5+ Bình giảng Chuyện người con gái nam xương (điểm cao)

Bình giảng Chuyện người con gái nam xương hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

5+ Bình giảng Chuyện người con gái nam xương (điểm cao)

Quảng cáo

Bình giảng Chuyện người con gái nam xương - mẫu 1

Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống ở thế kỉ 16. Ông là một trong những nhà văn quan tâm đến số phận người phụ nữ sớm nhất. Trong Truyền kì mạn lục ta thấy nhà văn đã dành tới một phần ba số chuyện để nói về số phận bi thảm của người phụ nữ và những vấn đề hạnh phúc gia đình. Một trong số những người có số phận bi thảm đó là Vũ Thị Thiết ở Chuyện người con gái Nam Xương.

Truyện là một áng văn xuôi tự sự tập trung miêu tả cuộc đời bất hạnh của Vũ Nương và nguyên nhân xã hội tạo nên nỗi bất hạnh đó. Nàng là một phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na. Nàng có ý thức đúng mực trong việc cư xử, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép trong cuộc sống gia đình chồng vợ để tránh sự bất hòa.

Ngay từ cuộc sống ngày đầu của tình chồng vợ, đã thấy hé lộ sự mâu thuẫn giữa tính cách của hai người. Những nhược điểm của chàng Trương Sinh là tính hay ghen, độc đoán và kém học, là mầm mống của bi kịch có thể xảy ra khi có biến cố. Và điều đó thực sự đã đến với gia đình nàng: Trương Sinh là người ít học nên đã bị triều đình gọi lính ngay trong đợt đầu, thế là mối tình của họ đã “nhuộm màu quan san” (cách trở – ly biệt).

Quảng cáo

Trong giờ phút chia tay tiễn chồng lên đường, nàng đã nói với chàng Trương những lời lẽ hết sức chân tình âu yếm “chàng đi chuyến này chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Nàng là người thông minh, có trái tim nhạy cảm đã thấy được những khó khăn nơi chiến trận thế giặc, quân Triều, lo lắng hẹn kì khó giữ, mà “mùa dưa chín quá kì”.

Trong những ngày xa chồng, nàng đã bày tỏ sự khắc khoải nhớ nhung của mình: mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì “nỗi buồn góc bể chân trời” làm ngập chìm lòng nàng. Nàng quả là người rất nhạy cảm trước những cảnh sắc của thiên nhiên: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Cảnh sắc thiên nhiên có tác động mạnh đến nỗi mong nhớ, cô đơn của nàng. Nàng một mực thủy chung, thiết tha chờ chồng. Đêm đêm nàng chỉ bóng mình trên vách đùa với con thơ “cha Đản về kia kìa". Đây là cách để an ủi con và cùng tự xoa dịu bớt nỗi nhớ của chính mình.

Quảng cáo

chuyện người con gái nam xươngNàng không chỉ là người vợ thủy chung với chồng mà còn là con dâu hiếu thảo và hết mực đảm đang, tháo vát mọi việc của gia đình. Nàng vừa phải làm lụng nuôi con, vừa chăm sóc mẹ chồng ốm. Tất cả những sự vất vả đó không làm giảm chút nào tính thùy mị, nết na của nàng, nàng tận tụy săn sóc mẹ: hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật; nàng cùng nặng lòng yêu thương mẹ; lấy lời lẽ ngọt ngào khuyên lơn, lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng. “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con dã chẳng phụ mẹ”. Và lời nhận xét của tác giả “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Tất cả đều thể hiện sự đánh giá cao nhân cách Vũ Nương. Nhưng trong xã hội cũ, những người có tính cách như Vũ Nương thì làm gì có được một cuộc đời hạnh phúc. Nàng phải gánh chịu một số phận bi kịch. Cuộc chiến tranh phong kiến đã không cướp đi cuộc sống bình yên của gia đình nhưng phải chịu cái cảnh ly biệt. Nàng mong mỏi chờ chồng, hi vọng có ngày đoàn tụ. Nhưng ngờ đâu, ngày chồng về ngay sau khi cuộc chiến tranh kết thúc. Nàng những tưởng hạnh phúc đã đến trong tầm tay. Nào ngờ anh chàng vốn đa nghi, kém cỏi đã mù quáng mà nghe lời con trẻ từ một câu nói đùa của nàng trong lúc xa nhớ chồng để nàng bị chồng nghi oan là hư hỏng. Bi kịch gia đình xảy ra. Nàng tìm mọi cách để thanh minh: "thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu, sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc binh, cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có mất nết hư thân như chàng nói. Đám tóc này để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nhưng chàng Trương đâu có tin nên nàng vẫn bị “mắng nhiếc và đánh đuổi đi”.

Quảng cáo

Nàng đã hoàn toàn thất vọng, hạnh phúc đơn sơ, niềm vui “nghi gia nghi thất” không sao còn nữa đến cả nỗi đau trong tình yêu “hóa đá mong chồng” nàng cũng không có nữa, danh dự bị bôi nhọ. Bao nhiêu công sức chắt chiu để gìn giữ gia đình trở nên hoàn toàn vô nghĩa, nàng tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang để giãi tỏ tấm lòng trong trắng của mình, nàng “tắm gội chay sạch”, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm Ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin khắp mọi người phỉ nhổ”. Đây là đoạn truyện, tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính, Vũ Nương bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trẫm mình của Vũ Nương là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự sáng suốt của lý trí.

Thật cảm động cho cách lựa chọn của nàng! Phải chăng đây là cách lựa chọn duy nhất mà số phận đã định cho con người có duyên phận hẩm hiu. Cũng thật tiếc cho nàng, khi nỗi oan của vợ được chồng hiểu rõ thì mọi việc đã qua rồi, mặc dù nàng đã được các nàng tiên cứu thoát, nhưng đành phải sống ở chốn “làn mây cung nước” và được chồng lập đàn giải oan.

Hình ảnh Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa đứng ở giữa dòng lúc ẩn lại hiện mà nói vọng vào với Trương Sinh. “Thiếp cảm ơn đức Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng về nhân gian được nữa”. Cùng với hình ảnh “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến mất” là tất cả những nỗi xót xa cho số phận bi thảm của Vũ Nương mà tác giả cũng muốn đặt vào đó niềm hi vọng chân thành về khát vọng hạnh phúc và mong mỏi sự chiến thắng của cái thiện, của niềm tin.

Câu chuyện là một áng văn hay, đầy xúc động với những thành công của nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình. Với tấm lòng nhân đạo cao cả, với bút pháp nghệ thuật đầy bản lĩnh, khi chân thật đời thường, lúc hoang đường kì ảo, Nguyễn Dữ đã tạo ra sức hấp dẫn cho tác phẩm gây xúc động mạnh đối với người đọc.

Dàn ý Bình giảng Chuyện người con gái nam xương

1. Mở bài: Giới thiệu Chuyện người con gái Nam Xương

Ví dụ:

Để nói lên số phận của người phụ nữ ở xã hội xưa được nhiều người, đặc biệt là những tác giả nhà văn nhắc đến. Những tác phẩm nổi tiếng đều nói về thân phận đau khổ và xót xa của những người phụ nữ đáng thương ấy. Một trong những tác phẩm thể hiện nổi bật nội dung này là tác phẩm Người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Tác phẩm nói về một người phụ nữ bị vu oan là ngoại tình khiến nhiều tình huống trớ trêu xảy ra.

2. Thân bài: Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương

a. Phẩm chất của nhân vật Vũ Nương trong truyện:

Một người vợ rất chung thủy.

Vũ Nương là một người con hiếu thảo.

Cô gái đẹp người, đẹp nết.

Là biểu tượng cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam.

b. Nỗi oan khuất của Vũ Nương:

Vũ Nương luôn thủy chung với chồng, chăm sóc con chu đáo.

Chồng Vũ Nương chỉ vì một lời nói của con mà đã nghi oan cho Vũ Nương.

Khiến Vũ Nương chịu oan và chịu nhiều đau khổ.

Qua đó thể hiện định kiến của xã hội ngày xưa, những lý do lạc hậu, hủ tục mê tín của người xưa.

c. Những hình ảnh, yếu tố kì ảo trong truyện:

Chồng Vũ Nương nằm mơ rồi thả rùa.

Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi.

Vũ Nương hiện về khi Phan Lang lập đàn giải oan.

3. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về Chuyện người con gái Nam Xương

Ví dụ:

Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm nói lên số phận, tấm bi kịch của người phụ nữ xưa. Thể hiện sự đồng cảm của tác giả đối với thân phận người phụ nữ xưa. Qua đó, những hình ảnh về Vũ Nương ta nhận ra được số phận đau thương và chua xót của những người phụ nữ thời xưa.

Bình giảng Chuyện người con gái nam xương - mẫu 2

Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.

Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi.

Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.

Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.

Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thùy mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất hòa dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ … làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.

Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thủy chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tụy chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình).

Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó … mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin.

Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng … đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá….

Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giãi bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ.

Nhược bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ …” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa – con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.

Sau một năm ở thủy cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thỏa lòng nhớ chồng, con. Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam – một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, …. lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.

Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.

Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng "nam quyền", hơn nữa Trương Sinh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.

Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: "trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến..."

Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.

Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm.

Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong "Truyện Kiều'' của Nguyễn Du, người cung nữ trong "cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương,...

Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc.

"Thắt nút" truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiến phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trên một dòng sông.

"Gỡ nút" cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: "cha Đản lại đến kia kìa") thì bao nhiêu oan gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ. Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc họa diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.

Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn "gỡ nút" truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích "Vợ chàng Trương", Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới.

Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là "ở hiền gặp lành", người tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thủy Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.

Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ Nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được.

Truyện "Người con gái Nam Xương" có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hội của thời đại mới.

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên