5+ Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (điểm cao)
Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (mẫu 1)
- Dàn ý Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (mẫu 2)
- Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (mẫu 3)
- Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (mẫu 4)
- Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (mẫu 5)
- Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (mẫu 6)
5+ Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (điểm cao)
Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 1
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du là một trong những trích đoạn hay thể hiện rõ tâm trạng cô đơn, buồn tủi và nỗi nhớ thương của Kiều khi lâm vào nghịch cảnh. Trong trích đoạn, sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên mang màu tâm trạng của nhân vật.
"Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia".
Hai từ "Khóa xuân" diễn tả tình cảnh đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam lỏng, chôn vùi tuổi xuân tại lầu Ngưng Bích.Tú Bà hứa hẹn với Kiều đủ điều mật ngọt để rồi giam lỏng nàng chốn không người. Còn gì đau đớn hơn khi đang độ sắc xuân, hương xuân, tuổi của những mộng mơ, căng tràn nhựa sống lại phải chịu cảnh giam mình, thiếu tự do. Ba câu thơ tiếp tác giả khắc họa một bức tranh thiên nhiên bát ngát, mênh mông nhưng hiu quạnh, không một bóng người. Các sự vật "non', "tấm trăng", "cát vàng", "bụi hồng",... kết hợp cùng các tính từ "xa", "gần", để diễn tả không gian rộng lớn mà hiu hắt của cảnh vật. Tất cả đều gợi lên nét hoang vắng, buồn bã của thiên nhiên. Biện pháp liệt kê kết hợp với phép đối lập tương phản được sử dụng tài tình đã thành công tái hiện khung cảnh thiên nhiên mênh mông, rợn ngợp nhưng buồn vắng, không một bóng người trước lầu Ngưng Bích.
Thiên nhiên càng rộng lớn, con người càng cô đơn. Kiều như chơ vơ, trơ trọi giữa không gian mênh mông, một màu hoang vắng đượm trên cảnh, một màu buồn thương nhuốm trên thân người. Từ trên lầu cao, trông ra xa chẳng thấy nổi một tin lành hay bóng người tâm giao, chỉ thấy những dãy núi mờ xa, mấy bụi hồng hắt hiu, đôi ba cồn cát vàng trên sông...Dường như, tất thảy mọi điều đều ngoài tầm với, xa vời với thực tại nghiệt ngã nàng đang chịu. Tìm đến mảnh trăng gần bầu bạn, nghĩ chăng Kiều có thể được vơi đi nỗi lòng. Nhưng rồi trăng nào có thấu! Là trăng không hiểu hay lòng người đa mang?
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng".
Không gian buồn thương, thời gian cũng nào dừng lại, sớm khuya, ngày đêm nàng vẫn một mình lẻ bóng. Suốt ngày "thui thủi quê người một thân"nào có ai để bầu bạn, tỏ bày. Nàng chỉ đành làm bạn với đèn khuya, mây sớm trong "bẽ bàng". Tính từ láy "bẽ bàng" được đặt đầu câu đặc tả nỗi chán ngán, tủi hổ, xót xa cho thân phận mình của Kiều. Thành ngữ "Mây sớm đèn khuya" : Thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa.. Cả thời gian và không gian dường như đang kìm hãm con người, khiến tâm trạng kẻ trong chốn Ngưng Bích nào được chút niềm vui dẫu là ít ỏi. Nàng đang lâm vào bi kịch cô đơn tuyệt đối, nỗi nhớ ngày một thêm dài và nỗi buồn ngày một thêm lớn.
Sáu câu thơ lục bát ngắn gọn đầu đoạn trích đã gợi tả được bức tranh tâm cảnh của Kiều trong những ngày tháng ở lầu Ngưng Bích. Kiều thật đáng thương biết bao! Một người con hiếu thảo, có tấm lòng vị tha ấy đáng ra phải được sống trong hạnh phúc, ấm êm nhưng nàng thật đáng thương biết bao. Phải chăng đúng như câu nói của tác giả "tài hoa bạc mệnh" đã gắn với thân phận Kiều?
Dàn ý Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
1. Mở bài
- Giới thiệu chung về đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".
- Dẫn dắt vào 6 câu đầu đoạn trích.
2. Thân bài
- Câu thơ đầu đã cho thấy được hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều:
+ "Khóa xuân": khóa kín tuổi xuân
+ Diễn tả tình cảnh đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích.
- Thiên nhiên rộng lớn, hoang vắng không một bóng người:
+ Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản "non xa", "trăng gần" mở ra không gian rộng lớn, rợn ngợp của thiên nhiên
+ Đảo ngữ "bát ngát": rộng lớn, mênh mông
→ Con người trở nên nhỏ bé trước thiên nhiên rộng lớn. Làm nổi bật tâm trạng cô đơn, lạc lõng.
+ "xa trông": ánh mắt mong đợi, trông chờ
+ Từ trên lầu cao, trông ra xa chẳng thấy nổi một tin lành hay bóng người tâm giao, chỉ thấy những dãy núi mờ xa, mấy bụi hồng hắt hiu, đôi ba cồn cát vàng trên sông
=> Thiên nhiên càng rộng lớn, con người càng cô đơn. Kiều như chơ vơ, trơ trọi giữa không gian mênh mông, một màu hoang vắng đượm trên cảnh vật.
- Tâm trạng đau đớn, xót xa của Thúy Kiều:
+ Thành ngữ "Mây sớm đèn khuya" : Thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa.
+ Tính từ "bẽ bàng" diễn tả nỗi chán ngán, tủi hổ cho thân phận mình của nàng.
+ "như chia tấm lòng": sự đồng điệu giữa cảnh vật của thiên nhiên và tâm trạng của con người.
→ Cảnh vật như hòa nhập làm một với con người mà mang nỗi u sầu, trống trải, cô đơn.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của 6 câu thơ đầu trích đoạn.
Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 2
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, cũng là người đã mang văn học của Việt Nam vươn xa ra thế giới qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm là lời phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị, là tiếng kêu đau thương của những số phận bị áp bức trong thời kì ấy. Và thông qua đó, ta có thể thấy được lòng thương cảm, tình yêu thương con người sâu sắc của tác giả. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn trích hay nhất được trích từ tác phẩm này.
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc". Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, cho người mua thuốc thang và hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả nàng cho một người đàn ông tốt nhưng thực chất là giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích, chờ thời cơ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích là những lời tự bộc bạch, là nỗi lòng cô đơn, buồn tủi của Kiều khi nhớ về người yêu, khi nghĩ về số phận đớn đau của đời mình.
Sáu câu thơ đầu gợi tả thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian và thời gian:
"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng"
Khung cảnh thiên nhiên được nhìn dưới con mắt của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích, nơi giam lỏng nàng chính là nơi khóa tuổi xuân của Kiều lại. Hai chữ "khóa xuân" mà Nguyễn Du dành cho Kiều sao mà đớn đau, buồn bã đến thế! Một mình nơi lầu Ngưng Bích bao la, rộng lớn, Kiều chỉ có đám mây cùng với ngọn đèn bầu bạn. Nghệ thuật đối lập: "non xa" - "trăng gần" gợi một không gian rợn ngợp, không một bóng người, chỉ có mình Kiều với nỗi cô đơn, trống trải. Những cồn cát vàng gối đầu lên nhau, những bụi hồng ở xa kia dù biết Kiều đang chơi vơi, trơ trọi nhưng cũng không thể nào đến gần, bầu bạn với nàng được.
Trước khung cảnh đượm buồn của buổi chiều tà, Kiều cảm thấy lòng mình như chia đôi, diễn tả nỗi chua xót, đau đớn của Kiều trong một vòng tuần hoàn khép kín của "mây sớm đèn khuya". Ngày nào cũng như vậy, vẫn những cảnh vật đó không hề thay đổi, chỉ có lòng người ngày càng buồn hơn.
Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 3
Truyện Kiều một viên ngọc long lanh trong kho tàng văn học dân tộc, cùng với một số tác phẩm khác của Nguyễn Du, có giá trị hiện thực sâu sắc và chứa chan tinh thần nhân đạo cao quý, đã “nói lên lòng xót thương vô hạn của ông đối với những lớp người bị áp bức, đau khổ”.
Thật vậy, Nguyễn Du, nhà thơ của thời đại, đã nói lên những đau khổ lầm than của những người bị chế độ đương thời đày đọa. Cái thế giới làm cho ông thương cảm, xót xa là thế giới của tất cả những con người bị giày xéo, đày đọa về thể xác cũng như về tinh thần. “Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Truyện Kiều ca ngợi và đề cao tình yêu chung thủy, tình cảm kính yêu của con đối với cha mẹ, và nhất là đề cao ước mơ sống tự do trong xã hội đen tối bất công. Tinh thần nhân đạo bao la trong Truyện Kiều là kết tinh truyền thống nhân đạo của dân tộc ta hằng bao thế kỷ:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
(Tố Hữu)
Trong vô số nạn nhân của cuộc đời cũ, Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và xót thương những người phụ nữ có tài có sắc. Với Nguyễn Du, họ là hình ảnh tập trung về số kiếp bi đát của con người trong một cuộc đời bế tắc. Tiêu biểu là hình ảnh Thúy Kiều. Thúy Kiều là một con người tài sắc tuyệt vời, vẻ mặn mà nồng thắm, tài đánh đàn của Kiều cũng thể hiện cái tính của Kiều. Cái thế giới làm cho ông thương cảm, xót xa là thế giới của tất cả những con người bị giày xéo, đày đọa về thể xác cũng như về tinh thần. “Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Tình yêu của Kiều với Kim Trọng là một thứ tình yêu đắm say, mãnh liệt:
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Yêu nhau, nàng chủ động xây dựng hạnh phúc với người yêu. Gót chân Kiều đã thoăn thoắt, đã xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang nhà Kim Trọng. Thúy Kiều và Kim Trọng xứng đôi vừa lứa, gặp nhau và yêu nhau, tình yêu đó nồng nàn, chân thật, chính đáng. Nguyễn Du đã vượt ra ngoài thời đại của ông khi ca ngợi mối tình đầy thơ mộng của Kim và Kiều. Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Nhiều lần, lời thơ Nguyễn Du nhói lên trong đau xót. Vì xã hội phong kiến phá hoại hạnh phúc, mối tình chung tình phải nửa đường đứt gánh, thân nàng bị hoa trôi bèo dạt, nhưng ngọn lửa chung tình vẫn luôn rực cháy, tình yêu vẫn chân thành và trong sạch. Nguyễn Du đã phát biểu quan niệm về tự do luyến ái, về chữ trinh, đối lập với quan niệm phong kiến thời đại ông. Vì phải bán mình chuộc cha, phải xa ha Kim Trọng, Kiều vô cùng đau khổ, tự cho mình lỗi thề và phụ bạc với Kim Trọng. Nhưng vì mối tình đó vô cùng đẹp đẽ nên sau này trên bước đường hoa trôi bèo nổi, những kỉ niệm êm ái, say sưa luôn luôn hiện ra trước mắt Kiều.
Với Nguyễn Du, tình gắn bó chặt chẽ với nghĩa nên nhà thơ đã cho Kiều dặn em là Thúy Vân thay mình gá nghĩa với Kim Trọng:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Đáp lại mối tình của Kiều, Kim Trọng đã vượt ra ngoài triết lý của thời đại về hai chữ “công danh”, quyết tìm lại Kiều để đền bù tình xưa nghĩa cũ:
Rắp mong treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Dấn mình trong áng can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
Và phát biểu quan niệm mới về luyến ái, về chữ trinh:
Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có khi biến, có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh.
Tình cảm của con cái đối với cha mẹ trong Truyện Kiều cũng thật thống thiết và cảm động. Kiều đã dịu dàng khuyên cha:
Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
Tuy phải hy sinh hạnh phúc, bán mình chuộc cha, Kiều chẳng hề oán trách. Trong cảnh tử biệt sinh li, nghe tiếng chim kêu vượn hót, trông cánh buồm thấp thoáng ngoài khơi, nhìn ra non nước một màu, Kiều thường đau lòng tưởng nhớ tới cha mẹ. Đổi lại, Vương Ông vô cùng thương xót Kiều vì ông mà Kiều đã lỗi ước với Kim Trọng mặc dầu mối tình ấy vượt quyền cha mẹ. Ông muốn vạch trời kêu oan và đập đầu định tự tử.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ kể về cuộc đời con gái họ Vương có tài, có sắc bị đày đọa bi thảm mà còn nói lên nỗi đau xót của mình trong trước số phận đầy khổ đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cái thế giới làm cho ông thương cảm, xót xa là thế giới của tất cả những con người bị giày xéo, đày đọa về thể xác cũng như về tinh thần. “Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn). Nhiều lần, lời thơ Nguyễn Du nhói lên trong đau xót.
Tóm lại, vẽ nên tấm gương oan khổ, câu chuyện thê thảm của cuộc đời nàng Kiều, tiếng nói Nguyễn Du là tiếng kêu thương não nùng đau đớn trước vận mệnh của con người trong xã hội phong kiến. Tinh thần nhân đạo chứa chan là cội nguồn của tiếng kêu thương ấy.
Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 4
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người.
Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tố cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều. Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đến thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều.
Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.
Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 5
Có người từng nói: "Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc". Quả thật vậy, càng suy ngẫm ta càng thấm thía, càng thấy độc đáo - một đại thi hào dân tộc với sự sáng tạo tuyệt vời đã làm cho ngôn ngữ dân tộc vốn đẹp giờ càng đẹp hơn. Tả cảnh ngụ tình là một cách Nguyễn Du thể hiện thành công nét độc đáo của tiếng Việt trong tác phẩm của mình. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Sáu câu thơ đầu là hoàn cảnh cô đơn, cay đắng, xót xa của nàng Kiều; đó là "tình" trong "cảnh", "cảnh" trong "tính":
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.ư
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng...
Sáu câu thơ - một mảng tâm trạng buồn rầu, xót xa - toàn cảnh trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn và tâm trạng của Thúy Kiều. Nàng Kiều trơ trọi giữa không gian, thời gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ "Bốn bề bát ngát xa trông” gợi lên sự rợn ngợp của không gian: vừa hoang sơ, xung quanh chỉ toàn mây nước không một bóng người, vừa thực vừa ảo mù mịt. Khung cảnh thiên nhiên có "non xa, trăng gần, cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia" nhưng chẳng có lấy một sự tươi vui, náo nhiệt, không sức sống. Tuổi "xuân" của nàng bị khóa chặt trong sự cô lập, cô đơn đến bất hạnh đó. Nàng trơ trọi giữa mênh mông trời nước, không gian hoang vu tiêu điều, trong hoàn cảnh tha hương, lại bị giam hãm trong cái lầu xanh cao ngất nghểu trơ trọi giữa trời và nước.
Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng....
Một khung cảnh bao la, rộng lớn nhưng lại thấm đẫm một nỗi sầu của nàng Kiều. Đúng như Nguyễn Du viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài đặc, quẩn quanh, "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả đang giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngán, chỉ biết làm bạn với "mây" và "đèn". Câu thơ "Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng" không chỉ buồn rầu, tủi hổ về thân phận, số phận cay đắng, truân chuyên mà nàng còn xót xa vì cái "tình riêng" khiến lòng nàng như bị xé! Một nửa là tâm sự của Kiều, một nửa là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích, hai mối phụ họa với nhau mà tác động đến Thúy Kiều, chia sẻ lòng Kiều khiến cho lòng nàng tan nát, dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương.
Nguyễn Du đã xót thương cho cái số phận đầy sóng gió ấy. Thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã thể hiện một cách độc đáo cảnh thực ở lầu Ngưng Bích và sự xót xa, buồn tủi của nàng Kiều về tình riêng dang dở.
Cảm nhận về 6 câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 6
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tên tuổi của ông gắn liền với kiệt tác "Truyện Kiều". Tác phẩm là đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật thi ca. Với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc đã đạt đến độ tinh tế. Đọc tác phẩm, ta ấn tượng nhất với đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích". Đặc biệt là 6 câu thơ đầu đã thể hiện hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp, tâm trạng buồn tủi của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích thuộc phần 2: Gia biến và lưu lạc. Ngày từ câu thơ mở đầu "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân" đã cho thấy hoàn cảnh tội nghiệp, đáng thương của Thúy Kiều. Khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh Kiều uất ức định tự vẫn, Tú Bà vờ hẹn chờ Kiều bình phục rồi gả chồng cho nàng ở một nơi tử tế, nhưng thực chất là đem nàng ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu mới. Hai chữ "khóa xuân" cho thấy Kiều ở lầu Ngưng Bích nhưng thực chất là bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là nơi khóa kín tuổi xuân, giam lỏng cuộc đời Thúy Kiều. Đã biết bao nhiêu đêm nàng cô đơn, thao thức nơi ngôi lầu ấy.
Sáu câu thơ đầu, tác giả nói lên hoàn cảnh sống và nỗi niềm cô đơn, tội nghiệp của nàng Kiều. Ngay câu thơ mở đầu: "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân", Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều. "Khóa xuân" tức khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về việc Kiều đang bị giam lỏng. Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều bị giam hãm, khóa kín trong cấm cung và không được giao tiếp với bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù giam lỏng cuộc đời Kiều, Lầu Ngưng Bích cũng là nơi dừng chân dầu tiên trong hành trình 15 lưu lạc của cuộc đời mình. Câu thơ cho thấy tình cảnh đáng thương, xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng. Những câu thơ tiếp theo, tái hiện quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn, mênh mông được nhìn dưới con mắt đầy tâm trạng của Kiều:
Cảnh lầu Ngưng Bích hiện lên mênh mông, vắng lặng đã tô đậm vẻ cô đơn bẽ bàng của Kiều. Nàng trơ trọi giữa không gian mênh mông, hoang vắng. Ngồi trên lầu cao nhìn ra xa không chỉ thấy những dãy núi mờ xa, mảnh trăng như ở cùng trong một bức tranh:
"Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung"
Cảnh đẹp (có núi non, có trăng sao) nhưng thật buồn vì nơi ấy Kiều trơ trọi giữa không gian, thời gian: Xung quanh nàng là mênh mông, hoang vắng "cảnh non xa, trắng gần" có thể là cảnh thực, mà cũng có thể là hình ảnh mang tính chất ước lệ để gợi sự mênh mông giợn ngợp của không gian, cảnh "non xa, trăng gần" như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi, mênh mông trời nước, qua đó diễn tả nỗi cô đơn của Kiều. Ngồi trên lầu cao nhìn ra xa thì thấy những dãy núi mờ xa, những cát vàng, những dặm đường xa cuốn bụi hồng.
"Bốn bể bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng giọng kia"
Câu thơ 6 chữ (bốn bể bát ngát xa trông) chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian. Còn có câu thơ 8 chữ (cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia) có hai vế đối xứng mở rộng không gian ra nhiều phía, càng tô đậm thân phận cô đơn của Thúy Kiều đang bị giam lỏng ở lầu cao trơ trọi, cái lầu cao ấy giam một thân phận trơ Trọi không có sự giao lưu giữa người với người. Đến đây ta lại bắt gặp hai hình ảnh "cát vàng, bụi hồng" vừa có thể là tả thực, và cũng có thể là hình ảnh mang tính chất ước lệ, gợi sự mênh mông, giợn ngợp của không gian. Qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều ngày lại qua ngày Kiều chỉ "bẽ bàng mây sớm đèn khuya" cụm từ "mây sớm đèn khuya" gợi thời gian tuần hoàn khép kín, thời gian cũng như không gian giam hãm con người. "Sớm và khuya" ngày và đêm ở một mình nơi đất khách quê người nàng chỉ biết làm bạn với "mây sớm đèn khuya" nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt. Đối diện với "mây" và "đèn" Kiều càng thấm thía, bẽ bàng cho thân phận của mình, nàng xấu hổ, tủi thẹn với mây và đèn cảnh ấy, tình ấy làm lòng Kiều tan nát. "Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng" cảnh buồn, tình buồn hòa nhập vào nhau thành nỗi buồn chất ngất trong lòng Kiều. Cảnh gắn với lòng người, tình cảnh hòa quyện. Nét đặc sắc ở đây là tả cảnh làm nền để bộc lộ nội tâm nhân vật. Cảnh buồn làm người buồn, người buồn nhìn cũng thấy buồn đúng như Nguyễn Du đã viết Trong một đoạn khác của Truyện Kiều:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
Như vậy với việc sử dụng từ ngữ có sức gợi hình, gợi cảm lớn ngòi cùng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ đã cho thấy cảnh ngộ cô đơn, đáng thương và tâm trạng buồn tủi của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Đây là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của "Truyện Kiều" Nguyễn Du đã tả cảnh để bộc lộ tâm nhân vật.
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều