Phân tích bài thơ Ánh trăng (hay, ngắn gọn)
Đề bài: Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Phân tích bài thơ Ánh trăng (hay, ngắn gọn)
Dàn ý Phân tích bài thơ Ánh trăng
1, Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ. Sau 1975, những sáng tác của ông càng trở nên sâu sắc, đa nghĩa, thể hiện sự đa diện của cuộc sống.
+ Bài thơ nói tới hình ảnh quen thuộc trong thi ca, nhưng với một hơi thở hiện đại, mang nhiều suy tư, ý nghĩa ánh trăng trở nên khác biệt.
2, Thân bài
a, Con người trong quá khứ hòa mình với thiên nhiên, vầng trăng là tri kỉ
- Kí ức tuổi trẻ sống chan hòa với thiên nhiên, sống chân chất giản dị:
+ Lúc còn nhỏ: “sống với đồng”, “với sông”, “với bể”.
+ Trong thời chiến tranh: ở rừng, cuộc sống khó khăn thiếu thốn, tuy vất vả nhưng vẫn đầy nét thơ mộng vì có trăng làm tri kỷ.
⇒ thiên nhiên nuôi dưỡng tâm hồn con người trở nên thơ ngây, trong trẻo: “trần trụi”, “hồn nhiên” không đắn đo suy nghĩ, không toan tính thiệt hơn. Trong khó khăn con người sống đùm bọc nhau, che chở cho nhau như rừng như núi che chở cho quân dân khỏi kẻ thù.
+ Hình ảnh trăng lúc đó là vầng trăng “tình nghĩa”, vầng trăng bầu bạn, vầng trăng hi vọng: theo chân con người trong những buổi hành quân, soi sáng con đường những đêm tối, đem lại cảm giác bình yên, an ủi như người thân.
b, Con người ở hiện tại lãng quên quá khứ
- Hoàn cảnh hiện tại: ở thành phố đầy đủ tiện nghi với “ánh điện cửa gương”, nhà cao tầng.
- Vị trí của trăng hiện tại: “Như người dưng qua đường”, trở nên nhỏ bé, xa lạ.
⇒ Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa hai khổ thơ đầu với khổ thơ thứ ba tạo sự khác biệt, thay đổi một cách chớp nhoáng của hoàn cảnh sống, của lòng người.
c, Sự đối diện giữa trăng và người
- Hoàn cảnh: mất điện, sự tiện nghi của cuộc sống hiện đại đột ngột biến mất, quay trở về thuở quá khứ khó khăn, tăm tối ⇒ nhân vật mở cửa sổ và thấy vầng trăng tròn, tỏa sáng.
⇒ Tác giả sử dụng một loạt tính từ, động từ mạnh: thình lình, tối om, vội, bật tung, đột ngột.
- Sự đối diện giữa nhân vật với vầng trăng như đối diện với chính mình, với quá khứ:
+ Tư thế đối mặt: Ngửa mặt lên nhìn mặt
+ Vầng trăng gợi lại những kỉ niệm trong quá khứ: đồng, bể, sông, rừng – mỗi địa điểm gắn với đường đời của nhân vật đều có ánh trăng làm bạn.
+ Cảm xúc: trăng là hiện thân của tất cả những gì đã qua trong quá khứ, là tuổi thơ, là chiến tranh gian khổ nhưng hào hùng, là sự hi sinh xương máu nhưng đánh đổi lấy cuộc sống hiện tại tự do, đủ đầy. Nhân vật đã lãng quên tất cả, mải mê hưởng thụ cuộc sống mới, đến khi nhìn lại thì như đánh mất một phần bản thân mình, xúc động và hối hận.
d, Sự nhắc nhở, thức tỉnh con người không được quên giá trị truyền thống, không được quay lưng với quá khứ
- Sự bất biến của quá khứ, của giá trị truyền thống: Trăng vẫn luôn “tròn vành vạnh”, là vầng trăng của sự bao dung, tha thứ (“kể chi người vô tình”). Trăng không biết nói, cũng như quá khứ không biết trách móc kẻ vô tình: “kể chi”.
- Sự giật mình thức tỉnh của nhân vật: không ai trách móc anh ta, nhưng tự bản thân anh đã nhận ra sai lầm của mình khi lãng quên quá khứ, bao gồm cả những gì tốt đẹp, trong trẻo lẫn khó khăn, mất mát.
- Liên hệ so sánh với câu nói nổi tiếng của nhà thơ Gamzatov: “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”
3, Kết bài
Khái quát giá trị bài thơ:
- Bài thơ cho thấy những ý nghĩa khác của hình ảnh vầng trăng: vầng trăng còn mang ý nghĩa như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến cuộc sống của con người trong quá khứ.
- Bài thơ giàu tính triết luận, răn dạy con người không được lãng quên quá khứ, ghi nhớ nó với lòng biết ơn và lấy nó làm động lực phấn đấu cho tương lai.
Phân tích bài thơ Ánh trăng - mẫu 1
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sau chiến tranh, Nguyễn Duy tiếp tục làm thơ và thơ ông ngày càng trở nên đậm đà với một phong cách, giọng điệu “quen thuộc mà không nhàm chán”.Thơ Nguyễn Duy giản dị, gần gũi song đầy suy tư, chiêm nghiệm triết lí sâu sắc về cuộc đời và con người. Bài thơ "Ánh trăng" là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó của Nguyễn Duy.Tác phẩm được viết vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Qua bài thơ, Nguyễn Duy muốn lời nhắc nhở, thức tỉnh người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa, thủy chung cùng quá khứ, thức dậy trong tâm hồn người lính lòng trung hiếu vẹn tròn với cách mạng, với nhân dân về những năm tháng gắn bó với thiên nhiên, với đất nước.
Bài thơ là một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Dòng xúc cảm của nhà thơ cũng men theo dòng tự sự này mà bộc lộ tâm tư, suy ngẫm chiêm nghiệm.
Trước hết, bài thơ mở ra những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ xa xôi:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Với giọng thơ tâm tình, thủ thỉ, tác giả đã gợi nên những kỉ niệm của một quãng thời gian dài từ khi còn nhỏ cho tới lúc trưởng thành trở thành người lính trong chiến tranh. Tất cả đều thấm đẫm ánh trăng. “Hồi nhỏ” gắn mình với thiên nhiên như với đồng ruộng, với sông bể của quê hương. Lớn lên trở thành người lính xông pha trận mạc gắn mình với rừng núi bao la, bát ngát. Trong cuộc ấy, con người sống chan hòa với thiên nhiên, bình dị, ấm áp, hiền hòa.Và vầng trăng “tri kỉ”, “tình nghĩa” đã minh chứng cho sự gắn kết giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Ở đây, Trăng được nhân hóa như con người và trở thành người bạn tuyệt vời cùng với con người: Trăng chia sẻ mọi vui buồn, gian khó, đồng cam cộng khổ xoa dịu những vết thương của chiến tranh bằng thứ ánh sáng dịu hiền nên trở thành người bạn “tri kỉ”, tri âm. Con người sống “trần trụi với thiên nhiên”, “hồn nhiên như cây cỏ”, một cuộc sống thanh thản, giản dị và thỏa lòng. Và trăng với người sống chan hòa, gắn bó đằm thắm “tình nghĩa” với nhau. Vì vậy, lòng đã tự hẹn với lòng bằng một tấm lòng thủy chung, tình nghĩa, son sắt: “bao giờ quên”. Nhưng từ “ngỡ” như vừa thể hiện niềm xót xa, tiếc nuối, ân hận; lại vừa báo hiệu trước sự đổi thay một tình nghĩa đáng lẽ cần phải trân trọng.
Nếu như ở hai khổ thơ đầu, tác giả đưa người đọc trở về với quá khứ xa xăm, thì đến với khổ ba, Nguyễn Duy lại đã đưa người đọc trở về với hiện tại trong sự tác động của hoàn cảnh đến con người, khiến con người lãng quên vầng trăng:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Thành phố là một địa điểm khác, hoàn toàn mới mẻ, đối lập với không gian sống hồi nhỏ và khi còn là người lính trên chiến trường. Hình ảnh “ánh điện cửa gương” là hình ảnh hoán dụ, biểu tượng cho cuộc sống đủ đầy, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại nơi phồn hoa đô thị, rời xa với thiên nhiên. Từ đó, nhà thơ đã diễn tả sự thay đổi tình cảm của con người: “Vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa” kia đã trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng đi qua ngõ nhưng con người hờ hững, thờ ơ, không còn nhận ra trăng từng là người bạn tri kỉ, tình nghĩa một thời nữa. Câu chuyện tâm tình được kể ngắn gọn, súc tích, mộc mạc, giản dị mà chân thành; những câu chữ đầu dòng thơ không viết hoa đã diễn tả dòng suy tư miên man không dứt của nhà thơ trước sự chảy trôi của thời gian, năm tháng và sự thay đổi của lòng người trước cuộc sống tiện nghi.
Tưởng chừng như Trăng cứ thế mà chìm khuất đi mãi mãi, người với Trăng sẽ chẳng còn cơ hội mà gặp gỡ nhau. Bởi trước phồn hoa đô hội, dưới ánh sáng cửa gương, đèn điện, dưới sự bận bịu, lo toan cho cuộc sống của con người thì Trăng sẽ trở nên nhạt nhòa, chìm khuất nhưng nó đã có dịp bừng sáng lên khi một tình huống bất ngờ xảy đến, để rồi đánh thức biết bao nhiêu là suy ngẫm, kỉ niệm dội về trong lòng thi nhân:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Nếu ở các khổ thơ trước, giọng thơ đều đều, chậm dãi, miên man trong những kỉ niệm tươi đẹp của quá khứ thì đến khổ bốn, giọng thơ đã đột ngột cất cao, thể hiện sự choáng ngợp, bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của vâng trăng trước khung của sổ. Mất điện, theo một lẽ tự nhiên khi con người chỉ tìm tới nơi có ánh sáng, hạnh động phản xạ như một thói quen “vội bật tung cửa sổ” và con người đã vô tình bắt gặp “vầng trăng tròn” tình nghĩa năm nào. Nghệ thuật đảo ngữ đã đẩy từ “đột ngột” lên đầu câu thơ, nhấn mạnh đến sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, bàng hoàng của con người khi bắt gặp vầng trăng. Vầng trăng tròn vành vạnh, chan chứa tình nghĩa vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng con người, vẫn luôn lặng lẽ tỏa sáng không hề hao khuyết. Còn con người thì lãng quên vầng trăng nên khi bắt gặp vầng trăng mới cảm thấy bất ngờ, đột ngột đến như vậy.
Mọi khoảng lặng xung quanh rất cần cho lúc này, mọi thứ như ngừng trôi đi, nhường chỗ cho hai tâm hồn gặp gỡ:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì dưng dưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng “Ngửa mặt lên nhìn mặt” và ngậm ngùi “rưng rưng” như trực trào nước mặt sắp khóc, vừa vui mừng, vừa ngẹn ngào không nói được thành lời. Từ “mặt” ở cuối câu thơ đầu là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa nghĩa của ý thơ: Nhà thơ đối diện với vầng trăng, người bạn tri kỉ mà mình đã lãng quên. Người đối diện với trăng, trăng đối diện với người hay chính là quá khứ đối diện với hiện tại, thủy chung tình nghĩa đối diện với sự bạc bẽo, vô tình. Đối diện với trăng, nhà thơ như soi thấy cả mình trong đó, như được sống lại với những năm tháng gắn bó với thiên nhiên “đồng, sông, rừng, bể”. Vì thế, đã làm cho con người nhà thơ “rưng rưng” xúc động. Sự xúc động ấy vừa là niềm vui khi được sống lại với quá khứ; lại vừa là giọt nước mắt của sự ăn năn, cảm thấy hổ thẹn, ân hận về sự đổi thay của chính mình. Giọng thơ chuyển từ sự bất ngờ, đột ngột chuyển sang xúc động “rưng rưng”. Điệp ngữ “như là”, kết hợp với biện pháp liệt kê hình ảnh “đồng – sông – rừng – bể” đã khiến nhịp thơ trở nên trầm lắng, chậm rãi và những lớp sóng của hoài niệm xa xăm cứ tự đâu ùa về thật xúc động thiêng liêng.
Từ hồi tưởng đến hiện tại, từ hiện tại tới xúc động rưng rưng và cuối cùng lắng dần vào trong những suy ngẫm, chiêm nghiệm. Đó là những phút giây bừng ngộ của tâm hồn nhà thơ mà cũng chính là lời nhắn nhủ thiết tha mà Nguyễn Duy muốn gửi gắm trong cuộc đời:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kế chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Suốt chiền dài bài thơ, Trăng được miêu tả với rất nhiều những định ngữ khác nhau như: trăng tri kỉ, trăng tình nghĩa, vầng trăng tròn và cuối cùng kết tinh thành "Trăng cứ tròn vành vạnh". Điều đó đã cho thấy, trăng trở thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng, không thay đổi; biểu tượng cho sự tròn đầy, thủy chung, trọn vẹn của thiên nhiên tươi đẹp trong quá khứ, trong hiện tại và cả tương lai, cho dù lòng người đổi thay, khiếm khuyết “vô tình”. Hình ảnh ánh trăng được nhân hóa với thái độ “im phăng phắc” gợi cho chúng ta liên tưởng tới cái nhìn nghiêm khắc như trách móc, nhắc nhở con người về thái độ “vô tình” bạc bẽo, lãng quên của chính mình. Nhưng đồng thời thái độ "im phăng phắc" đó của trăng cũng chất chứa cả sự bao dung, nhân từ, độ lượng của người bạn thủy chung, tình nghĩa. Bởi dù lòng người thay đổi nhưng trăng vẫn dõi theo người, vẫn lặng lẽ tỏa sáng, vẫn cứ “tròn vành vạnh”. Dòng thơ cuối dòn nén biết bao nhiêu là cảm xúc trong cái “giật mình” của con người. Chính sự im lặng của trăng đã làm cho con người phải “giật mình” thức tình, hay đó chính là cái "giật mình" của nhân cách, của lương tâm, là lời sám hối chân thành để rửa sạch tội lỗi, để tâm hồn trở nên trong sạch và sống tốt đẹp hơn.
Lời thơ chuyển từ “vầng trăng tròn vành vạnh” sang hình ảnh “ánh trăng” chất chứa nhiều ý nghĩa khái quát: nếu như vầng trăng tròn là để nói về quá khứ thủy chung, tình nghĩa vẹn nguyên thì “ánh trăng” lại để nói đến vầng hào quang của quá khứ, ánh sáng của lương tâm, của đạo đức soi rọi xua tan đi những bóng tối của sự lãng quên, bội bạc và làm con người thức tỉnh, tâm hồn trở nên trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn. Vì thế, ánh trăng của Nguyễn Duy là một thứ vầng trăng mang đầy tính nhân văn, nhân bản sâu sắc. Nó trở thành một bài học không chỉ dành riêng cho những người lính mà còn có ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời đại để rồi từ đó, tự mỗi người trong mỗi chúng ta sẽ tự đối diện với chính mình, với quá khứ xem mình đã sống ra sao, như thế nào...
Bài thơ kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa biểu cảm và tự sự, tạo nên như một câu chuyện riêng, một lời tâm sự chân thành, một lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà sâu lắng. Kết cấu và giọng điệu làm nổi bật chủ đề và tạo sức truyền cảm cho bài thơ. Hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa và chất chứa chiều sâu suy ngẫm, triết lí. Các câu thơ liền mạch, không dùng dấu câu, không viết hoa đầu dòng (trừ chữ cái đầu mỗi khổ thơ) như diễn tả dòng tâm tư triền miên, thiết tha, sâu lắng.
Tóm lại, qua bài thơ, người đọc thấy được những ẩn ý sâu xa và những bài học mang tầm triết lí sâu sắc mà nhà thơ muốn gửi gắm tới người đọc, đó là thái độ sống "uống nước nhớ nguồn", ân nghĩa thủy chung trong quá khứ.
Phân tích bài thơ Ánh trăng - mẫu 2
Cát trắng và Ánh trăng là hai tập thơ của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Một hồn thơ tươi trẻ tỏa mát bóng tre, như con sóng vỗ dòng sông thơ ấu phảng phất hương vị đồng quê:
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váy bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trầm.
(Đò Lèn)
Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Đò Lèn... là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơ Ánh trăng rút trong tập thơ cùng tên, được tác giả viết vào năm 1978, tại Thành phố Hổ Chí Minh. 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thành: vầng trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà nó còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ vầng trăng đối với mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng vô tình lãng quên.
Nếu như trong bài thơ Tre Việt Nam, câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng thì ở bài thơ Ánh trăng này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, kỉ niệm?
Hai khổ thơ đầu nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng thời chiến tranh. Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la: "Hồi nhỏ sống với đồng - với sông rồi với bể". Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng - sông); từ "với" được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Tuổi thơ của chúng ta dễ có mấy ai được cái cơ may ấy như nhà thơ? Thuở bé nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng chỉ được ngắm trăng nơi sân nhà: "Ông trăng tròn sáng tỏ - Soi rõ sân nhà em... Chỉ có trăng sáng tỏ - Soi rõ sân nhà em... " (Trích Trăng sáng sân nhà em).
Tuổi thơ được ngắm trăng thích thế, như một chút hoài niệm xa vời. Hai câu thơ tiếp theo nói về hồi máu lửa, trăng với người lính, trăng đã thành "tri kỉ":
Hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.
"Tri kỉ": biết người như biết mình; bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ- Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng "Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm" (Hồ Chí Minh). Giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới "Đầu súng trăng treo" (Chính Hữu). Nẻo đường hành quân của người chiến sĩ nhiều đêm đã trở thành "nẻo đường trăng dát vàng". Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương. Đất nước trải qua những năm dài máu lửa, trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù:
Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao.
(Phạm Tiến Duật)
Các tao nhân ngày xưa thường "đăng lâu vọng nguyệt", còn anh bộ đội Cụ Hồ một thời trận mạc đã nhiều phen đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm vành trăng cao nguyên. Thật là thú vị khi đọc vần thơ Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng: "hồi chiến tranh ở rừng - vầng trăng thành tri kỉ".
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Lại một vần lưng nữa xuất hiện - Một ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh:
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ.
Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành "vầng trăng tri kỉ", "vầng trăng tình nghĩa" ngỡ như không bao giờ có thể quên. Một ý thơ làm động đến đáy tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình: "ngỡ không bao giờ quên - cái vầng trăng tình nghĩa "
Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống đổi thay, con người dễ thay đổi, có lúc dễ trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành "ăn ở bạc". Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được trưng diện và xài sang: buyn-đinh, cao ốc, quen ánh điện, cửa gương... Và "vầng trăng tri kĩ", "vầng trăng tình nghĩa" đã bị người lãng quên, dửng dưng. Cách so sánh thấm thía làm chột dạ nhiều người:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.
Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Người có lương tâm, lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối để tự hoàn thiện nhân cách, tự vươn lên, hướng tâm hồn về ánh sáng và cái cao cả. Không đao to búa lớn, không đại ngôn, mà trái lại, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự, nhà thơ đang trò chuyện với mình. Chất trữ tình của thơ ca trở nên sâu lắng, chân thành.
Cũng như dòng sông có thác ghềnh, có quanh co, uốn khúc, cuộc đời cũng có nhiều biến động li kì. Ghi lại một tình huống "cuộc sống thị thành"của những con người mới ở rừng về thành phố, nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ. Các từ "thình lình", "vội", "đột ngột" gợi tả tình thái đầy biểu cảm. Có nhà triết học nói: "Cuộc đời dạy ta nhiều hơn trang sách . Vần thơ của Nguyễn Duy nói với ta rất nhiều:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bạt tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
Trăng xưa đã đến với người, vẫn "tròn", vẫn "đẹp", vẫn thủy chung với mọi người, mọi nhà, với thi nhân, với người lính. Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng,là bể
như là sông, là rừng.
Nguyễn Tuân từng coi trăng là "cố nhân", nhà thơ Xuân Diệu, trong bài Nguyệt cầm viết cách đây 60 năm cũng có câu: "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần". Trở lại với tâm trạng người lính trong bài thơ này. Một cái nhìn đầy áy náy xót xa: "Ngửa mặt lên nhìn mặt". Hai chữ "mặt" trong vần thơ: mặt trăng và mặt người cùng "đối diện đàm tâm". Trăng chẳng nói, trăng chẳng trách thế mà người lính cảm thấy "có cái gì rưng rưng". "Rưng rưng" nghĩa là vì xúc động, nước mắt đang ứa ra, sắp khóc. Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại, trong sáng lại, cái tốt lành hé lộ. Bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về, tâm hồn gắn bó, chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông, với rừng, với quê hương đất nước. Cấu trúc câu thơ song hành, với biện pháp tu từ so sánh, với điệp từ (là) cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa:... "như là đồng, là bể - như là sông, là rừng". Đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành, ở tính biểu cảm, tính hình tượng và hàm súc, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấm thía.
Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
"Tròn vành vạnh" là trăng rằm, một vẻ đẹp viên mãn. "Im phăng phắc" là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ "kể chi người vô tình" là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thuỷ chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời kì chiến tranh chống Mĩ.
Ánh trăng là một bài thơ hay. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, tài hoa. Sự phong phú vần điệu, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ tâm tình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhà thơ tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình. Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng "ánh trăng"đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ. Không nên sống vô tình. Phải thủy chung trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son với bạn bè, đồng chí, với nhân dân - đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay, thật cảm động qua bài thơ này.
Phân tích bài thơ Ánh trăng - mẫu 3
Nguyễn Duy là nhà thơ quân đội, ông trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, thơ ông cuốn hút người đọc ở cảm xúc chân thành, gần gũi. Thơ ông giàu chất triết lí, đi sâu vào nhưng suy tư, trăn trở về cuộc sống và con người. Ánh trăng cũng là một bài thơ như vậy, tác phẩm như một lời nhắc nhở, tự vấn của tác giả về cách ứng xử với quá khứ.
Tác phẩm được sáng tác năm 1978, ba năm sau khi đất nước thống nhất hoàn toàn. Người chiến sĩ trở về với cuộc sống đời thường, với những lo toan, tất bật của cuộc sống bởi vậy đã vô tình lãng quên bội bạc với quá khứ. Tác phẩm chính là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh con người trước thái độ sống ấy.
Ngay từ nhan đề bài thơ đã chứa đựng tính biểu tượng, giàu ý nghĩa. Vầng trăng vừa là một hiện tượng thiên nhiên nhưng nó còn là một biểu tượng nghệ thuật. Ánh trăng tượng trưng cho những gì tinh túy, trong sáng, đẹp đẽ nhất, là quá khứ thủy chung, vẹn nguyện. Ánh trăng còn là biểu tượng cho con người chân chất, giản dị, nghĩa tình: là đồng đội, là nhân dân.
Mở đầu bài thơ tác giả tái hiện lại quá khứ đầy đẹp đẽ giữa con ngươi và vầng trăng: Hồi nhỏ sống với đồng/ với sông rồi với bể/ hồi chiến tranh ở rừng/ vầng trăng thành tri kỉ. Những năm tháng tuổi thơ êm đềm, thiên nhiên gần gũi: đồng, sông, bể luôn ở bên, đó là không gian chứa đầy tình yêu thương. Ở đây cần đặc biệt chú ý trình tự liệt kê, tác giả đi từ nhỏ hẹp đến rộng lớn: từ đồng ruộng quê hương đến biển cả đất nước. Đó là không gian của kỉ niệm tuổi thơ luôn có ánh trăng bầu bạn, ánh trăng còn là nơi lưu giữ biết bao kỉ niệm hồn nhiên, ngọt ngào của tuổi thơ. Không chỉ vậy, khi đã trưởng thành, vào chiến trường đối mặt với nhiều khó khăn, gian khổ, thậm chí cái chết, vầng trăng không chỉ còn là người bạn mà còn là tri kỉ của những người lính. Những năm tháng đó con người được sống một cuộc sống vô tư, hồn nhiên: Trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ. Giữa con người và thiên nhiên không còn khoảng cách, tác giả sử dụng biện pháp so sánh hồn nhiên như cây cỏ đã giúp hữu hình hóa tâm hồn con người, cho thấy đó là tâm hồn vô tư, không toan tính thiệt hơn. Từ đó tác giả đã khẳng định: ngỡ không bao giờ quên/ cái vầng trăng tình nghĩa. Trong lòng tác giả vẫn luôn đinh ninh rằng tình cảm hồn nhiên, trong sáng, bền chặt ấy sẽ khiến tác giả không bao giờ quên lãng. Hai khổ thơ đầu đã tái hiện chân thực hình ảnh vầng trăng trong quá khứ, đồng hành cùng người lính, là tri âm, tri kỉ của họ.
Hai khổ thơ tiếp tác giả tái hiện con người và vầng trăng ở thời điểm hiện tại. Câu thơ từ hồi về thành phố là bản lề khép mở giữa phần trước và phần sau của bài thơ, đánh dấu những thay đổi của con người, họ bước vào cuộc sống đời thường. Họ sống trong không gian thành phố đông đúc, quen ánh điện cửa gương, quen với cuộc sống tiện nghi hàng ngày. Bởi vậy, đã dẫn đến hệ quả tất yếu: vầng trăng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường. Vầng trăng vốn là tri kỉ nay lại chỉ là người dưng, thật đắng cay và chua xót biết nhường nào. Con người bị những ồn ào, sa hoa của cuộc sống mà quên đi người bạn tình nghĩa, không cảm nhận được vầng trăng trong cuộc sống hàng ngày của họ. Ánh sáng nhân tạo của những bóng đèn cao áp đã làm vầng trăng bị lu mờ. Con người không chỉ mất đi những cảm nhận về thiên nhiên mà còn đánh mất cả nghĩa tình sâu nặng trong quá khứ. Và một cuộc hội ngộ đầy bất ngờ đã diễn ra: Thình lình đèn điện tắt/ phòng buyn-đinh tối ôm/vội bật tung cửa sổ/đột ngột vầng trăng tròn. Hoàn cảnh diễn ra cuộc hội ngộ vô cùng bất ngờ, ánh sáng nhân tạo vụt tắt, như một lẽ tự nhiên con người vội vàng mở cửa sổ để tìm lại ánh sáng. Và cũng chính lúc ấy vầng trăng đột ngột hiện ra. Đột ngột được đảo lên đầu câu, gợi lên cảm giác bàng hoàng, ngỡ ngàng khi con người gặp lại người bạn xưa. Vầng trăng vẫn vậy, vẫn tròn, vẹn nguyên như thuở xưa, vẫn rất gần gũi bên con người, theo dõi con người không oán thán dù nhận lại chỉ là sự thờ ơ, dửng dưng. Hai khổ thơ đã cho thấy và lí giải sự đổi thay của họ trước và sau chiến tranh, đồng thời tạo dựng nên tình huống kịch tính thức tỉnh tâm hồn họ.
Ngẩng mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng
Điệp từ mặt được dùng với lối chuyển nghĩa độc đáo, mặt thứ nhất là nghĩa gốc, mặt của con người, mặt thứ hai là mặt trăng được nhân hóa. Hai gương mặt vốn tri âm tri kỉ, sau thời gian dài xa cách nay được gặp lại nhau. Nhưng đây đồng thời cũng là giây phút để con người soi chiếu vào chính mình, để nhận ra những thay đổi theo chiều hướng tiêu cực của bản thân, quên đi quá khứ ân tình khi xưa. Để rồi cái rưng rưng xúc động cũng là giây phút con người thức tỉnh lương tri của chính mình. Và đồng thời hình ảnh những người bạn thuở thiếu thời, khi ở rừng lại ùa về trong kí ức tác giả: đồng, sông, bể, rừng. Và con người càng thức tỉnh hơn khi quá khứ vẫn vẹn nguyên tình nghĩa : Trăng cứ còn vành vạnh/ kể chi người vô tình/ ánh trăng im phăng phắc/ đủ cho ta giật mình. Ánh trăng vẫn vành vạnh tròn, nghĩa tình không thay đổi, không vơi cạn đó cũng là ẩn dụ cho tình cảm vẹn nguyên của nhân dân đất nước. Nhưng đồng thời ánh trăng ấy cũng hết sức nghiêm khắc im phăng phắc vừa bao dung lại vừa nghiêm khắc để nhắc nhở, cảnh báo và cũng là để thức tỉnh con người. Cái giật mình của con người đã đánh dấu sự thức tỉnh trong họ. Nhận ra những cám dỗ vật chất tầm thường mà quên đi những giá trị tinh thần đẹp đẽ, khiến tâm hồn nghèo nàn quá khứ. Nhận ra cần phải biết trân trọng, nâng niu và biết ơn quá khứ.
Tác phẩm sử dụng thể thơ ngũ ngôn với nhiều sáng tạo độc đáo: Chữ cái đầu khổ viết hoa và dùng duy nhất một dấu phẩy và một dấu chấm kết bài, khiến cho các câu thơ liền mạch, dòng cảm xúc triền miên hơn. Sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, gần gũi nhưng giàu sức gợi. Giọng điệu tâm tình, tha thiết, chứa đựng nhiều cảm xúc, suy tư.
Bài thơ với giọng điệu tha thiết, chứa đựng nhiều suy tư, triết lí đem đến những bài học sâu sắc cho con người. Đó là lời nhắn gửi đến mỗi chúng ta không được lãng quên quá khứ ân tình, thủy chung. Là lời nhắc nhở về đạo lí giản dị mà cao quý thiêng liêng của dân tộc uống nước nhớ nguồn.
Phân tích bài thơ Ánh trăng - mẫu 4
Trong thơ ca, trăng vốn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các thi nhân. Ta biết đến ánh trăng làm bạn với Bác trong ngục; ta biết đến một vầng trăng huyền bí của Hàn Mặc Tử. Và ta còn phải nhắc đến trăng trong tác phẩm Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy. Vầng trăng tự nó như một thứ thuốc thử, một lời nhắc nhở đối với mỗi con người về cách sống, cách ứng xử trong cuộc đời.
Mở đầu bài thơ, là hình ảnh xa xôi mà bình dị giữa con người và trăng:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Lời thơ mộc mạc tựa như một lời thủ thỉ, tâm tình, kết hợp vời điệp từ “với” cho thấy tuổi thơ đầy giản dị, mộc mạc, gắn bó với cỏ cây, thiên nhiên. Và trong những người bạn ấy, không thể thiếu vầng trăng mát lành, luôn ở bên cạnh chia sẻ mọi buồn vui khó khăn trong suốt quãng đời tuổi thơ, bởi vậy, “vầng trăng thành tri kỉ”. Vầng trăng hơn một người bạn thấu hiểu và cảm thông cho những cảm xúc, những khó khăn, vất vả mà bạn phải trải qua. Trăng hiện lên trần trụi gần gũi, không chút toan tính, vụ lợi: trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ.
Giữa trăng và người là hai hình tượng sóng đôi, song song đồng hành với nhau, nếu như trăng xuất hiện thì còn người lại luôn bị che khuất đi. Để rồi cuối khổ thơ thứ hai, con người phải giật mình, thảng thốt thốt lên:
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Những tưởng những năm tháng bên nhau, cùng chia sẻ gian khổ ngọt bùi, con người sẽ không thể quên được người bạn tri kỉ của mình. Nào ngờ cuộc đời có quá nhiều nỗi truân chuyên, nhiều điều lo lắng khiến ta vụt mất những điều giản dị và ý nghĩa mà không hề hay biết. Chữ “ngỡ” đặt đầu câu như một lời độc thoại thảng thốt, một lời ăn năn, xám hối muộn màng của con người. Hạnh phúc bình dị, đơn sơ thuở nào bị cái hào nhoáng, sa hoa vật chất tầm thường che khuất mất, để ta vô tình lãng quên những điều thiêng liêng:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Khổ thơ thứ ba, vầng trăng đã được nhân cách hóa thành một con người cụ thể. Ngỡ rằng vầng trăng ấy vẫn là tri kỉ, tình nghĩa bền chặt nào ngờ giờ đây lại chẳng khác gì người dưng nước lã. Thời gian có sức tàn phá thật khủng khiếp, nó có thể biến một tình cảm vốn thiêng liêng, cao đẹp, nay trở thành những mối quan hệ như chưa hề quan biết. Sự thật phũ phàng bởi thời gian, bởi lòng người thay đổi khó mà lường trước được.
Trong vòng xoáy của đồng tiền, con người mải mê lao vào tìm kiếm những sa hoa, dục vọng, để rồi khi: “Thình lình đèn điện tắt/ phòng buyn đinh tối om” , khi ấy con người mới có thời gian tự chiêm nghiệm, suy ngẫm lại. Nguyễn Duy đã lấy một sự việc hết sức bình thường, mất điện, để biến nó thành nút thắt, đẩy bài thơ lên đến cao trào, cũng chính bởi phút giây đó con người mới có cơ hội tự suy nghĩ về chính những ứng xử của mình trong cuộc sống.
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Cả khổ thơ là những chuỗi hành động gấp gáp, liên tiếp nhau. Khi con người ta mất đi ánh sáng nhân tạo, lập tức phải tìm đến một nguồn sáng khác – ánh sáng tự nhiên. Và đột ngột họ gặp lại người bạn năm xưa. Họ ngạc nhiên, ngỡ ngàng, đến nỗi chẳng nói thành lời. Trăng vẫn vậy, vẫn vẹn tròn, thủy chung và biết bao cảm xúc ùa về trong tác giả: “Ngẩng mặt lên nhìn mặt/ có cái gì rưng rưng/ như là đồng là bể/ như là sông là rừng” . Trong khoảnh khắc lặng im bất chợt, mặt người đối diện với mặt trăng, kí ức của những ngày gắn bó lại ùa về trong tác giả. Là đồng, sông, bể, rừng những người bạn gắn bó trong suốt thuở thiếu thời và những năm tháng kháng chiến kiên cường, gian khổ. Khuôn mặt của trăng chính là quá khứ ân nghĩa, thủy chung mà con người đã vô tình lãng quên. Qua bao nhiêu thăng trầm, biến động trăng vẫn vẹn nguyên, vẫn thủy chung độ lượng với con người:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Khổ thơ vận dụng hàng loạt các từ láy: vành vạnh, phăng phắc, mỗi từ láy lại mang đến những giá trị biểu cảm khác nhau. Từ láy vành vạnh cho thấy sự ân tình, thủy chung vẹn nguyên của vầng trăng từ quá khứ đến hiện tại. Từ láy phăng phắc lại là cái im lặng giúp cảnh tỉnh con người, cái nhìn đầy nghiêm khắc để con người nhận ra sự bội bạc của chính mình. Nhưng đồng thời sự im lặng ấy cũng cho thấy thái độ bao dung, độ lượng của vầng trăng, hay rộng ra là của quá khứ, của nhân dân thủy chung tình nghĩa. Cái giật mình ở cuối bài cho thấy sự hối lỗi, đã nhận ra những sai lầm của bản thân. Thật tinh tế và khéo léo, Nguyễn Duy đã sử dụng hình ảnh vầng trăng, cùng với quá trình nhận thức của nhân vật trữ tình để làm bật lên tư tưởng, chủ để của tác phẩm.
Bằng giọng điệu tâm tình tự nhiên, chân thành, hình ảnh giàu tính biểu tượng bài thơ như một lời nhắc nhở đến muôn thế hệ. Nhắc nhở về lối sống ân tình thủy chung, biết ơn quá khứ, những người đã hi sinh để cho chúng ta có cuộc sống bình yên hạnh phúc như ngày hôm nay. Bài thơ ra đời đã lâu, nhưng vẫn giữ mãi giá trị nhân văn tốt đẹp của nó.
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều