50+ Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân (hay, ngắn gọn)
Tổng hợp 50+ Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân hay, chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp học sinh lớp 9 có thêm tài liệu tham khảo từ đó biết cách viết Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân dễ dàng hơn.
- Dàn ý Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 1
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 4
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 5
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 6
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 7
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 8
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 9
- Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - các mẫu khác
50+ Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân (hay, ngắn gọn)
Bài giảng: Cảnh ngày xuân - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Dàn ý Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung đoạn trích:
+ Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên,… sinh ra trong gia đình quyền quý, có học thức, tiếp nhận nhiều văn hóa khác nhau,…).
+ Tác phẩm: Hoàn cảnh ra đời, Truyện Kiều có bốn phần, kể về cuộc đời bất hạnh của nàng Kiều,…
+ Nội dung đoạn trích Cảnh ngày xuân: Bức tranh thiên nhiên của mùa xuân và lễ hội tảo mộ, du xuân của chị em Kiều.
II. Thân bài
1. Bức tranh thiên nhiên của mùa xuân vào lúc sáng sớm
+ Hai câu đầu: chim én đưa thoi, thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Mặc dù đã cuối mùa xuân nhưng vẫn thấy những chú chim én đang bay lượn trên bầu trời, mới đây thôi mà đã bước sang thứ ba rồi, cũng như chỉ thời gian trôi qua nhanh quá,…
+ Hai câu sau: sử dụng hai gam màu xanh và trắng, màu xanh của thảm cỏ non, trắng tinh khôi của hoa lê,… màu xanh bát ngát trải rộng cả vùng trời làm nền để nổi bật màu trắng tinh khôi, trong trẻo của bông hoa lê.
=> Vài bút chấm phá của tác giả làm cho bức tranh thiên nhiên của tác giả sinh động, hấp dẫn hơn,…
2. Bức tranh lễ hội trong tiết thanh minh
+ Tảo mộ đầu năm là để quét dọn, viếng thăm ngôi mộ của người thân.
+ Sử dụng các tính từ, động từ, danh từ: gần xa, nô nức, yến anh, tài tử, giai nhân, ngựa xe, áo quần,… để chỉ sự đông vui, náo nức, nhộn nhịp của lễ hội,..
+ Câu thơ “Ngổn ngang gò đống kéo lên/ Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay". Chỉ một phong tục tập quán của chúng ta là đốt tiền giấy để tưởng nhớ cho người thân đã khuất.
3. Bức tranh lúc chiều tà của con người trong lúc trở về
+ “Tà tà bóng ngả’’ mặt trời đã xuống núi, chỉ còn lại vệt sáng yếu ớt chiếu lên bầu trời.
+ Bước chân thơ thẩn: người ta chỉ dùng từ "thơ thẩn" để chỉ suy nghĩ của con người, nhưng ở đây lại nói bước chân biết thơ thẩn giống như không tự chủ được mà cứ bước đi.
+ “Dòng nước uốn quanh” chỉ sự nhẹ nhàng êm đềm của con suối nhỏ,….
=> Tất cả mọi thứ không còn ồn ào, náo nhiệt như lúc lễ hội mới bắt đầu thay vào đó là một khung cảnh êm đềm, trôi qua nhẹ nhàng,…
III. Kết bài
- Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
- Khẳng định được cái tài của Nguyễn Du: Bằng ngòi bút tài hoa Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên ngày xuân
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 1
Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều? Đoạn thơ Cảnh ngày xuân gồm có 18 câu, từ câu 39 đến câu số 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của đại thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã đem đến cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên thật sống động, tươi đẹp mà đầy sức xuân.
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Bốn câu thơ đầu mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên thơ. Giữa bầu trời cao bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như "đưa thoi". Cánh én mùa xuân thật thân mật biết bao. Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi lên sự ấm áp, sự sống căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ “đưa thoi” vừa gợi lên khung cảnh bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Có phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với Xuân Diệu, thời gian trôi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông chênh hơn. Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng nhiên ngắn lại.
Sau cánh én "đưa thoi" là ánh xuân, là "thiều quang" của mùa xuân khi "chín chục đã ngoài sáu mươi". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân của các thi sĩ xưa nay thật ý vị làm sao. Nào là "xuân hướng lão" (Ức trai), nào là cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi, nào là cánh bướm rối rít bay trong thơ Trần Nhân Tông,… còn với Nguyễn Du mùa xuân đã bước sang tháng ba rồi. Làm cho con người ta thấy vấn vương, tiếc nuối khi sắp kết thúc một mùa xuân. “Thiều quang’’ là chỉ ánh sáng của mùa xuân, nó không chói chang như mùa hạ hay yếu ớt của mùa đông mà nó là ánh sáng ấm áp, mang đến sức sống cho muôn loài.
Trong tiết trời tháng ba ấy, nổi bật lên là sắc "xanh" mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như một tấm thảm "rợn chân trời" và sắc "trắng" tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chỉ mới hé lộ, khoe sắc, khoe hương "một vài bông hoa".
Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: "Phương thảo liên thiên bích – Lê chỉ sổ điểm hoa". Hai chữ "trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài bông lê "trắng điểm". Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én "đưa thoi", là màu hồng của ánh thiều quang, là "khát vọng mùa xuân" ngây ngất, say đắm lòng người:
"Nhìn hoa đang hé tưng bừng
Khao khát mùa xuân yên vui lại đến"
(Ca khúc "Khát vọng mùa xuân" – Mô-da)
Cảnh mùa xuân là bức tranh mùa xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống mỗi chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này:
"Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi
Tháng giêng hai vút trời bay cánh én…"?
(Ý nghĩ mùa xuân)
Tám câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:
“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.
Trong đám tài tử giai nhân đi trẩy hội mùa xuân có chị em Thúy Kiều. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân" mới đọc qua tưởng chừng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa hơn nó ẩn chưa bao nỗi niềm: chờ mong, trông đợi ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh đến để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã chuẩn bị, đã "sắm sửa"… Có biết bao bóng hồng xuất hiện trong đám tài tử đó.
Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng các động từ một cách chọn lọc, tinh tế, làm sống lại không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của phương Đông, của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta và nếp sống "phong lưu" của chị em Kiều. Chị em Kiều hòa mình giữa dòng người tấp nập như chim yến anh để dự lễ tảo mộ ở vùng đồng quê. Chị em Kiều vừa đi, vừa thong thả ngắm cảnh chốn đồng quê thanh bình rồi thả thoi tiền giấy bay trong gió. Sử dụng một loạt các từ ghép, từ láy là tính từ, động từ như: gần xa, nô nức, tài tử, giai nhân, dập dìu, hình ảnh so sánh “ngựa xe như nước”, “áo quần như nêm” Nguyễn Du đã miêu tả cuộc du xuân của chị em Kiều trong không khí lễ hội thật rộn ràng, tấp nập. Thông qua cuộc du xuân của chị em Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa một nét truyền thống văn hóa xa xưa. Dù xuân đã muộn nhưng ta vẫn thấy cảnh xuân rộn ràng, nhộn nhịp những nam thanh, nữ tú, tài tử, giai nhân, những đoàn người đông vui như chim én, chim oanh ríu rít, tưng bừng.
Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đang dần bước trở về nhà. Mặt trời đã "tà tà" gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trôi qua nhanh:
"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cánh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Không khí vui tươi, náo nhiệt không còn nữa mà nó đang mờ nhạt dần theo ánh nắng. Trời đã về chiều, mặt trời đã lặn sau chân núi, chỉ còn những ánh sáng yếu ớt của những tia nắng còn sót lại. Các từ láy thanh thanh, nao nao, tà tà, thơ thẩn gợi tả sắc thái của cảnh vật và cũng chính là tâm trạng của con người. Dường như cảnh vật cũng thấu hiểu lòng người, cũng khoác lên mình một màu u buồn. Nguyễn Du sử dụng thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn cảnh vật để nói lên tâm trạng của con người. Một tâm trạng bâng khuâng, thơ thẩn như đang suy nghĩ về một vấn đề nào đó và dự cảm có điều gì đó sẽ xảy ra trong tương lai sắp tới.
Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối với bất kì người Việt Nam nào. Quả thật Cảnh ngày xuân đã biểu hiện một cách tài tình tài năng của đại thi hào Nguyễn Du. Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay của mùa xuân. Người đọc sẽ nhớ mãi không quên những vần thơ đặc sắc như thế.
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2
Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy về ngôn ngữ trong việc miêu tả tâm lý nhân vật mà còn là “họa sĩ” vẽ tranh bằng chữ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trích Truyện Kiều là một ví dụ điển hình. Người đọc phải khâm phục và ngưỡng mộ khả năng quan sát cũng như những nét vẽ tài hoa của Nguyễn Du. Bức tranh ngày xuân hiện lên với những nét đẹp tươi mới, tràn đầy sức sống nhất.
Có thể nói mùa xuân là đề tài bất tận trong thi ca, khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Mỗi người có một cảm nhận riêng về mùa xuân. Đối với Nguyễn Du, mùa xuân gắn với cảnh vật và con người, với những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bao trùm lên cả đoạn thơ này là một bức tranh thiên nhiên đẹp, hữu tình nhưng có nhuốm màu buồn khi ngày đã ngả về chiều hôm.
Những câu thơ đầu được sử dụng với chất liệu ngôn ngữ đẹp như tranh, sự mượt mà của câu chữ đã tạo nên sự mượt mà của cảnh sắc thiên nhiên khi xuân về:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Một không gian đầy chất thơ, thi vị và hữu tình biết bao nhiêu. Sự rộng lớn của đất trời khi mùa xuân về được diễn tả một cách tinh tế và tràn ngập niềm vui. Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi lên sự ấm áp, sự sống căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ “đưa thoi” vừa gợi lên khung cảnh bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Có phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với Xuân Diệu, thời gian trôi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông chênh hơn. Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng nhiên ngắn lại.
Trong lúc đấy, chỉ với hai nét vẽ Nguyễn Du như vẽ lên trang giấy một bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp tuyệt vời. Nghệ thuật điểm xuyết chấm phá đã được sử dụng dứt điểm, khiến cho câu thơ trở nên mềm mại và căng tràn sức sống hơn. Màu xanh của cỏ non tạo nên sự tươi mới và tinh khiết của đất trời. Từ “rợn” vừa tả cái xa, vừa gợi cái rộng lớn của mùa xuân, của cảnh vật khi xuân về. Nó làm cho câu thơ như được ngân dài ra, bừng sáng lên sức sống tràn đầy. Trên nền xanh của cỏ, của bầu trời có điểm xuyết “một vài bông hoa” trắng tinh khiết. Chính sự điểm xuyết này khiến cho cả bài thơ như bừng lên một sức sống mãnh liệt, khó có thể dập tắt.
Có thể nói với chỉ 4 câu thơ này, Nguyễn Du như người họa sĩ tài hoa vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, có sự giao thoa và hòa quyện giữa đất và trời. Không khí mùa xuân, hương sắc mùa xuân và cả ý vị mùa xuân cứ thế tràn ra trong từng câu thơ đẹp như vậy.
Không khí mùa xuân như tươi đẹp hơn với lễ hội tảo mộ tháng Ba:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Có lẽ không khí vui tươi, tưng bừng, phấn khởi của con người trong dịp đi tảo mộ thật sự khiến cho người đọc như sống lại với không khí những ngày xuân tươi mới nhất. Con người cũng hiện lên như tô điểm thêm bức tranh ngày xuân tươi đẹp đó:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Mùa xuân là dịp để “tài tử giai nhân” được vui chơi, giãi bày tâm sự với nhau. Có vẻ như mùa xuân là thời điểm thích hợp cho chuyện tình yêu nảy nở, cho những yêu thương còn bỏ ngỏ được phép căng trào ra. Hình ảnh “ngựa xe”, “áo quần” gợi lên sự tấp nập, nhộn nhịp và huyên náo. Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng một loạt hình ảnh có tính chất gợi hình, tả ảnh khiến cho người đọc có cảm giác như đang bước vào không khí của mùa xuân.
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Những phong tục tập quán khi mùa xuân về, khi được đi tảo mộ đã được Nguyễn Du vẽ lên chân chất, mộc mạc, gợi nhớ và gợi thương. Đó chính là tấm lòng thành kính hướng về quá khứ với một sự biết ơn chân thành nhất. Hai câu thơ này thực sự khiến người đọc xúc động khi nhớ về những người đã khuất, những người tạo dựng nên cuộc sống hiện nay của chúng ta.
Tuy nhiên ở những câu thơ cuối dường như cảnh vật và con người trở nên buồn vã và đìu hiu hơn:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nhịp thơ trở nên nhẹ nhàng, trầm bổng khiến cho tâm trạng của con người trở nên nặng nề và buồn rầu hơn. Với từ láy “tà tà” đã phần nào gợi tả thời gian đã xế chiều và không gian dường như tĩnh mịch và ảm đạm hơn. Mỗi bước chân cũng trở nên nặng nề hơn khi màn đêm sắp buông xuống, con người cũng cảm nhận được một nỗi buồn nào đó len vào trong trái tim. Tâm sự của con người như nhuốm vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho nó trở nên tiêu điều và xơ xác hơn.
Có thể nói dù cảnh trong thơ Nguyễn Du buồn hay vui thì vẫn mang phong vị riêng của nhà thơ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một ví dụ điển hình như thế. Bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn ràng, náo nức và có chút buồn phiền được Nguyễn Du khắc họa thành công với sự cảm nhận tinh tế cũng như sự tài hoa trong cách dụng công xây dựng ngôn ngữ.
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. "Truyện Kiều" của Nguyễn Du là kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Đây là một truyện thơ Nôm gồm 3254 câu thơ lục bát. Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" nằm ở phần đầu của "Truyện Kiều", là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng được gọi lên qua từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du.
Khi miêu tả cảnh ngày xuân , Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp miêu tả lớc lệ . Nhà thơ tả cảnh thiên nhiên mùa xuân, khung cảnh lễ hội và tâm trạng chị em Thúy Kiều khi du xuân trở về.
Trong bốn câu thơ mở đầu, Nguyễn Du đã vẽ nên khung cảnh tuyệt diệu của mùa xuân để lưu truyền muôn đời:
"Ngày xuân con én đưa thoi"
Mùa xuân là mùa khởi đầu cũng là mùa đẹp nhất trong năm. Nguyễn Du thông báo trực tiếp về thời gian đẹp ấy qua hai từ "ngày xuân". Hình ảnh "con én đưa thoi" thật giàu sức gợi. Ta có thể hiểu những cánh én đang chao liệng trên bầu trời như thoi đưa, và chim én là tín hiệu của mùa xuân. Bên cạnh đó, con én đưa thoi còn có thể hiểu là thời gian trôi rất nhanh chẳng khác nào thoi đưa. Nếu hiểu theo cách này, "Ngày xuân con én đưa thoi" không chỉ đơn thuần là câu thơ tả cảnh mà ngầm chứa trong đó bước đi của thời gian.
"Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi"
Nhà thơ đã đưa ra con số cụ thể: mùa xuân có chín mươi ngày mà sáu mươi ngày đã trôi qua, chỉ còn lại vài chục ngày nữa thôi thi mùa xuân sẽ hết. Câu thơ ẩn chứa sự nuối tiếc khôn nguôi của con người trước sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian. Chỉ những người nhạy cảm, biết yêu quý thời gian mới có thể cảm nhận được sự trôi chảy như thế của thời gian.
Trong hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ miêu tả cảnh sắc mùa xuân:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành là trắng điểm một vài bông hoa"
Chỉ với hai câu thơ, Nguyễn Du đã làm sống dậy một bức tranh xuân căng tràn ngựa sống . Vàu xanh của co tiếp nối vơi nàu xanh của trời như trải ra ngat gần. Đặc biệt trên nền xanh tươi trong trẻo, Nguyễn Du điểm xuyết sắc trắng trong tinh khiết của một vài bông hoa lê. Nhà thơ sử dụng đảo ngữ "trắng điểm" khiến cho màu trắng càng được nhấn mạnh. Hơn nữa, biện pháp đảo ngữ khiến người đọc cảm nhận màu trắng của hoa lê chủ động tô điểm cho bức tranh xuân thêm tuyệt diệu. Hai màu sắc xanh và trắng tưởng chừng như đối lập lại quyện vào nhau, dệt nên một bức tranh mùa xuân tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt. Phải có một tâm hồn nghệ sĩ thì Nguyễn Du mới có cảm nhận tinh tế và cách phối màu độc đáo như vậy. Khi viết hai câu thơ này, Nguyễn Du có tiếp thu hai câu thơ cổ của Trung Quốc:
"Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)"
Hai câu thơ của Trung Quốc cũng vẽ nên một bức tranh xuân có màu sắc, đường nét. Tuy nhiên, đó là bức tranh tĩnh tại. Câu thơ của Trung Quốc không hề nhắc đến màu trắng của hoa lê. Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh cỏ xanh vài bông hoa lê trắng gợi được về thanh khiết, tinh khôi cho cảnh thiên nhiên mùa xuân. Hai câu thơ tả cảnh thực sự là những câu thơ tuyệt bút.
Sau những cảm xúc say sưa trước vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân, nhà thơ vẽ lên một khung cảnh lễ hội mùa xuân đầy ấn tượng:
"Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh"
Tết thanh minh thường là từ mồng 5 đến mồng 10 tháng 3 âm lịch. Vào những ngày này, khí trời mát mẻ, trong trẻo, mọi người đi tảo mộ tức là đi viếng và sửa sang lại phần mộ của người thân. Đó còn là dịp để mọi người du xuân. "Hội đạp thanh" là lễ hội đạp lên cỏ xanh, thể hiện mong muốn tìm được hạnh phúc trong tương lai. Như vậy, tết thanh minh có phần lễ và phần hội.
Nhà thơ giới thiệu không khí ngày hội:
Gần xa nô nức yến an
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập gia tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm"
Hình ảnh "yến anh" là hình ảnh ẩn dụ, gợi ra từng đoàn người rộn ràng đi chơi xuân như chim én, chim cánh bay từng đàn ríu rít. Trong đoàn người ấy, ai cũng sửa soạn quần áo đẹp đẽ. Người trảy hội đồng nhất vẫn là những nam thanh nữ tú. Nguyễn Du đặt từ láy "dập dìu" trước thành ngữ "tài tử giai nhân" làm cho vẻ đẹp câu thơ tả người tăng lên gấp bội. Ông còn sử dụng biện pháp so sánh "Ngựa xe như nước, áo quần như nêm" vừa gợi ra cảnh xe ngựa chạy không ngừng như nước chảy, người đi bộ đông đúc, vừa tô đậm vẻ đẹp hào hoa, thanh lịch của mọi người tham gia lễ hội. Trong không khí ngày hội, chị em Thúy Kiều và mọi người trong lòng ngập tràn niềm vui và khát vọng. Đó là niềm vui được tự do giao lưu , gặp gỡ với mọi người , được chào đón những cái đẹp của thiên nhiên đất trời.
Sự nhộn nhịp của hội được tô điểm bởi phần lễ:
"Ngổn ngang gò đồng kéo lên
Thoi vàng vỏ rác tro tiền giấy bay"
Những người tảo mộ đang hoàn thành nốt phần tục lệ cuối cùng là đốt hóa tiền vàng để gửi xuống cho người đã khuất. Việc làm này thể hiện niềm tin, sự quan tâm và chia sẻ của người đang sống đối với người đã mất, là sự giao cảm giữa cõi dương và cõi âm. Đó là nét truyền thống trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Có thể nói, trong đoạn thơ của "Cảnh ngày xuân", Nguyễn Du đã làm sống lại một nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc vào dịp tết Thanh minh.
Kết thúc đoạn trích là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về:
"Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Bóng mặt trời đang ngả về phía tây, ánh nắng đang dịu dần… Cảnh vật vẫn đẹp, nên thơ, phong cảnh “có bề thanh thanh”. Xưa nay, trong văn chương, cảnh chiều tà thường gợi lên cảm giác buồn. Nguyễn Du cũng tỏ lòng người như vậy. Cuộc du xuân, thưởng ngoạn vừa náo nức, tưng bừng là thế, giờ đã lặng chìm vào cô tịch. Tâm trạng con người không khỏi nuối tiếc, hụt hẫng. Chị em Thúy Kiều đang trở về mà “thơ thẩn” cõi lòng. Từ láy “nao nao” không chỉ tả cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Đó là một cảm giác bâng khuâng, nuối tiếc về một ngày vui đã tàn và linh cảm về một điều gì chẳng lành sắp xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều.
Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Đây là một trong những bức tranh đẹp nhất của Truyện Kiều . Bức họa thiên tài gồm hai mảng màu vừa tương phản vừa hài hòa. Sáng xuân tinh khôi , náo nức và chiều tà bảng lảng gợi những liên tưởng xa xôi về số phận cuộc đời nhân vật chính – Thúy Kiều. Đoạn thơ gợi được bao tình cảm tốt đẹp trong lòng người đọc.
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 4
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, là một danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO công nhận. Ông có đóng góp to lớn với một khối lượng thơ văn đồ sộ cho dân tộc. Trong những tác phẩm ấy, nổi bật nhất là bài thơ “Truyện Kiều’’. Truyện kiều là bài thơ được viết bằng thể lục bát nói về số phận của những người phụ nữ có số phận bất hạnh, họ phải chịu nhiều tủi nhục và đau đớn. Đồng thời cũng lên án những kẻ ích kỉ hèn mọn chỉ quan tâm đến lợi ích của mình. Đoạn trích “ Cảnh ngày xuân’’ có lẽ là đoạn tiêu biểu nhất về tả cảnh thiên nhiên. Đoạn trích nằm ở phần đầu của truyện kiều. Vào ngày tết thanh minh chị em thúy kiều đi tảo mộ và hiện ra trước mắt người đọc là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tâm trạng của người du xuân khi trở về.
Mở đầu bài thơ hiện ra một bức tranh xuân trong sáng, nhẹ nhàng và tinh khôi:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu gợi tả cho ta về không gian và thời gian. Câu thơ “ Ngày xuân con én đưa thoi’’ là câu thơ gợi tả về không gian. Trên nền trời cao rộng, đàn én lượn qua lượn lại, chao liệng như thoi đưa vào những tháng cuối của mùa xuân. Cũng như chỉ thời gian trôi nhanh giống như những chú én đang vụt bay trên trời xanh. Mùa xuân có chín mươi ngày vậy mà bây đã qua sáu mươi ngày, đã bước sang tháng ba rồi. Làm cho con người ta thấy vấn vương, tiếc nuối khi sắp kết thúc một mùa xuân. “Thiều quang’’ là chỉ ánh sáng của mùa xuân, nó không chói chang như mùa hạ hay yếu ớt của mùa đông mà nó là ánh sáng ấm áp, mang đến sức sống cho muôn loài.
Hai câu thơ sau được tác giả khắc họa tuyệt đẹp với hai màu xanh và trắng. Chữ “tận” mở ra một không gian bao la bát ngát không có điểm dừng. Thảm cỏ non trải rộng đến chân trời là để làm màu nền cho bức tranh mùa xuân. Trên bầu trời xanh ngát ấy xuất hiện màu trắng của vài bông hoa lê. Từ “điểm” tĩnh như không tĩnh, làm cho ta liên tưởng thiên nhiên có tâm hồn, biết làm đẹp giống như một con người. Chỉ một vài màu trắng của hoa lê mà làm câu văn trở nên sống động và nổi bật trong sắc trời mùa xuân. Bằng một vài nét chấm phá, tác giả đã vẽ lên một bức tranh sinh động, hấp dẫn, khiến cho người đọc cảm giác mình đang đứng trước khung cảnh của mùa xuân.
Nếu bốn câu thơ đầu là một bức tranh của mùa xuân thì tám câu tiếp là bức tranh của lễ hội trong tiết thanh minh:
“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.
Từ xa xưa dân tộc ta đã có phong tục là đi tảo mộ người thân đầu năm để thăm viếng sửa sang lau chùi cho sạch sẽ và du xuân ở chốn đồng quê trong khí tiết thanh minh. Các danh từ, động từ, tính từ “ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, ngựa xe, áo quần, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức” là chỉ một không gian có rất nhiều người đặc biệt là các chàng trai và cô gái đi du xuân đầu năm tạo không khí đông vui, nhộn nhịp và náo nhiệt của buổi hội gắn với một tâm trạng của mỗi người đi hội. Ai cũng háo hức sắm sửa trang phục, trang sức để chuẩn bị tham gia lễ hội. Đó không những là buổi hội mà còn là nơi se duyên cho các cặp nam thanh nữ tú chưa tìm được định mệnh của mình.
Bên cạnh hình ảnh người đi du xuân là hình ảnh những đống tro bên cạnh nấm mồ, những đống tro ấy chính là người ta đốt tiền giấy để tưởng nhớ những người thân đã khuất:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.
Dù là người đang sống hay người đã khuất đều cầu nguyện mong được hạnh phúc. Người đã mất thì khi họ chết đi cũng mong con cháu mình luôn được mạnh khỏe, bình an và hạnh phúc. Người đang sống họ ước mong được một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc và cầu nguyện cho những người đang nằm dưới nấm mồ kia được yên nghỉ.
Người ta thường nói cuộc chơi nào rồi cũng sẽ đến lúc phải kết thúc. Không có cái gì là trường tồn mãi mãi cả. Khi lễ hội kết thúc chị em Kiều ra về trong cảnh chiều tà và mang một tâm trạng sầu mặc:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.
Không khí vui tươi, náo nhiệt không còn nữa mà nó đang mờ nhạt dần theo ánh nắng. Trời đã về chiều, mặt trời đã lặn sau chân núi, chỉ còn những ánh sáng yếu ớt của những tia nắng còn sót lại. Các từ láy thanh thanh, nao nao, tà tà, thơ thẩn gợi tả sắc thái của cảnh vật và cũng chính là tâm trạng của con người. Dường như cảnh vật cũng thấu hiểu lòng người, cũng khoác lên mình một màu u buồn. Nguyễn Du sử dụng thủ pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn cảnh vật để nói lên tâm trạng của con người. Một tâm trạng bâng khuâng, thơ thẩn như đang suy nghĩ về một vấn đề nào đó và dự cảm có điều gì đó sẽ xảy ra trong tương lai sắp tới.
Có thể nói đây là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp có cảnh có tình. Được coi là một trong những bức tranh thiên nhiên đẹp nhất trong “Truyện Kiều’’ của Nguyễn Du. Sử dụng ngôn từ giàu hình ảnh mang tính chọn lọc, bút pháp tả cảnh thiên nhiên đặc sắc tả cảnh điểm xuyết, tả cảnh ngụ tình,… Cho ta thấy được tài năng của tác giả.
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 5
Tác phẩm Truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du là một tác phẩm vô củng nổi tiếng của nên văn học Việt Nam. Chi với đoạn trích "Cảnh ngày xuân", đã cho thấy ngòi bút tài tinh của nhà thơ. Giúp người đọc cảm nhận được vẻ đep thiên nhiên khi chị em Thúy Kiều đi du Xuân.
Chỉ với bốn câu thơ đầu trong đoạn trích tác già đã tái hiện lại sinh động khung cành mùa xuân tươi đẹp.
"Ngày xuân con én đưa thoi"
Cảnh ngày xuân được miêu tả ngay trong câu đầu với "con én đưa thoi". Đàn én của mủa xuân đang chao cánh và lượn trên bầu trời bao la. Cũng có ý nghia là mủa xuân tươi đẹp đang trôi qua nhanh. Với từ ngữ giàu ý nghĩa và giàu chấ tả cảnh, tác giả đã cho người đọc thấy mùa xuân đang rất tươi đẹp với những cảnh én quen thuộc. Nhưng những ngày tươi đẹp của mùa xuân cũng đang đi qua rất nhanh. Ở câu thứ hai của đoạn trích "Cảnh ngày xuân":
"Thiều quang chín chục đã ngoài sâu mươi."
Tác giả miêu tả cảnh mùa xuân bằng từ "thiều quang". Ánh sáng tươi đẹp của mủa xuân đang hiện hữu. Mùa xuân có ba tháng là "chín chục" hay chín mươi ngày xuân. Nhưng ở thời điếm chị em Thúy Kiều du xuân thi đã "ngoài sáu mươi" hay đã là tháng cuối của mùa xuân. Mới chỉ hai câu thơ nhưng tác giả đã cho thấy được cảnh mùa xuân yên bình tươi đệp. Tuy nhiên cũng cho thấy thời gian của mùa xuân đang trôi qua rất nhanh, nó không chờ đợi một ai. Hai câu thơ sau:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa."
Bức tranh mùa xuân đã được miêu tả cụ thể hơn, màu sắc hơn trong hai câu thơ này. Tác giả đã miêu tả hình ảnh của "Cỏ non" xanh mơn mởn của mùa xuân. Màu xanh này kéo dài đến bao la bất tận, không thāy được điếm dứng. Mà ở đó chỉ thấy đường chân trời màu xanh. Trên nền xanh bao la bát ngát, một vài bông hoa lê "trắng" được điểm xuyết một cách tinh tế và nối bật. Tạo nên một cảnh sắc mủa xuân hết sức sống động, trong trèo và tinh khôi hơn bao giờ hết.
Bốn câu thơ đầu của đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một bức tranh tươi đẹp. Trong bức tranh đó có cánh én mùa xuân, đông cỏ non xanh dài bất tận và cả những bông hoa trắng muốt. Với nghệ thuật tả cảnh tài tỉnh, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được khung cảnh thiên nhiên đep như chính họ đang chứng kiển.
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 6
Khi nhắc tới bút pháp sử dụng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người ta thường nhắc nhiều về bút pháp miêu tả nội tâm cực kì xuất sắc mà ông đã thể hiện trong mỗi nhân vật của mình. Thế nhưng, người đọc chúng ta mỗi khi đọc đến đoạn trích "Cảnh ngày xuân" thì cũng không khỏi thán phục trước nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên vô cùng sống động, tươi đẹp, trong sáng mà ông đã dùng để vẽ lên bức tranh xuân trong đoạn trích này. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân ấy quả thực đẹp đẽ đến vô cùng dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du.
Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" được trích trong phần đầu của Truyện Kiều. Đây là đoạn trích kế tiếp sau đoạn miêu tả lại vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, tập trung miêu tả bức tranh thiên nhiên ngày xuân trong tiết Thanh minh khi chị em Kiều đi du xuân. Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, chúng ta đã cảm nhận được ở đó có một sự tươi đẹp, thanh bình, yên ả đến lạ trong từng câu chữ:
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa."
Nguyễn Du đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên thật sống động bằng chất liệu ngôn từ thật đẹp. Với vài nét bút thôi, ông đã mở cho chúng ta thấy cả một bầu trời xuân với hoa với cỏ với chim chóc ngập tràn khắp muôn nơi. Ở câu thơ mở đầu, người ta thấy một không gian, thời gian đang chảy trôi cùng với sự chuyển động của sự vật. Những cánh én chao lượn trên bầu trời xuân, trong cái khoảnh khắc tươi đẹp ấy, từng đàn én ấy thật nhộn nhịp, thật rộn rã, như là một đàn thoi đang dệt lên khung cảnh ngày xuân vậy.
"Ngày xuân con én đưa thoi"
Chỉ bằng một nét vẽ thôi, Nguyễn Du đã gợi ra bức tranh thiên nhiên ngày xuân thật rạo rực, thật đông đúc với hàng đàn én lượn khắp trời. Bởi én là loài chim của mùa xuân, báo hiệu mùa xuân về, biểu tượng cho sự ấm áp, cho sự vui tươi. Hình ảnh cánh én còn mang ý nghĩa ẩn dụ cho những cảm nhận về sự chảy trôi của thời gian. Ngày xuân đẹp đẽ, tươi sáng vô ngần nhưng cũng vội đến vội đi như cánh én chao liệng trên bầu trời. Chẳng vậy mà ngay câu thơ thứ hai, Nguyễn Du đã nói rằng:
"Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi"
Cả mùa xuân của "chín chục" ngày, vậy mà bây giờ đã là "ngoài sáu mươi". Quả thật, mùa xuân đang trôi đi thật nhanh, ánh sáng của mùa xuân đang trôi đi nhanh quá! Ở câu thơ này, Nguyễn Du đã khéo léo đẩy chữ "thiều quang" – "ánh sáng đẹp" cũng có nghĩa là ánh sáng của mùa xuân lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự chảy trôi qua nhanh của thời gian. Một mùa xuân tươi vui, ấm áp đang dần qua đi, tuy những cánh én vẫn đang còn chao lượn khắp trời nhưng chẳng mấy chốc, mùa xuân sẽ qua đi. Sau này, Xuân Diệu cũng đã nói về mùa xuân với sự tiếc nuối xuân đi qua nhanh y như thế, xuân qua nhanh, tuổi trẻ cũng qua nhanh, thời gian cũng dần ngắn lại. Phải chăng đây là sự đồng cảm của những trái tim đa cảm đang đồng điệu cùng nhau?
"Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất."
Bằng những câu chữ mượt mà mang đầy hình ảnh của mình, Nguyễn Du đang vẽ lên bức tranh thiên nhiên ngày xuân buổi sáng sớm thật tươi tắn. Không gian mùa xuân cứ dần được gợi mở dưới nét vẽ tài hoa của ông. Vậy nên trong câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã trải nét bút của mình để tạo nên một triền cỏ non xanh mát của mùa xuân:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa."
Nếu ở trên cao, từng đàn én đang chao lượn thì ở dưới mặt đất, từng ngọn cỏ xanh non đang trải ra, lan ra rộng khắp nơi. Màu xanh tươi mát của đám cỏ mới nhú, màu xanh ấy trải ra mênh mông, bát ngát đến tận chân trời. Một đồng cỏ thật mênh mang quá đỗi bởi ở đây Nguyễn Du đã khéo léo đặt vào giữa câu thơ một từ "tận". "Tận" tức là mãi đằng xa, hút tầm mắt, "cỏ non xanh tận chân trời" tức là thảm cỏ non mùa xuân ấy kéo dài tới tận đường chân trời, tạo nên một không gian mênh mông toàn màu xanh tươi mát, kéo dài vô tận. Cái "tận" ấy cũng gợi lên khung cảnh rộng lớn, bao la của mùa xuân, của những cảnh vật mùa xuân. Không chỉ vậy, trên nền cỏ xanh tươi mơn mởn ấy, điểm xuyết là những bông hoa lê trắng muốt. Hai màu xanh – trắng hòa quyện vào nhau cành gợi lên một sự sống động đến khó tả. Không phải một vài bông hoa điểm trắng trên cành lê mà lại là "Cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Nguyễn Du đã tinh tế đảo ngược "điểm trắng" thành "trắng điểm" để nhấn mạnh màu sắc nổi bật của những bông hoa lê trên nền cỏ màu xanh. Hơn thế, ông còn đặt chủ thể "cành lê" lên đầu câu để gợi tả sắc trắng của những đóa hoa đang tô điểm trên nền cỏ xanh của bức tranh màu xuân. Chỉ "một vài bông hoa" trắng nhỏ xinh thôi nhưng lại mang đến cho không gian xuân sắc của chúng ta thêm thanh khiết, trẻ trung, lại nhẹ nhàng, thanh đạm.
Như vậy, bằng bút pháp ước lệ cổ điển và bút pháp chấm phá, Nguyễn Du đã khéo léo vẽ lên cho người đọc chúng ta một bức tranh thiên nhiên ngày xuân buổi sáng sớm thật tươi đẹp, thật nhã nhặn, nhưng không kém phần trẻ trung tràn ngập sắc màu.
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 7
Truyện Kiều là một tác phẩm nổi tiếng qua nhiều thời đại của tác giả Nguyễn Du. Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một đoạn miêu tà cảnh du xuân của chị em Thúy Kiều và Thúy vân. Với ngòi bút tài tình của mình, tác giả Nguyễn Du đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên mủa xuân đây thơ mộng.
Hai câu thơ đầu tiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, tác giả đã miu tả rõ ràng không gian và thời gian của mùa xuân.
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi"
Cánh én luôn là biếu tượng của mùa xuân. Khi thấy những cánh én chao lượn trên bầu trời cùng là lúc mủa xuân đã về. Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân tác giả đã sử dụng hình ảnh "con én đưa thoi". Tức muốn nói mùa xuân đang rất tươi đẹp và rực rỡ. "Thiều quang" cũng là từ chỉ thời tiết mùa xuân có ánh sáng tươi đẹp. Thời gian của mùa xuân trôi qua nhanh như thoi đưa. Thời điếm tiết thanh minh thì đã sang tháng ba "ngoài sáu mươi". Câu thứ hai của "Cảnh ngày xuân" có ý muốn nói mùa xuân có chín mươi ngày "chín chục" tiết trời đep đẽ. Nhưng mới đó mà đã có hơn sáu mươi ngày của mùa xuân trôi qua.
Hai câu thơ tiếp theo trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân" đi vào miêu tả chi tiết cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điếm một vài bông hoa."
Chỉ với hai gam màu xanh và trắng. Nhưng với ngòi bút đại tài của mình, Nguyễn Du đã miêu tả thật sinh động khung cảnh ngày xuân. Cảnh sắc ngày xuân được tái hiện lên với hình ành màu xanh mơn mởn của cò non. Cây cỏ trong mủa xuân luôn sinh sôi này mầm tràn đây sức sống. Tác giả Còn sử dụung từ "tận chân trời", chỉ ba chữ này nhưng người đọc có thể thấy được hinh ảnh màu xanh của cỏ non như kéo dài ra vô tận. Trền nền màu xanh trải dài bất tận lại điếm xuyết những bông hoa lê trắng muốt. Nguyền Du đã miêu tả xuất sắc khung cảnh thiên nhiên của mùa xuân. Qua ngòi bút của ông, mùa xuân trở nên sinh động có hồn và mê hoặc lòng người. Giữa màu xanh mênh mông của cỏ non, xuất hiện những bông hoa lê trắng nổi bật. Một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, trong veo và thanh khiết của cảnh vật trong ngày xuân.
Chi với bồn cầu thơ đầu trong đoạn trich "Cảnh ngày xuân". Tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên trong mủa xuân thật tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Cũng đậm chất lãng mạn và giàu chất thơ. Qua đó cũng cho thấy bút pháp tả cảnh tài tình điêu luyện của tác giả. Một loat các từ ngữ miêu tả giàu tính tao hình, khắc hoa đượC một bức tranh tuyệt đẹp.
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 8
Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật " Truyện Kiều " của Nguyễn Du là việc khắc họa tô điểm những bức tranh thiên nhiên tương xứng với hoàn cảnh và tâm trạng nhân vật chủ yếu là nhân vật Thúy Kiều. Đoạn trích " Cảnh ngày xuân" là bức tranh phong cảnh mùa xuân và cảnh du xuân của chị em Thúy Kiều. Một bức tranh tươi đẹp sống động nhưng vẫn hàm ẩn những nét buồn dự cảm một tương lai gần của Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu khái quát phong cảnh thiên nhiên với những nét đặc sắc của mùa xuân cùng bút pháp cổ điển cảnh thiên nhiên gợi lên theo trình tự thời gian, bút pháp chấm phá ước lệ:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Hai câu thơ mở đầu vừa gợi không gian mùa xuân vừa diễn tả sự chẩy trôi của thời gian. Ngày xuân thấm thoát qua mau chín trục ngày xuân nay tiết trời đã sang tháng ba. Tháng cuối cùng của mùa xuân. Nhưng trên bầu trời thoáng đạt cao rộng ấy những cánh én vẫn rộn ràng trao liệng như thoi đưa. Dưới mặt đất mùa xuân đang kì sung sức. Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp trên nền cỏ xanh non bát ngát tận chân trời, nổi bật lên cận cảnh là điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Nguyễn Du tả cảnh mùa xuân là cỏ xanh bát ngát mênh mông tận chân trời. Màu xanh làm nổi bật màu trắng của bông hoa lê mới nở, chữ trắng được thêm vào đảo lên trước động từ và danh từ. Tất cả tạo lên sự bất ngờ mới mẻ khiến nét vẻ cảnh sắc trở lên có hồn tinh khôi, thanh thoát hơn. Bốn câu thơ tả cảnh mùa xuân quả là tuyệt bút, ngôn ngữ giàu chất tạo hình chất gợi và biểu cảm. Qua bức tranh thơ này người đọc cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên trong trẻo, tươi tắm, ấm áp của mùa xuân.
Dường như mỗi bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng. Trong bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân, tâm trạng con người cũng biến theo cảnh vật. Đầu hội – cuối hội và những linh cảm về tương lai đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình của nhà thơ Nguyễn Du.
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 9
Thiên nhiên luôn là một đề tài bất hủ trong thơ ca, nó không chỉ là trung tâm của cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm những nỗi niềm của con người. Đối với Nguyễn Du cũng không là ngoại lệ. Trong tác phẩm “ Truyện Kiều” Nguyễn Du đã dành rất nhiều câu thơ để miêu tả thiên nhiên. Đặc biệt ở đoạn trích “ Cảnh ngày xuân” với bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình Nguyễn Du đã vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Bốn câu thơ đầu tiên là bức tranh khung cảnh thiên nhiên với những nét đặc trưng riêng của mùa xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Tác giả đã vẽ lên một bức tranh mùa xuân thật đẹp với những chi tiết tiêu biểu, đặc trưng. Hai câu thơ đầu gợi tả cảnh mùa xuân với thời gian và không gian riêng. Tác giả sử dụng một hình ảnh ẩn dụ “ con én đưa thoi” không chỉ giúp người đọc hình dung cảnh mùa xuân rất đặc trưng với những đàn chim én mà còn gợi ra thời gian trôi qua rất nhanh. “Thiều quang”là hình ảnh hoán dụ chỉ cảnh ngày xuân với ánh sáng đẹp đã trôi qua, đã qua tháng giêng, tháng hai và bây giờ đã là tháng ba. Tiết trời trong xanh, từng con én bay liệng chao nghiêng trên bầu trời gợi ra một không gian thoáng đãng, gợi lên nhịp điệu sôi dộng của mùa xuân đồng thời còn gợi tả một cảm giác tiếc nuối khi thời gian trôi quá nhanh. Bức họa tuyệt đẹp của mùa xuân được hiện lên ở hai câu thơ tiếp theo: “ Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Nền của bức tranh là màu xanh non bát ngát tơi tận chân trời của đồng cỏ. Trên cái nền xanh dịu mát ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu trắng và màu xanh hài hòa gợi cảm giác mênh mông mà không quạnh vắng, trong sáng mà trẻ trung, nhẹ nhàng mà thanh khiết. Đặc biệt động từ “ điểm” làm cho bức tranh không chỉ trong sáng tinh khôi mà còn trở nên có hồn, sinh động hơn. Với ngòi bút chấm phá tài hoa, Nguyễn Du đã vẽ lên một bức tranh xuân đẹp tuyệt vời với không gian mênh mông và tràn đầy sức sống.
Bằng ngòi bút miêu tả tinh tế và tài hoa của Nguyễn Du đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp về mùa xuân. Cảnh hiện lên trong sáng tinh khôi và tràn đầy sức sống nhưng cũng là nơi gửi gắm bao nỗi niềm của tác giả. Điều đó càng cho thấy bút pháp tả cảnh ngụ tình đầy thuyết phục của Nguyễn Du.
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân trong Cảnh ngày xuân - mẫu 10
“Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông.
Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Vào ngày Tết Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người ngày xuân hiện lên tươi tắn, xinh đẹp đông vui nhộn nhịp dưới đôi mắt “xanh non biếc rờn” của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:
“ Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”…
Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba.
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời” khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá.
Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh của cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết.
Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.
Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:
“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”.
Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều phải rời buổi du xuân trở về:
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” …
Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Dường như có cái gì đó đang mơ hồ xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc thái vương vấn, man mác của tâm trạng con người, ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người , thiếu nữ. Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đểu là những từ láy có tính giảm nhẹ. “Tà tà” diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; “thơ thẩn” lại diễn tả tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ không rõ nguyên nhân (nó gần với nỗi buồn “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” của Xuân Diệu sau này) “thanh thanh” vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh mảnh; từ “nao nao” trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ “nho nhỏ” gợi dáng nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: “ngọn tiểu khê” - dòng suối nhỏ, phong-cảnh thanh thoát, dịp cầu “nho nhỏ” lại nằm ở “cuối ghềnh” ở phía xa xa,... Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mớ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự cảm về những sự việc sắp xảy ra.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù không thật rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc. Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra).
“Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,... Với những điều đó, “Cảnh ngày xuân” sẽ luôn sống lại trong lòng người yêu thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về với đất trời.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
Cảm nhận bốn câu thơ đầu đoạn trích Cảnh ngày xuân (Bài văn mẫu 1)
Cảm nhận 4 câu thơ đầu đoạn trích Cảnh ngày xuân (Bài văn mẫu 2)
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều