năng nghệ thuật thông qua rất nhiều tác phẩm để đời của ông, rõ nét nhất là tác phẩm "Truyện Kiều". Đọc tác phẩm này ta thấy được sự độc ác của xã hội phong kiến, thấy được những ý nghĩa của Nguyễn Du hàm ẩn trong từng câu thơ. Một Nguyễn Du thâm thúy, nhiều trải nghiệm, chất chứa đầy ắp tình thương yêu nhân dân, hiểu rõ bản thân mình, hiểu đời, một người khát khao bình yên cho dân tộc, nhân dân.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Thuyết minh Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1
- Thuyết minh tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
- Thuyết minh tác phẩm Phú sông Bạch Đằng
- Thuyết minh trò chơi dân gian
- Thuyết minh truyện Lão Hạc
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

