5+ Dàn ý 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích (hay, ngắn gọn)



Dàn ý 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.

5+ Dàn ý 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích (hay, ngắn gọn)

Quảng cáo

Bài giảng: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Dàn ý 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích

Dàn ý 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 1

1, Mở bài

Giới thiệu về nội dung đoạn trích và tám câu thơ cuối:

    - Đoạn trích miêu tả tâm trạng đau buồn, tủi phận của Thúy Kiều khi gặp biến cố bị bán vào lầu xanh, tự tử không thành và bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Đoạn trích có nhiều giá trị nghệ thuật đặc sắc.

    - Tám câu thơ cuối diễn tả “nỗi lòng tê tái” của Kiều trong những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường.

2,Thân bài

Phân tích bốn cặp thơ lục bát “buồn trông” để thấy được những đặc sắc nội dung và nghệ thuật:

a, Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

    - Không gian, thời gian, cảnh vật:

Quảng cáo

    + Không gian cửa bể mênh mông, rộng lớn

    + Thời gian: chiều hôm. Trong ca dao, thơ ca, thời điểm chiều tà là thời điểm dễ khiến con người buồn, nhớ (dẫn chứng một vài câu thơ, câu ca dao: Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều…)

    + Cảnh vật: chỉ có bóng con thuyền và cánh buồm thấp thoáng, càng khiến không gian trở nên mênh mông, cô quạnh, không một bóng người.

    - Nghệ thuật: đảo ngữ thấp thoáng lên trước, cùng từ láy xa xa làm tăng thêm cảm giác xa xôi, nhỏ bé của con thuyền, tăng cảm giác cô độc của nhân vật.

b, Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

    - Hình ảnh ẩn dụ: hoa trôi trên dòng nước ẩn dụ cho thân phận người con gái chìm nổi trên dòng đời. Kiều nhìn cánh hoa trôi mà cảm thương cho số phận chìm nổi lênh đênh của mình.

Quảng cáo

    + Liên hệ với ca dao: Thân em như thể bèo trôi/ Sóng dập gió dồi biết tựa vào đâu; Thân em như thể cánh bèo/ Ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôi…

⇒ Cánh hoa, cánh bèo, cánh lục bình… đều ẩn dụ cho sự mong manh, yếu đuối, không thể tự định đoạt của thân phận người con gái trong xã hội phong kiến. Sóng, dòng nước ẩn dụ cho cuộc đời.

c, Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

    - Màu sắc của cảnh vật:

    + “Rầu rầu”: màu sắc ảm đạm, úa tàn

    + “Xanh xanh”: ý nói không gian không có sự sống con người, trời đất lẫn vào nhau một màu xanh.

⇒ Tâm trạng mệt mỏi chán chường của Thúy Kiều, nhìn đâu cũng thấy sự ảm đạm, thê lương; câu thơ tiêu biểu cho thủ pháp tả cảnh ngụ tình trong đoạn thơ (người buồn cảnh có vui đâu bao giờ).

Quảng cáo

d. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

    - Âm thanh dữ dội của sóng, gió gợi sự kinh hãi. Câu thơ như báo trước những sóng gió trong cuộc sống sắp tới với Kiều.

e, Đánh giá chung về nghệ thuật của đoạn thơ

    - Điệp từ “buồn trông”: tạo nên âm hưởng trầm buồn, như một điệp khúc của đoạn thơ, là ngọn nguồn lí giải cảnh sắc trong đoạn thơ.

    - Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: cảm xúc của Thúy Kiều ảnh hưởng tới cảnh vật nàng nhìn thấy ⇒ cảnh nào cũng buồn, cô quạnh, u ám, đáng sợ.

    - Hệ thống từ ngữ tả cảnh: tính từ, từ láy.

    - Nhịp thơ thay đổi ở 2 câu cuối: đang từ chậm buồn trở nên gấp gáp.

    - Thủ pháp đối lập giữa 2 câu cuối và 6 câu trước: âm thanh dữ dội đối lập với những hình ảnh ảm đạm.

    - Hình ảnh được tả từ xa đến gần: sự thay đổi điểm nhìn của nhân vật, đứng trên lầu cao nhìn từ xa lại.

3, Kết bài

Tổng kết về nội dung và nghệ thuật:

    - Nội dung: Nỗi buồn, lo sợ của Thúy Kiều trong cảnh cô đơn, vô vọng, phiêu bạt. Dự cảm về số phận bất hạnh đầy sóng gió của Kiều. Thể hiện sự cảm thông, thấu hiểu, thương xót số phận người phụ nữ của Nguyễn Du.

    - Nghệ thuật: thủ pháp tả cảnh ngụ tình, điểm nhìn trần thuật được đưa từ xa tới gần làm tăng thêm giá trị nội dung.

Dàn ý 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 2

I. Mở bài

+ Giới thiệu tác giả và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

+ Giới thiệu đoạn thơ cuối (8 câu cuối).

II. Thân bài

- Cặp lục bát 1: Phân tích hình ảnh “cửa bể chiều hôm”, “cánh buồm xa xa” gợi tả nỗi buồn của Kiều khi nghĩ về cha mẹ - những người sinh thành ra mình, nàng cảm thấy xót xa.

- Cặp lục bát 2: Phân tính hình ảnh “ngọn nước mới sa”, “hoa trôi man mác” gợi tả nỗi mông lung lo lắng của Kiều không biết cuộc đời sẽ trôi đi đâu về đâu. Tâm trạng của Thúy kiều lại trở về với thực tại của đời mình, trở về với nỗi đau hiện thực.

- Cặp lục bát 3: Phân tích hình ảnh “nội cỏ rầu rầu”, “chân mây mặt đất” gợi tả sự vô định của Kiều. Từ láy “rầu rầu” gợi cho ta sự tàn úa đến thảm thương, màu xanh tàn úa, héo hắt.

- Cặp lục bát 4: Phân tích hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh”, “tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” gợi sự sợ hãi, hoảng hốt của Kiều. Sự lênh đênh trên chặng đường đời nhiều sóng gió trước mặt Kiều, cũng là những phong ba, gập ghềnh mà Kiều sẽ phải đi qua.

=> Điệp từ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại trong khổ thơ. Nó như tâm trạng của Kiều lúc này, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

* Tổng kết nghệ thuật:

+ Điệp cấu trúc với điệp ngữ “buồn trông”.

+ Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.

+ Hình ảnh có sự tăng tiến gợi tả sự tăng tiến của cảm xúc.

III. Kết bài

+ Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán.

+ Phân tích bút pháp nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” của Nguyễn Du. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một.

Dàn ý 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 3

1. Mở bài

- Truyện Kiều là một trong những tác phẩm truyện thơ nổi tiếng nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam.
- Một trong những đoạn trích hay, với bút pháp đặc sắc tả cảnh ngụ tình, thường được Nguyễn Du vận dụng một cách tinh tế trong thơ của mình ấy là đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- Đặc biệt ở 8 câu thơ cuối bài, nỗi buồn của nàng Kiều được bộc lộ một cách trực tiếp và mạnh mẽ thông qua những cảnh vật tưởng vô tình nhưng lại hữu ý ám chỉ về tâm tư, về cuộc đời và số phận của nàng Kiều tội nghiệp.

2. Thân bài

* Hoàn cảnh :
- Sau gia biến, Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán, rồi lưu lạc vào lầu xanh. Kiều không muốn tiếp khách, nhiều lần muốn tự tử, Tú Bà bèn giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích.
- Tại đây Kiều ngày ngày ôm nỗi buồn, nỗi nhớ thương gia đình, lại xót xa cho mình phận bạc.

* Phân tích:

- "Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"

+ Nỗi buồn bã cô quạnh, thân phận lênh đênh không biết đi về đâu.

+ Nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình.

- "Buồn trông ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác biết là về đâu"

+ Nỗi xót thương thân phận nổi trôi, tâm trạng hoang mang, lo lắng không biết sẽ dạt về đâu.

- "Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh"

+ Nỗi chán chường, tù túng trước những cảnh không thay đổi, nhạt nhẽo, dẫn đến tâm trạng bế tắc không lối thoát.

- "Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi"

+ Bão tố trong lòng Kiều, đồng thời là những dự cảm không lành về những sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời khiến Kiều lo lắng và sợ hãi vô cùng.

3. Kết bài

- Cả đoạn thơ 8 câu tựa như bức tranh tứ bình về tâm trạng của Kiều, bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, cùng nghệ thuật điệp từ, những câu hỏi tu từ, những từ láy tinh tế, Nguyễn Du đã diễn tả một cách vô cùng sâu sắc sự thay đổi tâm trạng của nàng Kiều.

Dàn ý 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 4

1. Mở bài:

Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và truyện Kiều

Giới thiệu 8 câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”

2. Thân bài:

* Nội dung:

- “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”:

“Cửa biển” rộng lớn và “con thuyền” nhỏ bé được đặt trong thế đối nhau -> Thể hiện tâm trạng cô đơn, lẻ loi của nàng Kiều.

Con thuyền nhỏ lênh đênh, vô định -> Khao khát trở về quê nhà.

- “Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu”:

Dòng nước: Sự trôi chảy của dòng đời.

Đóa hoa trôi: Số phận trôi nổi, bấp bênh của người con gái -> Sự ý thức về thân phận của Kiều.

Câu hỏi tu từ “về đâu”: Nỗi niềm băn khoăn, day dứt khi không biết số phận mình sẽ đi về đâu giữa dòng đời vô định.

- “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt nước một màu xanh xanh”:

Thiên nhiên mang màu sắc nhạt nhòa, “xanh xanh”.

Không gian rộng lớn nhưng chứa đựng nỗi buồn rầu khôn nguôi.

“cỏ”: thân phận nhỏ bé, thấp kém của Kiều -> Liên tưởng về tương lai mờ mịt, ảm đạm, u ám.

- “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Dấu hiệu về những cơn bão lớn với sức tàn phá đang tới.

Sự nhạy cảm của Kiều về những sóng gió sắp ập đến trong cuộc đời mình.

=> 8 câu thơ cuối đoạn trích đã thể hiện sự nhạy cảm của Kiều và báo hiệu trước một tương lai đầy sóng gió.

* Nghệ thuật:

Tả cảnh ngụ tình

Điệp ngữ “buồn trông”

Sử dụng các từ láy: xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm

=> Góp phần thể hiện tâm trạng buồn thảm, lo lắng của Kiều.

3. Kết bài:

Đánh giá lại nội dung, nghệ thuật trong 8 câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”

Khẳng định tài năng của tác giả Nguyễn Du.

Phân tích 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 1

Nguyễn Du không chỉ xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật mà còn là người có biệt tài miêu tả thiên nhiên, ngụ tâm tình, tình cảm của con người. Mỗi bức tranh dưới đôi bàn tay Nguyễn Du luôn luôn thực hiện hai chức năng chính: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm trạng. Tám câu thơ cuối trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã cho thấy rõ biệt tài này của ông.

Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều sống trong đau đớn, ê chề, với bản tính là con người trọng nhân phẩm, Kiều đã tìm đến cái chết để giải thoát nhưng không thành công. Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ đến ngày thực hiện âm mưu mới. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong đau đớn, tủi hổ, cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực.

Trong nỗi cô đơn, dường như ai cũng một lòng hướng về gia đình. Người con gái trong ca dao, dù lấy chồng, nhưng trong những khoảnh khắc ngày tàn vẫn tha thiết nhớ về quê mẹ:

Chiều về ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Huống chi là nàng Kiều, thân phận nổi trôi, bán mình cứu gia đình, thì nỗi nhớ gia đình lại càng da diết hơn bao giờ hết:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Không gian mênh mông của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thấp thoáng phía xa gợi lên không gian rợn ngợp, hoang vắng. Cánh buồm dường như trở nên nhỏ bé hơn trong không gian rộng lớn ấy. Thân phận nàng cũng chẳng khác gì cánh buồm kia, lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời bất định. Đồng thời ông cũng rất khéo léo lựa chọn thời gian cho nỗi nhớ, ấy là “chiều hôm”. Trong văn học không gian buổi chiều thường gợi ra nỗi buồn man mác, ở đây trong hoàn cảnh của Kiều nỗi buồn ấy gắn với khát khao được sum họp, đoàn tụ, được trở về bên quê hương, gia đình.

Sau nỗi buồn tha hương, xa xứ, nàng nghĩ về thân phận mình mà lại càng đau lòng hơn: “Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu?”. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi” là biểu trưng cho thân phận của nàng Kiều. Ngọn nước mới sa kia có sức mạnh ghê gớm, là những giông bão, sóng gió trong cuộc đời đã vùi dập cuộc đời nàng. Những cánh hoa trôi man mác cũng như thân phận bé bỏng, mong manh của nàng. Cuộc đời nàng lênh đênh theo dòng đời, không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu” như một lời than, một lời ai oán cho số phận bất hạnh. Qua đó càng nhấn mạnh hơn nữa thân phận chìm nổi, bèo bọt của nàng.

Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh đã xuất hiện nhiều lần, mỗi lần xuất hiện đều mang ý nghĩa khác nhau. Nếu như trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, sắc xanh tượng trưng cho sự sống, tươi tốt mơn mởn, thì trong đoạn trích này màu xanh lại mang một ý nghĩa khác: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Nội cỏ chỉ mang một màu tàn lụi héo úa. Sắc xanh cũng nối chân trời mặt đất với nhau nhưng lại nhạt nhòa, đơn sắc. Tất cả những màu sắc đó hòa điệu với nhau càng khiến cho tâm trạng Kiều trở nên ngao ngán, chán nản hơn. Kiều nhìn ra bốn phía để tìm được sự đồng điệu, tìm sự sẻ chia. Vậy mà, khung cảnh chỉ càng làm nàng thêm u sầu, ảo não. Quả thực “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Dưới con mắt tuyệt vọng của nàng, khung cảnh nào cũng chỉ thấm đầy nỗi buồn chán, bế tắc và vô vọng. Điều đó càng đẩy Kiều rơi vào sâu hơn hố sâu của sự sầu muộn, tuyệt vọng.

Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều đã được tác giả tập trung bút lực thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Cảnh cuối thiên nhiên hiện ra thật dữ dội, đó không chỉ còn là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh, Kiều tưởng mình không còn ngồi ở lầu Ngưng Bích mà đang ngồi giữa biển khơi mênh mông, xung quanh là sóng biển gào thét như muốn nhấn chìm nàng xuống biển. Đặc biệt từ láy “ầm ầm” vừa diễn tả một khung cảnh khủng khiếp vừa diễn tả tâm trạng buồn lo, hoảng loạn của Thúy Kiều. Nàng đang dự cảm những giông bão của số phận, rồi đây sẽ nổi lên và nhấn chìm cuộc đời mình.

Đoạn thơ đã vận dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải gánh chịu. Không chỉ vậy Nguyễn Du còn có sự miêu tả theo trình tự hợp lý: Từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn da diết của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, lớp từ láy giàu giá trị tạo hình và biểu cảm. Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.

Tám câu thơ cuối là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bằng những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.

Phân tích 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 2

Một trong những yếu tố làm nên thành công cho kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Đại thi hào đã có hai câu thơ thật hay để khái quát về bút pháp nghệ thuật tài tình này:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Đạt đến thành công tuyệt vời của thiên tài Nguyễn Du trong bút pháp này là tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều, SGK Văn học 9, tập 1):

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông, gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.

Bản thân tên gọi của bút pháp đã hàm chứa phương thức biểu đạt “tả cảnh” nhưng “ngụ tình”. Nghĩa hiển ngôn của câu chữ là tả thiên nhiên, cảnh vật nhưng qua đó nhà thơ muốn gửi gắm cái tình, cái ý của nhân vật trữ tình. Như trong hai câu thơ dưới đây:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
gười buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

nhà thơ đã khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa cảnh và tình: cảnh theo tình, tình buồn cảnh cũng buồn theo. Và như thế, bức tranh phong cảnh đã trở thành bức tranh tâm cảnh. Trong tám câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã vận dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình ấy. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông là cảnh cửa bế lúc chiều hôm:

Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Không gian mênh mông rợn ngợp và thời gian khi chiều tà muôn thuở luôn gợi nỗi buồn trống vắng bơ vơ. Giữa khung cảnh ấy cánh buồm “thấp thoáng” vô định hiện hữu như một ảo ảnh. Hình ảnh cánh buồm dễ khiến ta liên tưởng đến những chuyên đò ngược xuôi về bến bờ cua quê hương xứ sở. Cảnh đã gợi trong lòng người tha hương nỗi nhớ buồn về cha mẹ, quê nhà cách xa, nỗi cô đơn và khát khao sum họp.

Trên mặt nước mênh mông của chốn biển cả lênh đênh, cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu

Cảnh làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một cánh hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày thanh minh: “cỏ non xanh rợn chân trời” là sắc cỏ “rầu rầu” – một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải là màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa hèn của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao . giờ”. Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc.

Bên cạnh những từ láy, từ tượng thanh, tượng hình đầy sức gợi, đoạn thơ còn thành công ở việc dùng điệp ngữ “buồn trông”. Điệp ngừ này Nguyễn Du mượn trong ca dao:

“Buồn trông con nhện giăng tơ…
Buồn trông chênh chếch sao mai…”

Bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và các cặp câu được liên kết nhờ điệp ngữ giàu tính truyền thống này:

Buồn trông cửa biển chiều hôm
Buồn trông ngọn nước mới sa
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

“Buồn trông” là nhìn xa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến .làm thay đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời. Điệp ngữ kết hợp với những hình ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. “Buồn trông” trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tứ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút, với bút pháp tả cảnh ngụ tình.

Bút pháp tả cảnh ngụ tình là một bút pháp nghệ thuật tinh tế và đặc sắc. Phải có sự đồng cảm đến tri âm tri kỉ với nhân vật trữ tình mới có thể đạt đến độ chín của bút pháp. Và bởi vậy, với việc vận dựng thành công thủ pháp nghệ thuật này trong việc diễn tả tâm trạng “Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích” Nguyễn Du đã bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm, đa đoan và một tâm hồn nhân ái đến tuyệt vời.

Phân tích 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 3

"Truyện Kiều" của Nguyễn Du là "tập đại thành" của thi ca Việt Nam. Tác phẩm đã thành công đem đến câu chuyện về cuộc đời đầy sóng gió của Vương Thúy Kiều - người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh. Đến với đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", ta đã thấy được đầy đủ diễn biến tâm trạng của nàng khi rơi vào vòng xoáy nghiệt ngã mà số phận tạo ra, đặc biệt là qua tám câu thơ cuối.

Khái lược lại về hoàn cảnh, Kiều vốn là con gái cả của nhà họ Vương danh giá. Sau, do gia đình gặp biến cố, nàng bị lừa bán vào lầu xanh. Khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, nàng đắm chìm trong dòng hồi tưởng về những ngày tháng tự do, tươi đẹp khi xưa bên gia đình, bên Kim Trọng. Sự hỗn loạn trong tâm trạng của nàng đã được thể hiện vô cùng rõ ràng qua ngòi bút đại tài của Nguyễn Du.

Trước tiên, Kiều thể hiện sự hoang mang của bản thân trước cái rộng lớn, vô tận của thiên nhiên:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"

Chỉ một cụm từ "cửa bể chiều hôm" cũng đủ để gợi ra cả không gian và thời gian. Buổi chiều thường là lúc gia đình đoàn tụ, quây quần bên nhau. Vậy mà Kiều chỉ có một thân một mình ở nơi đất khách quê người. Trước mặt nàng chẳng có cha mẹ, chị em hay người thương. Chỉ có chốn "cửa bể" mênh mông, rợn ngợp. Thấp thoáng phía xa cũng chỉ là cánh buồm cô độc, tựa như chính hoàn cảnh của nàng lúc này. Bao ngóng trông, đợi chờ đều trở nên vô vọng, bị nuốt chửng bởi khoảng không gian vô tận.

Trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn ấy, con người dần trở nên mông lung, vô định:

"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"

Khi này, Kiều bắt đầu nghĩ về thân phận mình. Từ một tiểu thư đài các, có sự đủ đầy cả về gia đình lẫn tình yêu. Giờ đây, nàng lại thân cô thế cô, một mình chống chọi lại với sự đơn độc nơi lầu Ngưng Bích "khóa xuân". Cánh hoa nhỏ bé chính là đại diện cho thân phận của nàng. Nó "trôi man mác" giữa dòng, bị sóng gió cuộc đời đẩy đưa, vùi dập. Kiều phải thốt lên câu hỏi "biết là về đâu?" để thể hiện sự mông lung, vô định của mình khi nghĩ về tương lai phía trước.

Thiên nhiên lại một lần nữa được nhắc đến. Nhưng giờ đây, nó lại nhuốm màu tang thương:

"Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh"

Trong "Cảnh ngày xuân", hình ảnh thiên nhiên hiện lên đầy sức sống với "Cỏ non xanh tận chân trời/Cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Vậy nhưng ở đây, người đọc lại thấy "nội cỏ rầu rầu". Sự rộng lớn cùng màu xanh của đất trời bị phủ lên tâm trạng xót xa, đau đớn của nhân vật. Chinh điều đó đã khiến cho cảnh sắc thiên nhiên trở nên đơn điệu hơn, càng khắc sâu nỗi cô đơn trong lòng người.

Và bất chợt, giông bão ập đến, kéo theo cả những lo lắng, dự cảm không lành của nhân vật về tương lai phía trước:

"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Mặt biển sóng cuộn dữ dội. Thanh âm như khiến con người ta sợ hãi, hoang mang. Đây có lẽ chính là điềm báo cho những sóng gió mà Kiều phải trải qua sau này. Số phận của người con gái tài hoa cứ mông lung, vô định như vậy trước dòng đời đẩy đưa.

Chỉ với tám câu thơ cô đọng, hàm súc, Nguyễn Du đã khéo léo mô tả diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Điệp ngữ "buồn trông" được sử dụng đến bốn lần, trực tiếp nói lên nỗi lòng xót xa, đau đớn trong nhân vật. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, tác giả thành công tái hiện nỗi cô đơn, vô định mà Kiều phải trải qua. Các từ láy được sử dụng hàng loạt kết hợp với nhiều hình ảnh ẩn dụ giàu sức gợi cũng góp phần làm nên những câu thơ giàu giá trị.

Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nói riêng và kiệt tác "Truyện Kiều" nói chung chính là minh chứng rõ nét cho tài hoa cùng cái nhìn vượt thời đại của Đại thi hào Nguyễn Du. Qua đó, tác giả cũng bày tỏ lòng cảm thông, thương xót vô bờ dành cho tài năng và số phận của những người con gái trong xã hội xưa.

Phân tích 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 4

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc là danh nhân văn hóa thế giới. Nhắc đến ông, người ta kể đến “Truyện Kiều” - một tác phẩm đã nâng Tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc. Đọc truyện, ta cảm nhận được trái tim nhân hậu, đa cảm đối với con người của nhà thơ. Như Mông Liên Tưởng chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều đã viết “Lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thìa, ngậm ngùi, day dứt đến đứt ruột”. Và có đọc tám câu thơ cuối của đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, ta mới cảm nhận được nét tinh tế, được cái hay, cái đẹp của bút pháp tài ba của Nguyễn Du, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình.

Có thể nói, tám câu thơ cuối được xem như là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển (lấy cảnh sắc thiên nhiên để gửi gắm tâm trạng, cảm xúc). Để diễn tả tâm trạng cô đơn buồn tủi, tuyệt vọng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc” - tình trong cảnh ấy cảnh trong tình này” là thực cảnh cũng là tâm cảnh. Mỗi cảnh gợi ra một nỗi buồn khác nhau, để rồi tình buồn tác động đến cảnh buồn khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn càng trở nên ghê gớm mãnh liệt. Đúng như Nguyễn Du từng viết:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Những dòng thơ sinh động, dưới cái tài miêu tả nội dung nhân vật của tác giả làm hiện lên một bức tranh vừa gợi tả cảnh thiên nhiên vừa gợi nỗi lòng của nàng Kiều. Một mình bơ vơ, trơ trọi giữa không gian mênh mông, nỗi nhớ nhà quê hương bỗng trỗi dậy trong lòng Kiều.

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa

“Cửa bể” là không gian biển khơi mênh mang, rợn ngợp vô cùng, đặt trong thời gian chiều tà, gợi nỗi buồn vắng da diết. Câu thơ của Nguyễn Du khiến người đọc nghĩ tới hình ảnh người con gái lấy chồng xa quê nhìn về quê vào mỗi chiều tà trong câu ca dao:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Trong thơ, cảnh chiều hôm giữa không gian bao la ấy có một cánh buồm lẻ loi, lạc lõng lúc ẩn lúc hiện ”thấp thoáng” đã gợi lên cho ta sự lưu lạc tha hương cùng với nỗi buồn da diết về cha mẹ của đứa con nơi ”đất khách quê người”. Câu thơ từ từ ngân lên như một niềm khao khát, hoài bão, ngóng trông, nhưng hiện tại, nơi góc bể chân trời, Kiều vẫn lẻ loi một mình đối đầu với sóng gió cuộc đời, rồi thân phận kiều sẽ lênh đênh, trôi dạt về phương trời nào?

Tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều giữa biển trời vô định khiến người đọc phải xót thương, nơi xa kia Kiều nhìn thấy cánh hoa trôi và nghĩ đến thân phận mình:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

“Ngọn nước mới sa” chứa đựng một sức mạnh của tự nhiên có thể vùi dập, cuốn trôi, hủy diệt những gì nhỏ bé. Giờ đây, không gian không chỉ mênh mông rợn ngợp mà nó còn mạnh mẽ dữ dội, hình ảnh hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước bị dập vùi cũng chính là cuộc đời Kiều trôi nổi giữa dòng đời, Kiều bất lực và mặc thác cho số phận xô đẩy. Đau xót thay khi Kiều giờ đây như một con chim lạc bầy đang bay trong giông tố.

Đọc hai câu thơ tiếp theo, tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều đã nâng lên thành tâm trạng tuyệt vọng, bế tắc khi Kiều còn nhìn thấy ngọn cỏ rầu rầu:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Cảnh khá ấn tượng không phải là “cỏ non xanh tận chân trời” của ngày xuân đầy sức sống mà là “nội cỏ rầu rầu” héo úa, tàn lụi, chết chóc càng làm cho Thúy Kiều thêm chán nản, vô vọng. Màu “xanh xanh” làm cho cả cỏ cây không còn tươi tắn, cảnh vật thêm ảm đạm, như màu cỏ trên mộ Đạm Tiên:

Sè sè nấm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh

Hai câu thơ cuối có thể coi là bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến đỉnh điểm. Sóng gió âm thanh dữ dội duy nhất xuất hiện gắn liền với sự mạnh mẽ tượng trưng cho sức mạnh phong kiến rình rập bủa vây cuộc đời Thúy Kiều:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Chiều đã muộn, cảnh không còn hiện rõ nữa, âm thanh dội lên mạnh hơn. Kiều nhìn thấy “gió cuốn” từng đợt sóng trào dâng, nghe “sóng kêu” vang dội bỗng thấy kinh hãi, lo sợ đến hãi hùng, Kiều chơi vơi như rơi vào vực thẳm một cách bất lực, và cũng chính lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng yếu đuối nhất. Vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh, để rồi dấn thân vào cuộc đời “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”.

Không chỉ vậy, bốn câu lục bát được liên kết bằng điệp ngữ “buồn trông” gợi nỗi buồn điệp trùng, triền miên, tạo âm hưởng của một bản nhạc buồn với điệp khúc tâm trạng. “Buồn trông” ở đây là buồn mà nhìn xa trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ thay đổi hiện tại nhưng càng trông càng vô vọng. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với nhiều từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm” đứng ở cuối câu tạo nên nhịp điệu trầm và đã diễn tả sâu sắc tâm trạng đau thương, buồn thảm của Kiều. Đồng thời với hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động và tâm trạng từ tuyệt vọng cô đơn đến lo lắng, hoang mang.

Tóm lại, “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Đoạn trích thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong tả cảnh ngụ tình, trong đó, tám câu thơ cuối đã gieo vào lòng người nỗi buồn thương cùng Kiều và tình yêu thương, thấu hiểu với thân phận người đàn bà của Nguyễn Du.

Phân tích 8 câu cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 5

Nguyễn Du đã từng đúc kết rằng:

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Quả thực điều ấy đã ứng vào cuộc đời nàng Kiều, tài mệnh tương đố, nàng Kiều đẹp cả ở ngoại hình và nhân cách nhưng lại phải chịu nhiều cảnh tang thương, bất hạnh. Đau đớn nhất có lẽ là khi cô đơn ở lầu Ngưng Bích, bị giam lỏng, cầm tù và mường tượng về tương lai sóng gió sau này của chính mình. Tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là minh chứng đầy đủ nhất cho điều ấy.

Tám câu thơ cuối cùng cho thấy tài năng phân tích, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của Nguyễn Du. Ông lấy bức tranh phong cảnh không chỉ đơn thuần là phong cảnh mà đó còn là bức tranh tâm trạng. Nguyễn Du đã biến khung cảnh thiên nhiên là phương tiện để miêu tả tâm trạng của con người. Có thể thấy tám câu thơ đã đạt đến mẫu mực của bút pháp tả cảnh ngụ tình. Bi kịch nội tâm của nàng Kiều đã được Nguyễn Du diễn tả qua bức tranh thiên nhiên phong phú khi nàng ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn thơ chia ra làm bốn cặp lục bát, mở đầu mỗi cảnh là điệp từ “buồn trông” xuất hiện với âm hưởng trầm buồn, báo hiệu biết bao sóng gió, khó khăn phía trước. Đồng thời mỗi cặp lục bát cũng tương ứng với một nét tâm trạng của Thúy Kiều. Mở đầu là khung cảnh biển nước mênh mông:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Nguyễn Du sử dụng linh hoạt hai từ láy thấp thoáng, xa xa và kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” cho thấy nỗi chờ đợi, trống ngóng trong vô vọng của nàng. Không chỉ vậy, Nguyễn Du cũng rất tinh tế khi lựa chọn khoảng thời gian để bộc lộ tâm trạng, đó là thời gian buổi chiều, gợi nhắc gợi nhớ về hơi ấm gia đình. Đúng lúc ấy lại xuất hiện hình ảnh cánh buồm nhỏ bé trước cửa bể rộng lớn, làm cho nỗi hoang vắng mênh mông càng lớn hơn. Đồng thời cánh buồm đó cũng chính là ẩn dụ cho thân phận bé nhỏ, lẻ loi của nàng.

Thu hẹp khoảng không gian, để tìm sự đồng điệu, thì trước mắt nàng lại hiện lên cảnh tan tác, chia lìa:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Nàng Kiều tự ví bản thân mình với những cánh hoa mỏng manh, yếu đuối, thân phận nổi trôi không biết đi đâu về đâu. Kết hợp với câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” càng cho thấy rõ hơn nửa thân phận bọt bèo, bấp bênh, vô định của nàng. Nàng lênh đênh giữa dòng đời xuôi ngược, không biết đâu là bến bờ.

Hình ảnh cỏ, đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Nguyễn Du, là sắc xanh non mơn mởn trong ngày hội xuân, đầy sức sống: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Nhưng đến đây sắc xanh ấy đâu còn nữa, mà thay vào đó là màu sắc của sự tàn tạ, héo úa: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Cỏ trong đôi mắt thấm đẫm tâm trạng của nàng Kiều “rầu rầu” tàn lụi, héo úa. Tác giả tả màu xanh của cỏ nối tiếp nhau đến tận chân trời, nhưng màu xanh ấy không sắc nét mà nhòe mờ, pha lẫn vào nhau, có phần đơn điệu. Phải chăng trong dòng nước mắt cô đơn và tủi cực mà cái nhìn của nàng đã khiến những màu xanh kia càng trở nên sầu bi, héo tàn hơn.

Một lần nữa nàng Kiều lắng lòng mình, để nghe những vang vọng của cuộc sống. Nhưng những thứ nàng nghe được chỉ là chuỗi âm thanh khủng khiếp

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Mặt biển đổ ập sóng gió đến bủa vây lấy nàng Kiều nhỏ bé. Đó cũng chính là dự cảm của nàng về số phận đầy bất hạnh, những giông tố đang đợi nàng phía trước. Kiều rơi vào trạng thái sợ hãi, âu lo đến tột cùng.

Khung cảnh được nhìn qua mắt Kiều đẫm màu sắc tâm trạng. Cảnh được Nguyễn Du miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, nỗi buồn diễn tả theo chiều tăng tiến từ man mác buồn, cô đơn cho đến âu lo, kinh sợ. Lúc này, Kiều rơi vào trạng thái tuyệt vọng và yếu đuối nhất, cũng bởi vậy trước những lời ngon ngọt của Sở Khanh nàng dễ dàng bị mắc lừa, để rồi nàng bị đẩy xuống bùn nhơ của cuộc đời: “Thanh y hai lượt thanh lâu hai lần”.

Bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã đem đến cho người đọc những câu thơ xuất sắc nhất diễn tả tâm trạng cô đơn, đau đớn đến tột cùng của nàng Kiều. Đồng thời ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo, niềm cảm thương sâu sắc mà Nguyễn Du dành cho người con gái hồng nhan bạc mệnh.

Bài giảng: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


kieu-o-lau-ngung-bich.jsp


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên