20+ Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (hay, ngắn gọn)
Tổng hợp Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải hay nhất, ngắn gọn giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
20+ Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (hay, ngắn gọn)
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 1
1, Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Thanh Hải: một trong những nhà thơ có nhiều cống hiến trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Bài thơ: được sáng tác trong những giờ phút cuối đời của tác giả; đặc biệt thể hiện khát vọng sống, tình yêu quê hương đất nước.
2, Thân bài
a, Cảnh sắc mùa xuân đất Huế
- Vẻ đẹp của thiên nhiên:
+ Hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh: màu sắc hài hoà, màu tím của hoa lục bình làm dòng sông thêm sức sống. Câu thơ “tĩnh” làm nổi bật cái “động” trong câu thơ thứ hai
+ Chim chiền chiện hót vang trời: tác giả thốt lên “ơi con chim chiền chiện” như bất ngờ, vui mừng trước tiếng hót tươi vui của loài chim báo mùa xuân về.
+ Hình ảnh chuyển đổi cảm xúc: tiếng chim hót là vô hình, tác giả cảm nhận đó là “từng hạt long lanh rơi” ⇒ ham muốn cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng tất cả các giác quan, ông xúc động bởi lúc này ông đang nằm trên giường bệnh, không thể đón mùa xuân như những năm tháng trước.
- Vẻ đẹp của con người:
+ Người cầm súng: người lính đón mùa xuân không quên nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
+ Người ra đồng: người nông dân tiếp tục lao động, không bỏ bê công việc hàng ngày
+ Hình ảnh “lộc”: lộc quanh lưng chiến sĩ ra trận là cành cây ngụy trang, đồng thời là niềm hân hoan trước những thắng lợi mới của cách mạng; lộc trải trên ruộng nương của nông dân là những cây trồng, báo hiệu mùa màng bội thu
⇒ Cặp hình ảnh song hành cùng tính từ “hối hả”, “xôn xao”: tạo nên một hình ảnh đất nước phát triển trong một mùa xuân mới
b, Mùa xuân của đất nước
- Từ mùa xuân của đất trời, tác giả nhớ đến lịch sử đất nước:
+ Lịch sử bốn nghìn năm “vất vả và gian lao”: những khó khăn mà đất nước gặp phải rất nhiều từ lúc dựng nước cho tới nay.
+ Ca ngợi đất nước anh hùng: tác giả so sánh đất nước như vì sao “cứ đi lên phía trước”, ca ngợi dân tộc kiên cường vượt qua bao khó khăn.
c, Khát vọng của tác giả
- Khát vọng cống hiến của tác giả: tác giả muốn hiến dâng cho đời:
+ Điệp từ “ta làm”: nhấn mạnh khát vọng của tác giả.
+ Những hình ảnh: con chim hót, một cành hoa, một nốt trầm - những hình ảnh nhỏ bé trong một tập thể rộng lớn, lặng lẽ cống hiến, góp sức của mình xây dựng đất nước.
+ Hình ảnh “nhập vào hòa ca”: cảm xúc mãnh liệt, tác giả muốn hòa mình vào tất cả mọi người đang cùng sống, chiến đấu và xây dựng đất nước.
+ Hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” đối xứng với mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước: mùa xuân là mùa đẹp nhất của tự nhiên, tuổi xuân cũng là tuổi đẹp nhất của con người, nhưng tác giả nhấn mạnh mỗi con người đều như một mùa xuân nhỏ điểm tô cho sức sống của đất nước
+ Sự mong muốn cống hiến một cách lặng lẽ: dù còn trẻ hay khi đã già
d, Khúc ca cống hiến cuối cùng của tác giả:
- Khổ thơ cuối bừng lên một tâm trạng tươi sáng: tác giả muốn ca những làn điệu dân ca Huế, nhắc tới những nhạc cụ truyền thống của dân tộc.
- Bài thơ kết thúc với câu hát ca ngợi vẻ đẹp đất nước: ngàn dặm tình, là đất nước của tình người, tình yêu tự do.
3, Kết bài:
Tổng kết giá trị bài thơ:
- Nội dung: bài thơ ca ngợi cuộc sống, thể hiện khát vọng sống, tình yêu thiên nhiên - đất nước - con người.
- Nghệ thuật: thể thơ 5 chữ nhịp nhàng, dễ thuộc; hình ảnh trong sáng, sử dụng nhiều phép lặp, điệp từ nhấn mạnh khao khát cống hiến của tác giả.
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 2
1. Mở bài
Giới thiệu bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của tác giả Thanh Hải.
2. Thân bài
a. Ý nghĩa nhan đề:
- Mùa đầu tiên trong một năm, với sự tươi đẹp, tràn trề sức sống của đất trời
- Nghĩa bóng chỉ phần tuổi trẻ đẹp đẽ nhất của mỗi con người, hoặc cũng là để chỉ phần đẹp đẽ nhất trong tâm hồn con người. Hai từ “mùa xuân” đứng bên cạnh từ “nho nhỏ” thể hiện thái độ khiêm nhường, và vô cùng chân thành của nhà thơ.
b. Khổ thơ đầu: mùa xuân của thiên nhiên
- Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, thanh mát với những gam màu sắc hài hòa cộng hưởng với âm thanh vang vọng rộn rã báo hiệu một mùa xuân rất sống động, trẻ trung.
- “Dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc” => Bút pháp chấm phá cổ điển, gợi mà không tả, mở ra khung cảnh mùa xuân xinh đẹp, thanh bình, tươi sáng vô cùng.
- Tiếng chim chiền chiện, thể hiện sự chuyển động linh hoạt, cùng sự náo nhiệt trong khung cảnh mùa xuân.
c. Khổ thơ thứ 2 và 3: Mùa xuân của đất nước
- Mùa xuân của đất nước được tạo nên từ hai nhiệm vụ cơ bản ấy là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của “mùa xuân người cầm súng” và nhiệm vụ xây dựng đất nước của “mùa xuân người ra đồng”.
- Hình ảnh “lộc”: tượng trưng cho những thành quả tốt đẹp, với người lính là sự tự do, độc lập, hạnh phúc của dân tộc, thì thành quả gắn với người lao động chính là sự ấm no, sung túc, giàu có, là sự đổi mới là sức xuân đang dâng trào mãnh liệt trên quê hương.
- Mùa xuân của đất nước đã được dựng lên từ cuộc đời, từ mùa xuân của biết bao nhiêu thế hệ đi trước, có vất vả, có gian lao.
- Phép so sánh “Đất nước như vì sao” còn thể hiện lòng tự hào, yêu thương của Thanh Hải với dải đất hình chữ S, nâng tầm Tổ quốc sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đẹp đẽ, rực rỡ và vĩ đại, khiến người người thiết tha ngưỡng mộ, tự hào.
d. Khổ thơ 4 và 5: Ước vọng của nhà thơ:
- Mong ước được làm chim, làm hoa, làm một nốt trầm để góp thêm vào vẻ đẹp của mùa xuân cuộc đời.
=> Ước vọng của nhà thơ Thanh Hải thật giản đơn, thật khiêm nhường, sự chân thành tuyệt đối, thể hiện lòng yêu cuộc đời tha thiết, mãnh liệt, thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của một thi nhân đã ở tuổi gần đất xa trời, nhưng tâm hồn vẫn trong trẻo và xuân sắc vô cùng.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận cá nhân.
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 3
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm “Mùa xuân nho nhỏ”
- Xuân luôn là đề tài bất tận của thi ca.
- Có rất nhiều nhà thơ viết rất hay, rất đẹp về mùa xuân trong đó có Thanh Hải với “Mùa xuân nho nhỏ”.
2. Thân bài:
* Hoàn cảnh ra đời của bài thơ
- Viết vào năm 1980, khi tác giả đang chống chọi từng giây từng phút trên giường bệnh.
* Phân tích cụ thể
- Khổ 1: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế với gam màu tươi sáng, âm thanh trong trẻo, bừng sức sống. Được thể hiện qua các hình ảnh: dòng sông xanh, bông hoa tím…
- Khổ 2: Vẫn là bức tranh thiên nhiên mùa xuân, tác giả gửi vào đó với niềm tin về tương lai rộng mở và sự vững chãi của đất nước. Cùng với hình ảnh người ra trận, người lên nương là không khí vui tươi, náo nhiệt chào đón xuân về.
- Khổ 3: Nhà thơ thể hiện tâm niệm tràn đầy nhiệt huyết nhưng cũng đầy triết lý nhân sinh của mình qua các hình ảnh: “mùa xuân nho nhỏ”, “tuổi hai mươi”, tóc bạc” cùng hành động “lặng lẽ” hiến dâng cho đời.
- Khổ 4: Từ tình yêu thiên nhiên nhà thơ đã nâng lên thành khúc ca ca ngợi Tổ quốc qua điệu hát “Nam ai”, “Nam bình” quen thuộc của xứ Huế.
3. Kết bài
- “Mùa xuân nho nhỏ” đã góp phần làm nên thành công của thơ ca dân tộc.
- Bài thơ vừa thể hiện sự tinh tế cùng những chiêm nghiệm của nhà thơ vừa truyền tình yêu quê hương, đất nước đến cho bạn đọc.
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 4
1. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề: Đề tài mùa xuân trong văn chương nghệ thuật
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
2. Thân bài
* Cảm nhận về khổ đầu bài thơ: "Mọc giữa dòng sông xanh... tôi hứng"
- Không gian quen thuộc của miền quê Việt Nam yên bình qua vài ba nét chấm phá: Một dòng sông xanh, một bông hoa tím, vài chú chim nhỏ
- Hình ảnh nổi bật trong bức tranh đó: Dòng sông xanh biếc đang miệt mài chảy trôi, giữa dòng điểm xuyết "bông hoa tím biếc"
- Động từ "mọc": Tạo ấn tượng mạnh
- Màu tím: Màu sắc được người dân xứ Huế sử dụng nhiều nhất nhưng ở đây là "tím biếc" - màu của đóa hoa lục bình đang dập dềnh trôi giữa dòng nước
- "Ơi con chim chiền chiện":
+ Tiếng gọi đầy tha thiết, thân thương, như tiếng gọi một con người
+ Chim chiền chiện: Loài chim quen thuộc của nông thôn Việt Nam, giọng hót cao vút
=> Tiếng hót của chúng báo hiệu mùa xuân về
- "Hót chi mà vang trời": Tiếng trách yêu của tác giả
- "Từng giọt long lanh rơi": Giọt mưa mùa xuân hay tiếng chim hót, là từng giọt mật của mùa xuân đang dần rơi xuống?
+ Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: Từ thính giác sang xúc giác, chính mùa xuân đã khiến cho mọi giác quan trong cơ thể người bừng tỉnh.
=> Bức tranh quê hương thôn dã rộn ràng, chân thực, đặc trưng vùng miền.
* Cảm nhận về khổ thứ hai bài thơ: "Mùa xuân người cầm súng... xôn xao"
- Hình ảnh người lính cầm súng với quanh mình là lá ngụy trang: Mùa xuân là những cành lộc non giắt trên lưng để che mắt kẻ thù
- "Lộc" đối với những người ở hậu phương: Là những mầm ngô, cây sắn, cây lúa mới đang trải ra khắp ruộng đồng, nương rẫy
=> Cả Tổ quốc đang "hối hả", sục sôi bước những bước chân đầu tiên đầy gian khổ trong quá trình xây dựng đất nước
+ Điệp từ "tất cả": Lời khẳng định của nhà thơ cả đất nước đang rộn ràng, tươi vui, phấn đấu xây dựng
- Nghệ thuật: So sánh, hệ thống từ láy gợi hình gợi cảm => Miêu tả không khí rạo rực, rộn ràng của cả dân tộc đang phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
* Cảm nhận về khổ thơ thứ 3 bài thơ: "Đất nước... phía trước"
- Nhịp thơ năm chữ không còn nhanh, dồn dập mà trở nên trầm lắng hơn
- Cả đoạn thơ như phút giây trầm lắng suy tưởng lại bốn ngàn năm lịch sử của dân tộc:
+ Những "vất vả và gian lao" của đất nước: Chiến tranh chống Mông - Nguyên, chống Pháp, chống Mỹ,...
+ "Đất nước như vì sao... phía trước": Dân tộc như vì sao sáng rực rỡ, luôn tiến về phía trước
- Nghệ thuật: So sánh "đất nước như vì sao" => Chiếu rạng, sáng soi, chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến về phía trước của văn minh và hạnh phúc.
* Cảm nhận về khổ thơ tiếp theo của bài thơ: "Ta làm... xao xuyến"
- Ước nguyện nhỏ bé của nhà thơ: Làm chú chim nhỏ, làm đóa hoa khoe sắc thắm, một nốt trầm lắng giữa bản nhạc...
= Nguyện vọng nhỏ nhoi nhưng mãnh liệt, cháy bỏng
- Đại từ "ta": Cái tôi chung của cả dân tộc, đại diện cho cái tôi chung của bao con người Việt Nam muốn hiến dâng cho cuộc đời, sự nghiệp dân tộc.
* Cảm nhận về khổ thơ cuối bài thơ: "Mùa xuân tôi xin hát.... đất Huế"
- Thanh Hải lại trở về làm người con xứ Huế với những điệu hát quen thuộc của quê hương: Nam ai, Nam bình,...
- Lời hát dành tặng cho mùa xuân, đất nước, quê hương, con người Việt Nam,...
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
- Nêu suy nghĩ, cảm xúc bài thơ.
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 5
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là thi phẩm đặc sắc cuối đời nhà thơ Thanh Hải
- Bài thơ là nỗi lòng của tác giả về yêu mến tha thiết với cuộc đời, đất nước mong muốn cống hiến góp mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân của đất nước, dân tộc
II. Thân bài
1. Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất nước và con người
- Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tưởng tượng của tác giả (lưu ý, tác giả viết bài thơ 11/1980- lúc này đang là mùa đông)
- Hình ảnh vẻ đẹp của mùa xuân xứ Huế được khắc họa qua: hoa tím, sông xanh, bầu trời cao rộng
- Âm thanh tiếng chim chiền chiện báo xuân về như kết tinh thành “từng giọt long lanh”
- Vẻ đẹp của mùa xuân thể hiện qua góc nhìn của tác giả cũng như tấm lòng trân trọng của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời
- Lời trò chuyện thân mật cùng tự nhiên và sự trân trọng sự sống được thể hiện qua hành động “đưa tay hứng” của tác giả
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
- Giọt long lanh được hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ chỗ âm thanh được cảm nhận bằng thính giác chuyển sang cảm nhận bằng thị giác và xúc giác “đưa tay hứng”
→ Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên đất trời với tâm thế đón nhận trân trọng
2. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất nước
- Sáng tạo của tác giả thể hiện qua việc dùng từ “lộc” và hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng”
+ Hình ảnh lộc xuân trên “nương mạ” là hình ảnh đẹp về cuộc sống lao động kiến thiết đất nước của lực lượng sản xuất
+ Hình ảnh người cầm súng trên đường ra trận mang trên vai cành lá ngụy trang, và niềm tin vào ngày mai hòa bình
+ Tác giả sử dụng hai từ láy “hối hả” và “xôn xao” để chỉ nhịp sống lao động khẩn trương vội vã nhưng nhộn nhịp, vui vẻ kết hợp hài hòa với nhau.
- Nhà thơ tin tưởng và tự hào vào tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ.
+ Đất nước được so sánh với những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ khẳng định sự trường tồn bền vững của đất nước
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
+ Tác giả không quên nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng
+ Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ
→ Sự lạc quan tin tưởng của nhà thơ ca ngợi sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc
3. Ước nguyện chân thành, giản dị được cống hiến của tác giả
- Tác giả thể hiện tâm nguyện tha thiết muốn cống hiến qua những hình ảnh đẹp, thuần phác
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
+ Điệp từ “ta” để khẳng định đó là tâm niệm chân thành của nhà thơ, cũng là khát vọng cống hiến cho đời chung của nhiều người
+ Các từ láy “lặng lẽ”, “nho nhỏ” là cách nói khiêm tốn, chân thành của nhân cách sống cao đẹp khi hướng tới việc góp vào lợi ích chung của dân tộc
- Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ khi thể hiện thiết tha, cảm động khát vọng được cống hiến và sống ý nghĩa.
+ Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ trở nên thiết tha, lắng đọng
+ Dù đang nằm trên giường bệnh nhưng tác giả vẫn tha thiết với cuộc đời, mong muốn sống đẹp và hữu ích, tận hiến cho cuộc đời chung
→ Với niềm yêu đời tha thiết, tác giả vượt lên trên hoàn cảnh về bệnh tật mong muốn da diết được sống có ích bằng tất cả sức trẻ của mình
4. Ngợi ca quê hương đất nước qua điệu hát dân ca Huế
- Cả bài thơ giống như làn điệu dân ca Huế mượt mà, trữ tình và sâu lắng
+ Bài thơ khép lại với điệu Nam ai, Nam bình của xứ Huế để ca ngợi vẻ đẹp và nỗi niềm của người con xứ Huế
+ Khúc ca còn ngân vang mãi từ tâm hồn của người lạc quan, yêu đời, khát khao sống có ích
III. Kết bài
+ Bài thơ là tiếng lòng của tác giả trước cuộc đời, đất nước.
+ Với giọng trầm lắng có lúc nhộn nhịp, hối hả, bài thơ không những diễn đạt được vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước mà còn thể hiện được sự mê say với cuộc sống và khát vọng chân thành đẹp đẽ của tác giả
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 6
1. Mở bài
- Vài nét về nhà thơ Thanh Hải: Một nhà thơ có thể nói là đã cống hiến cả đời mình cho cách mạng.
- Giới thiệu về hoàn cảnh ra đời đặc biệt của bài thơ: được viết trong những ngày cuối cùng Thanh Hải nằm trên giường bệnh, cả cuộc đời ông đã dùng để cống hiến cho cách mạng, giờ đây ông lại cất lên niềm khát khao, niềm mong mỏi có thể tiếp tục cống hiến “mùa xuân nho nhỏ” cho cuộc đời này.
2. Thân bài
a. Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất nước (Khổ 1)
- Nhà thơ vẽ ra trước mắt độc giả bức tranh thiên nhiên mùa xuân với:
+ Không gian: cao rộng của bầu trời, dài rộng của “dòng sông xanh”
+ Âm thanh: âm thanh rộn rã vui tươi của “chim chiền chiện”
+ Màu sắc: xanh của dòng sông, tím của hoa
⇒ Nghệ thuật đảo cú pháp: không gian cao rộng, màu sắc tươi sáng và âm thanh rộn ràng như thiết tha mời gọi níu giữ con người ở lại với cuộc sống, với mùa xuân xứ Huế tươi đẹp này
- Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên:
+ Nhà thơ có cái nhìn trìu mến với cảnh vật
+ Đưa tay ra “hứng” “giọt long lanh”: là giọt sương, cũng có thể là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác chỉ tiếng chim “hót vang trời”
⇒ Cảm xúc ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, khao khát hòa mình với thiên nhiên đất trời. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ, nói về giọt long lanh và tiếng chim thực chất là nói về những điều tinh túy, đẹp đẽ của cuộc sống con người.
b. Cảm xúc về mùa xuân của đất nước và con người (khổ 2 + 3)
+ Mùa xuân của đất nước gắn với hình ảnh người cầm súng (những người làm nhiệm vụ chiến đấu) và hình ảnh “người ra đồng”, “lộc”- niềm hi vọng tươi sáng đang theo họ đi khắp nơi hay hay chính họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước.
+ Nhịp độ khẩn trương : “Tất cả như…xôn xao” - Công cuộc xây dựng mùa xuân của đất nước diễn ra khẩn trương, sôi động.
⇒ Nghệ thuật điệp cấu trúc, từ láy…=> Nhà thơ như reo vui trước tinh thần lao động khẩn trương của con người làm nên mùa xuân của đất nước.
+ Nhà thơ nhắc lại về lịch sử bốn nghìn năm “vất vả và gian lao” của đất nước đầy tự hào, đồng thời tin tưởng vào tương lai tươi đẹp của đất nước mai sau bằng hình ảnh so sánh đẹp mang nhiều ý nghĩa “Đất nước như vì sao…phía trước”.
c. Ước nguyện của tác giả
Sự chuyển đổi ngôi thứ "tôi"-> "ta"
=> Nói lên quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng
- Điệp ngữ "ta làm", nói lên sự quyết tâm, lối liệt kê :con chim, cành hoa, nốt nhạc -> Yếu tố tạo nên mùa xuân
- Nốt nhạc trầm là biểu tượng cho sự cống hiến thầm lặng
=> Liên tưởng anh thanh niên trong "Lặng lẽ Sapa", chị quét rác trong "Tiếng chổi tre"
- Giải thích tựa bài thơ
- Điệp ngữ "dù là"
=> Như lời nhắn nhủ giữa người đi trước và người đi sau
- Lối hoán dụ người tóc bạc, tuổi 20 -> tuổi trẻ -> tuổi già -> Sự cống hiến không phân biệt tuổi tác, thứ bậc, giới tính, giai cấp.
d. Lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế
+ Giai điệu được cất lên chính là điệu hát truyền thống của xứ Huế mộng mơ
+ “Mùa xuân ta xin hát”: không chỉ mở ra không gian nó còn mở ra niềm tự hào về lối sống nghĩa tình của cha ông.
=> Bài thơ thể hiện lòng yêu thiên nhiên, đất nước con người, sự cống hiến thầm lặng, mối quan hệ cá nhân và cộng đồng.
3. Kết bài
+ Khái quát những đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: Thể thơ năm chữ, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, nhiều so sánh và ẩn dụ sáng tạo.
+ Liên hệ trình bày khát vọng cống hiến của thế hệ trẻ cho cuộc đời.
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 7
I. Mở bài phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ:
- Giới thiệu vài nét về tác giả Thanh Hải và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
+ Thanh Hải (1930-1980) là một nhà thơ hiện đại yêu nước, yêu cách mạng, có công xây dựng nền văn hóa cách mạng ở Miền Nam trong giai đoạn đầu
+ Mùa xuân nho nhỏ (1980) là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của ông được viết khi ông đang nằm trên giường bệnh.
- Dẫn dắt vấn đề: phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
II. Thân bài phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ:
1. Khái quát về hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
+ Bài thơ được Thanh Hải viết vào tháng 11 mùa đông năm 1980, khi còn nằm trên giường bệnh, một tháng trước lúc qua đời vì bệnh hiểm nghèo.
+ Bài thơ là nỗi lòng của tác giả về yêu mến tha thiết với cuộc đời, đất nước mong muốn cống hiến góp mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân của đất nước, dân tộc.
2.Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ:
a. Phân tích cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất trời (khổ thơ 1 bài Mùa xuân nho nhỏ):
- Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp:
+ Cảnh thiên nhiên nhẹ nhàng, nên thơ, màu sắc hài hòa gợi cảm : hoa tím, sông xanh, bầu trời cao rộng,…
+ Âm thanh : tiếng chim chiền chiện báo xuân về như kết tinh thành “từng giọt long lanh”
+ Nghệ thuật đảo từ “mọc“ và từ “một” tạo sự đột ngột để nói lên được vẻ đẹp và sức sống của hoa.
- Cảm xúc và tấm lòng trân trọng của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời:
+ “Giọt long lanh” – hình ảnh thơ đa nghĩa, ở đây được hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ chỗ âm thanh được cảm nhận bằng thính giác chuyển sang cảm nhận bằng thị giác và xúc giác “đưa tay hứng”.
+ Diễn tả cảm xúc say mê, ngây ngất, sự nâng niu trân trọng vẻ đẹp đất trời.
b. Phân tích cảm xúc trước mùa xuân của đất nước (khổ thơ 2, 3 bài Mùa xuân nho nhỏ):
+ Sáng tạo của tác giả thể hiện qua việc dùng từ “lộc” và hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng”, “lộc giắt quanh lưng”, “lộc trải dài nương mạ”. Thể hiện sức sống mạnh mẽ, khí thế đi lên của dân tộc.
+ Hình ảnh lộc xuân trên “nương mạ” là hình ảnh đẹp về cuộc sống lao động kiến thiết đất nước của lực lượng sản xuất
+ Hình ảnh người cầm súng trên đường ra trận mang trên vai cành lá ngụy trang, và niềm tin vào ngày mai hòa bình
+ Các từ láy “hối hả”, “xôn xao”, điệp từ “tất cả” với nhịp thơ nhanh, gấp, để chỉ nhịp sống lao động khẩn trương, tưng bừng, niềm vui rạo rực lòng người.
+ So sánh “Đất nước như vì sao”: nâng đất nước lên tầm cao mới đẹp đẽ, kì vĩ khẳng định sự trường tồn bền vững
+ Nhà thơ tin tưởng và tự hào vào tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ.
+ Tác giả không quên nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng
+ Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ.
+ Niềm tự hào đối với quê hương, đất nước mình, lạc quan tin tưởng vào sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc.
c. Phân tích ước nguyện chân thành, giản dị được cống hiến của tác giả (khổ thơ 4 và 5 bài Mùa xuân nho nhỏ)
+ “Ta làm” : khẳng định sự tự nguyện mang niềm vui đến cho cuộc đời.
+ “Ta làm con chim hót”, “làm cành hoa”, “một nốt trầm”: tác giả khao khát hóa thân thành những thứ bình dị để làm đẹp cho cuộc đời.
+ Đại từ “Ta”: vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều: vừa diễn tả niềm riêng và cái chung.
+ Đó vừa là tâm niệm chân thành của nhà thơ và cũng là khát vọng cống hiến cho đời chung của nhiều người, muốn góp sức mình làm nên mùa xuân đẹp tươi của thiên nhiên, của tạo vật của đất nước.
+ Các từ láy “lặng lẽ”, “nho nhỏ” là cách nói khiêm tốn hướng tới việc góp vào lợi ích chung của dân tộc một cách âm thầm và lặng lẽ.
+ Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ khi thể hiện thiết tha, cảm động khát vọng được cống hiến và sống ý nghĩa.
+ Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ trở nên thiết tha, lắng đọng: “Dù là tuổi hai mươi / Dù là khi tóc bạc”. Sự cống hiến không kể tuổi tác.
+ Dù đang nằm trên giường bệnh nhưng tác giả vẫn tha thiết với cuộc đời, tâm niệm tràn đầy nhiệt huyết, mong muốn sống đẹp và hữu ích, tận hiến cho cuộc đời chung.
d. Phân tích lời ngợi ca quê hương đất nước qua điệu hát dân ca Huế (khổ thơ cuối bài Mùa xuân nho nhỏ)
+ Cách gieo vần “bình, minh, tình” : thể hiện chất nhạc dân ca xứ Huế.
+ Cách gieo vần phối âm khá độc đáo : câu đầu và câu cuối kết thúc bằng hai thanh trắc hát, Huế.
+ Cả bài thơ giống như làn điệu dân ca Huế mượt mà, trữ tình và sâu lắng
+ Bài thơ khép lại với điệu Nam ai, Nam bình của xứ Huế để ca ngợi vẻ đẹp và nỗi niềm của người con xứ Huế
+ Khúc ca còn ngân vang mãi từ tâm hồn của người lạc quan, yêu đời, khát khao sống có ích.
e. Phân tích về đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ:
+ Thể thơ năm chữ, gần với các làn điệu dân ca.
+ Bài thơ giàu nhạc điệu, âm hưởng nhẹ nhàng, thiết tha
+ Hình ảnh tự nhiên, giản dị kết hợp với hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng khái quát.
+ Câu từ chặt chẽ, sự phát triển tự nhiên của hình ảnh mùa xuân với các phép tu từ đặc sắc.
III. Kết bài phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ: Khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 8
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả Thanh Hải và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
II. Thân bài:
a. Khổ thơ thứ nhất
Vẻ đẹp mùa xuân qua cảm nhận của tác giả:
Bông hoa tím biếc, con chim chiền chiện hót vang trời, tác giả cô đọng giọng hót của con chiền chiện thành giọt long lanh và giơ tay ra để cảm nhận.
Vẻ đẹp mùa xuân qua cách cảm của tác giả trở nên đẹp đẽ, nhiều màu sắc và đáng yêu, đáng mến.
b. Khổ thơ thứ hai
Ở khổ thơ này, tác giả cảm nhận về vẻ đẹp của con người lao động:
Hình ảnh con người lao động trong mùa xuân gắn liền với với màu xanh của chồi lộc, một màu sắc tràn đầy sức sống, cả đất trời như được sinh sôi nảy nở.
c. Khổ thơ thứ ba
Sau khi cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên và con người, tác giả cảm nhận về mùa xuân của cả đất nước.
Đất nước tuy còn nhiều gian lao, khổ cực nhưng vẫn hướng về phía trước với niềm phấn khởi, hào hứng.
d. Ba khổ thơ cuối – Ước nguyện của nhà thơ
Ước muốn của tác giả: trở thành con chim, làm cành hoa để nhập vào bản hòa tấu chung của đất nước, của dân tộc một giai điệu trầm ấm.
Khao khát cống hiến của tác giả: muốn được dâng hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước dù là khi còn trẻ hay lúc về già.
Tâm trạng của tác giả vào mùa xuân: hát vang câu hát Nam ai, Nam bình để hòa chung không khí vui vẻ cho cả dân tộc.
III. Kết bài: Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 9
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả Thanh Hải (tiểu sử, những đặc điểm chủ yếu về con người, các sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,…)
Giới thiệu khái quát về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” (xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ,…)
2. Thân bài
a. Cảm xúc của nhà thơ trước khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên
- Bức tranh mùa xuân:
Nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ “mọc” lên đầu câu thơ đã góp phần tô đậm sức sống của bông hoa ngay giữa dòng sông.
Hình ảnh chọn lọc, giàu sức gợi và đậm chất xứ Huế, đó là “dòng sông xanh”, “bông hoa tím”, “chim chiền chiền”.
Các thán từ “ơi”, “chi” tác giả đã gợi nên một chất giọng ngọt ngào, thân thương, gần gũi.
Một bức tranh mùa xuân hài hòa, tươi sáng với hai gam màu tươi tắn là sắc xanh, sắc tím cùng tiếng chim chiền chiện hót vang cả nền trời
- Cảm xúc của nhà thơ:
Hình ảnh “giọt long lanh rơi” là một hình ảnh thơ độc đáo với nhiều cách hiểu khác nhau: Là giọt mưa của mùa xuân, là những giọt sương buổi sớm long lanh trong nắng mai và cũng có thể đó là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện.
Điệp từ “tôi” được lặp lại hai lần đi liền với hành động “hứng” đã cho chúng ta thấy rõ thái độ trân trọng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
b. Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân của đất nước
- Bức tranh mùa xuân của đất nước:
Hình ảnh “người cầm súng” và hình ảnh “người ra đồng” – hai hình ảnh biểu tượng cho hai nhiệm vụ quan trọng và cần thiết của đất nước ta là chiến đấu ở tiền tuyến và lao động, sản xuất ở hậu phương.
Điệp từ “mùa xuân” và điệp từ “lộc”: gợi lên quang cảnh mùa xuân tươi đẹp và cả thành quả trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta.
Điệp từ “tất cả” luôn đi liền với các từ láy “hối hả”, “xôn xao”: tạo nhịp thơ t nhanh, dồn dập, từ đó gợi lên một nhịp sống sôi nổi, sống động, khẩn trường trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước
- Cảm xúc của nhà thơ:
Hai tính từ “vất vả” và “gian lao” đi liền kề nhau đã khái quát chặng đường lịch sử “bốn ngàn năm” của đất nước, của dân tộc
Hình ảnh so sánh độc đáo “đất nước như vì sao”:
Gợi lên hình ảnh dân tộc Việt Nam trong suốt chặng dài lịch sử đã từ trong đêm tối của nô lệ, xiềng xích để tỏa sáng, giành độc lập
Thể hiện niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, rộng mở, tràn đầy khí thế.
c. Những khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp, đáng trân trọng của tác giả
- Lẽ sống cao đẹp mà Thanh Hải luôn muốn theo đuổi đó chính là cống hiến hết mình cho đất nước, cho cuộc đời.
Đại từ “ta” cùng điệp cấu trúc “ta làm…”, “ta nhập…” được đặt ở đầu ba câu thơ làm cho nhịp thơ trở nên nhẹ nhàng, sâu lắng và dường như câu thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ của nhà thơ về ước nguyện được hóa thân, hiến dâng cho quê hương, đất nước.
Các hình ảnh “con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm” – những hình ảnh giản dị, gần gũi nhưng giàu tính hàm súc và ý nghĩa biểu tượng đã góp phần làm bật nổi ước nguyện được hòa mình vào cộng đồng, vào cái chung, vào đất nước.
- Lẽ sống cao đẹp của nhà thơ được nâng tầm thành lí tưởng sống cao đẹp trong khổ thơ tiếp theo:
Tác giả chỉ xin được làm “một mùa xuân nho nhỏ” để góp phần làm đẹp cho mùa xuân lớn của dân tộc
Từ láy “nho nhỏ” cùng với tình từ “lặng lẽ” cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ: hiến dâng cho đời một cách tự nguyện, cho đi không đòi hỏi sự nhận lại.
Đó chính là một lối sống cao đẹp, vô tư, trong sáng nhưng cũng rất giản dị và khiêm tốn của nhà thơ.
Nghệ thuật điệp cấu trúc “Dù là … Dù là …” và hình ảnh “tuổi hai mươi” – “khi tóc bạc” khiến cho lời thơ như một lời tự hứa, tự nhủ với chính mình và đó cũng chính là lời khẳng định của nhà thơ về sự trường tồn của lí tưởng sống mà mình theo đuổi.
Bài thơ khép lại trong âm thanh ngọt ngào, du dương, trầm bổng của làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế: gợi lên những mất mát, gian khổ mà dân tộc đã trải qua và cả những giai điệu về cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc, của quê hương, đất nước.
3. Kết bài: Khái quát lại những nét đặc sắc về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của bài thơ và nêu cảm nghĩ của bản thân.
Dàn ý bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 10
I) Mở bài: Giới thiệu về nhà thơ Thanh Hải, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
II) Thân bài
1. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trên quê hương, đất nước:
a. Khổ 1
-Chỉ qua sáu câu thơ đầu của bài thơ, tác giả Thanh Hải vẽ nên một bức tranh xuân xứ Huế tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
+ Màu sắc, đường nét trong tranh tươi tắn, hài hòa: “Mọc giữa dòng sông xanh / Một bông hoa tím biếc”
+ Màu tím biếc nổi bật trên sắc xanh hiền hòa trải dài đến vô tận của dòng sông tạo nên một bức tranh hài hòa, đậm đà chất Huế.
+ Động từ “mọc” diễn tả sự vận động, sinh sôi được đảo lên đầu dòng thơ, khổ thơ và cả bài thơ → nhấn mạnh một sức sống mạnh mẽ, ẩn chứa bông hoa bé nhỏ kia đang trỗi dậy khoe sắc tỏa hương.
+ Không gian rộng mở, phóng khoáng từ dòng sông đến bầu trời.
+ Cách tạo hình và phối màu ấn tượng khiến cảnh hiện lên trong trẻo và rất đỗi thân thương, gần gũi.
-Bức tranh xuân thêm sống động khi xuất hiện âm thanh tiếng chim chiền chiện.
+ Từ cảm thán “ơi” bộc lộ nỗi xúc động, niềm vui ngây ngất của nhà thơ khi lắng nghe tiếng chim chiền chiện vang lên giữa không gian mùa xuân: “Ơi con chim chiền chiện /Hót chi mà vang trời/Từng giọt long lanh rơi/Tôi đưa tay tôi hứng”
+ “Đưa tay… hứng” – một cử chỉ bình dị nhưng ẩn chứa sự trân trọng, niềm say sưa ngây ngất của nhà thơ khi muốn hứng lấy giọt long lanh tuyệt diệu kia.
+ “Giọt long lanh” là sự liên tưởng đầy chất thơ thể hiện sự sáng tạo của Thanh Hải.
+ Có thể “giọt long lanh” là giọt sương sớm mai còn đọng trên cành non cỏ biếc hay là giọt mưa xuân tiếp thêm nhựa sống cho cây cối tốt tươi.
+ Cũng có thể đó là giọt âm thanh, là tiếng hót kì diệu của chú chim trong cảm nhận rất riêng của tác giả. Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khiến cho tiếng hót kì diệu của chú chim thành một thể lỏng. Giọt âm thanh có hình khối, màu sắc long lanh, đẹp đẽ trong cảm nhận rất riêng của nhà thơ. Giọt âm thanh ấy thả mình giữa không gian mùa xuân, thổi bừng sức sống cho cảnh vật.
b. Khổ 2
+ Hình ảnh sóng đôi “người cầm súng” và “người ra đồng” biểu trưng cho hai nhiệm vụ trọng tâm của đất nước thời kì đó: bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
+ Hình ảnh trùng điệp “lộc giắt đầy”, “lộc trải dài” → mùa xuân đất trời trải dài trong màu xanh bất tận.
+ “Lộc” vừa là hình ảnh tả thực: là chồi non, cành biếc của mùa xuân, vừa có ý nghĩa ẩn dụ chỉ sức sống, vươn lên phát triển, những thành quả, hạnh phúc, là những may mắn tốt lành. Chữ “lộc” được nhắc đến 2 lần gắn với các động từ “giắt đầy”, “trải dài” tạo cảm nhận sức sống mùa xuân đang vươn theo bước chân con người vừa tỏa ra từ những con người đang gieo cấy mùa xuân, bảo vệ đất nước
+ “Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao”: Điệp ngữ và từ láy tạo nhịp điệu vui tươi, mạnh mẽ, khẩn trương đầy phấn chấn. Con người dạt dào niềm tin yêu, hòa vào nhịp sống của dân tộc.
c. Khổ 3
+ Nhìn về quá khứ “bốn nghìn năm” của dân tộc, tác giả khái quát “vất vả và gian lao” cùng với nhịp thơ chậm, giọng trầm gợi hình ảnh đất nước vừa đau thương vừa tự hào. Đó là cái nhìn sâu sắc và tự hào về Tổ quốc của tác giả.
+ Nhìn về tương lai của đất nước, tác giả so sánh “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Điều đó thể hiện sự ngợi ca vẻ đẹp và sự trường tồn của đất nước đang hướng về tương lai; từ “cứ” thể hiện ý chí, quyết tâm sắt đá góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
+ Tác giả thể hiện niềm cảm phục, tự hào, tin tưởng mãnh liệt vào sức sống bền bỉ, vững vàng của đất nước, vào khí thế đi lên của dân tộc.
2. Ước nguyện tha thiết, chân thành của nhà thơ trước mùa xuân (3 khổ thơ cuối)
a. Khổ 4: Tâm nguyện của nhà thơ là khát vọng hòa nhập và dâng hiến cho đời.
+ Những hình ảnh “một con chim – một cành hoa” được lặp lại → tạo nên sự ứng đối chặt chẽ thể hiện ước nguyện được cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên.
+ “Một nốt trầm xao xuyến” trong bản hòa ca đất nước là hình ảnh ẩn dụ gợi sự dâng hiến khiêm nhường nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người.
+ Điệp ngữ “ta làm”→ ước nguyện được cống hiến chân thành và tha thiết.
+ Đại từ “ta” tạo được sắc thái trang trọng, thiêng liêng, thể hiện nguyện ước cống hiến đó là khát vọng chung của nhiều người → thể hiện sự chuyển biến trong mạch cảm xúc của bài thơ
c. Khổ 5:
+ “Một mùa xuân nho nhỏ”: ẩn dụ – biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người → thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân – nghĩa là sống đẹp, với sức sống, sự tươi trẻ của mình nhưng lại rất khiêm nhường, chỉ là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của đất nước.
+ Đảo ngữ “lặng lẽ dâng” cho thấy cách cống hiến không ồn ào, khoa trương mà âm thầm, bền bỉ.
+ Hình ảnh hoán dụ và điệp ngữ “dù là” → cống hiến trọn đời, bất chấp thời gian và tuổi tác
+ Dù nhà thơ đang ở những ngày cuối cùng của cuộc đời vẫn khao khát, vẫn tha thiết được sống đẹp, được cống hiến cho đất nước.
d. Khổ 6:
+ Bài thơ kết thúc bằng một âm điệu dân ca xứ Huế mênh mang và thiết tha, biểu lộ niềm tin yêu của tác giả vào cuộc đời, vào đất nước: “Câu Nam ai Nam bình” → trong câu ca dịu dàng, trìu mến vẫn có cả man mác buồn thương nhưng trào dâng lên là một cảm xúc tin yêu thiết tha.
+ Điệp ngữ “nước non ngàn dặm” đã khẳng định sự bao la, rộng lớn của đất nước, vẻ đẹp nên thơ và tình người đằm thắm của quê hương xứ Huế.
+ Nhịp thơ chậm dần, sâu lắng → ý nguyện của người con tha thiết với vẻ đẹp quê hương đất nước mình.
+ Mùa xuân nho nhỏ thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho Tổ quốc, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của đất nước.
III) Kết bài: Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 1
Trong bài thơ Con chim chiếc lá, Tố Hữu có viết: “Nếu là con chim, con chim phải hót/ Nếu là chiếc lá chiếc lá phải xanh/ Lẽ nào vay mà không trả/Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Và lẽ sống cao đẹp ấy cũng được nhà thơ Thanh Hải thể hiện thật cảm động trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Bài thơ được viết vào trước lúc nhà thơ giã biệt cuộc đời chỉ khoảng một tháng, để thể hiện niềm yêu thiết tha với cuộc sống, đất nước, quê hương và ước nguyện cao đẹp của tác giả.
Về nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ”, được hiểu theo nghĩa thực là nói về mùa đầu tiên trong một năm, với sự tươi đẹp, tràn trề sức sống của đất trời, là cái mùa mà ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cả một đời trăn trở, nuối tiếc. Thế nhưng ý nghĩa của nhan đề không chỉ dừng lại ở nghĩa thực mà ở đây nó còn chỉ phần tuổi trẻ đẹp đẽ nhất của mỗi con người, hoặc cũng là để chỉ phần đẹp đẽ nhất trong tâm hồn con người, cùng với những khao khát được dâng hiến được dâng hiến cái mùa xuân, phần đẹp đẽ nhất cuộc đời của mình cho mùa xuân lớn của cuộc đời. Hai từ “mùa xuân” đứng bên cạnh từ “nho nhỏ” thể hiện thái độ khiêm nhường, và vô cùng chân thành của nhà thơ Thanh Hải, làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay hứng về”
Ở khổ thơ đầu ta thấy hiện lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, thanh mát với những gam màu sắc hài hòa cộng hưởng với âm thanh vang vọng rộn rã báo hiệu một mùa xuân rất sống động, trẻ trung. Bằng bút pháp chấm phá chỉ gợi chứ không tả thường thấy trong thi ca Việt Nam, nhà thơ Thanh Hải đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên mùa xuân chỉ bằng một “dòng sông xanh” mang lại cảm giác hiền hòa, trong trẻo, thanh khiết của mùa xuân, cùng với “một bông hoa tím biếc”, khác với vẻ buồn mộng mơ thường thấy, thì màu “tím biếc” trong bài thơ của Thanh Hải lại khắc họa một cách rõ nét về sự thay đổi của cảnh một thiên nhiên, sự biến đổi của đất trời, từ màu xanh sang màu tím, nhấn mạnh sự rực rỡ, thanh nhã khi mùa xuân đến. Bông hoa ấy cũng là đại diện cho muôn hoa đang khoe sắc, vẽ ra một khung cảnh thanh bình và tĩnh lặng vô cùng. Và giữa một dòng sông xanh, sông xanh vì màu nước hay vì màu trời, cũng đều gợi ra một khoảng trời quang đãng, trong xanh. Và trên đó người ta nhìn thấy chú chim chiền chiện bay lượn, nhào lộn vẽ ra những nét rất vui nhộn, rất thần tình, giữa khung cảnh nên thơ, nước xanh biếc, hoa tím biếc, trời thăm thẳm thì tiếng hót của chú chim lại càng trở nên khoáng đạt, rộng rãi và vang vọng hơn. Thể hiện sức sống mãnh liệt, tràn ngập đang lan tràn trong không gian, đến mức âm thanh ấy dường như thánh thót đọng lại thành từng giọt “long lanh” trong tâm hồn tác giả, khiến ông xúc động muốn đưa đôi tay hứng về, như hứng lấy cái mùa xuân tươi đẹp của xứ Huế. Và trước sự tươi đẹp của bức tranh nhà thơ đã bộc lộ cảm xúc của mình một cách rất mãnh liệt bằng từ cảm thán “Ơi” thể hiện sự hào hứng, phiêu bồng cùng chú chim nhỏ giữa khung cảnh mùa xuân, chứa một xúc cảm gì đó rất lãng mạn, rất thi sĩ.
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Vững vàng phía trước”
Sau những vần thơ đầy cảm xúc vui tươi về mùa xuân của thiên nhiên, nhà thơ Thanh Hải bắt đầu nói về mùa xuân của đất nước với những phương diện khác nhau. Có thể thấy rõ rằng mùa xuân của đất nước được tạo nên từ hai nhiệm vụ cơ bản ấy là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của “mùa xuân người cầm súng” và nhiệm vụ xây dựng đất nước của “mùa xuân người ra đồng”. Hình ảnh ẩn dụ “lộc” và phép điệp từ này, khiến người đọc liên tưởng đến khí thế chiến đấu và lao động khẩn trương, hăng hái trên mảnh đất quê hương. Đối với người lính chiến hình ảnh “lộc” trước hết là để chỉ những nhành cây ngụy trang đeo trên lưng người lính, thứ hai chính là để chỉ thành quả cách mạng vẻ vang mà người lính đi chiến đấu bao năm đạt được. Còn đối với người lao động, thì “lộc” chính là để chỉ những thành quả quý giá trong suốt quá trình lao động sản xuất. Nếu thành quả gắn với người lính là sự tự do, độc lập, hạnh phúc của dân tộc, thì thành quả gắn với người lao động chính là sự ấm no, sung túc, giàu có, là sự đổi mới là sức xuân đang dâng trào mãnh liệt trên quê hương. Có thể nói rằng chiến đấu và xây dựng đất nước đã là hai nhiệm vụ, hai yếu tố song hành cùng với nhau trong suốt hơn 4000 năm văn hiến lịch sử của dân tộc. Mùa xuân của đất nước đã được dựng lên từ cuộc đời từ mùa xuân của biết bao nhiêu thế hệ đi trước, có vất vả, có gian lao, của những con người không ai nhớ mặt đặt tên, của biết bao trai gái, già trẻ. Để cuối cùng ta có một đất nước xuân sắc, trường tồn sáng mãi như những vì sao, vững vàng tiến bước về phía trước, một đất nước đẹp hiên ngang, rực rỡ huy hoàng, một đất nước của những con người đảm đang, trung hậu, kiên cường. Bên cạnh đó phép so sánh “Đất nước như vì sao” còn thể hiện lòng tự hào, yêu thương của Thanh Hải với dải đất hình chữ S, nâng tầm Tổ quốc sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đẹp đẽ, rực rỡ và vĩ đại, khiến người người thiết tha ngưỡng mộ, tự hào.
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Một nốt trầm xao xuyến
Ta hát trong hoà ca
Mùa xuân, mùa xuân
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Mùa xuân mùa xuân”
Ở hai khổ thơ trên chính là ước nguyện là tấm lòng khao khát dâng hiến cho cuộc đời của nhà thơ Thanh Hải, mà có lẽ đâu đó trong bài hát Tự nguyện ta đã từng nghe có những câu rất hay “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm Là người, tôi sẽ chết cho quê hương’, cũng mang cùng một tinh thần, một ý thức như của tác giả Thanh Hải. Nhà thơ muốn làm chú chim để thỏa sức bay lượn, tặng cho đời những tiếng hót vui tai, những âm thanh tuyệt diệu, tô điểm thêm cho bức tranh cuộc sống muôn màu. Nhà thơ muốn làm một nhành hoa để cho đời thứ hương sắc trong trẻo như bông hoa tím biếc, mọc giữa dòng sông xanh, làm cho cuộc đời, làm cho mùa xuân thêm đẹp đẽ, tươi sáng hơn. Và dẫu là cánh chim hay nhành hoa thì đều là những vật vô cùng nhỏ bé, là một “nốt trầm xao xuyến” hòa vào bản giao hưởng mùa xuân, là một mùa xuân nho nhỏ góp vào trong mùa xuân lớn của cuộc đời của đất nước. Ước vọng của nhà thơ Thanh Hải thật giản đơn, thật khiêm nhường, sự chân thành tuyệt đối, thể hiện lòng yêu cuộc đời tha thiết, mãnh liệt, thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của một thi nhân đã ở tuổi gần đất xa trời, nhưng tâm hồn vẫn trong trẻo và xuân sắc vô cùng.
“Mùa xuân tôi xin hát
Khúc Nam Ai Nam Bằng
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Đất Huế nhịp phách tiền”
Từ ước nguyện khiêm nhường, nhưng cháy bỏng và mãnh liệt của mình Thanh Hải đã khép lại bài thơ bằng những vần thơ gợi nhớ về xứ Huế mộng mơ. Tâm hồn thi sĩ được cất cao, bay bổng, yêu đời hơn nhờ những điệu Nam Ai, Nam Bình ngọt ngào, thể hiện sự gắn bó tha thiết với mảnh đất quê hương khi mở đầu tác phẩm là mùa xuân xứ Huế và kết thúc tác phẩm chính là một điệu hò đậm chất Huế thân yêu.
Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ rất hay, bởi âm điệu trầm bổng, ngân nga, câu từ giản dị nhưng sâu sắc. Bộc lộ được tấm lòng yêu mến mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, và những khát khao cháy bỏng, mãnh liệt được dâng hiến hết cái phần đẹp đẽ, một mùa xuân nho nhỏ mang tên Thanh Hải cho cuộc đời này bằng những xúc cảm chân thành, tha thiết, khiêm nhường, giản dị của một con người sắp đi xa. Và có lẽ rằng tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ chính là cống hiến, chính là mùa xuân mà tác giả đã để lại cho đời, cho nền văn học Việt Nam một cách chân thành và đáng quý nhất với vai trò là một thi nhân.
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 2
Mùa xuân với sức sống của thiên nhiên đất trời luôn là nguồn cảm hứng của thi ca. Nhắc đến xuân trong kho tàng thi ca Việt Nam ta đã từng biết đến “Vội vàng” của Xuân Diệu, “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính… Và trong rất nhiều tác phẩm viết về mùa xuân ta không thể không nhắc đến “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
Bài thơ được viết vào năm 1980, khi tác giả đang phải chống chọi từng phút giây để có được sự sống. Mùa xuân là lúc thiên nhiên đất trời đang chuyển mình để đón chào sự sống mới vậy mà lúc này nhà thơ đang phải gồng mình trước cơn đau bệnh tật. Nói đến đây tự nhiên chúng ta lại nhớ đến “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử bởi bài thơ cũng được viết khi tác giả đang sống trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời mình. Thanh Hải cũng vậy. Dường như nhà thơ đang dành trọn từng phút giây để được cống hiến, để được sống với văn chương.
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế với gam màu tươi sáng, âm thanh trong trẻo, bừng sức sống.
“Mọc giữa dòng sông xanh,
Một bông hoa tím biếc”.
Động từ “mọc” xuất hiện ngay đầu câu thơ khiến người đọc vừa có cảm giác giật mình, vừa gợi sự vui mừng, ngạc nhiên, thích thú. Câu thơ càng hiện lên đẹp hơn ở những hình ảnh tiếp đó. Sắc tím của bông hoa thật nổi bật giữa màu xanh bát ngát của dòng sông rộng lớn. Câu thơ đã gợi được sức sống, sự vươn mình trỗi dậy của thiên nhiên, đất trời. Bút pháp chấm phá đã giúp tác giả tạo nên điểm nhấn cho bức tranh. Dù bông hoa xuất hiện một mình nhưng nó lại không hề cô độc, lẻ bóng. Nó có sức sống, có màu sắc, có sự thu hút người nhìn, khác hoàn toàn với “Củi một cành trôi lạc mấy dòng” (Tràng giang – Huy Cận). Có màu sắc ắt phải có âm thanh. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời đã mang đến sự náo nhiệt, tươi mới cho cả không gian. Tiếng chim ngân vang, rung động, kéo theo mùa xuân về. Không khí tươi vui của mùa xuân đất trời đã khiến nhà thơ không khỏi bồi hồi, xúc động mà viết nên những vần thơ đầy hứng khởi:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Một hình ảnh thơ rất nhẹ nhàng, lãng mạn. Hành động “đưa tay”, “hứng” bản thân nó đã thể hiện được sự trân trọng, nâng niu. Ở đây tác giả đang hứng lấy “từng giọt long lanh rơi” đủ để thấy ông yêu khoảnh khắc này biết nhường nào. Nhà thơ đã cất bút đầu tiên cho bức tranh nhẹ nhàng là thế với dòng sông xanh, với bông hoa tím, với tiếng chim hót và với tất cả tình yêu mà ông dành cho nơi đây, cho những ngày tháng còn lại của mình.
Khổ thơ thứ hai vẫn là bức tranh thiên nhiên mùa xuân những tác giả gửi vào đó với niềm tin về tương lai rộng mở và sự vững chãi của đất nước:
“Mùa xuân người cầm súng,
Lộc giắt đầy quanh lưng.
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”.
Đọc bốn câu thơ ta thấy mùa xuân dường như là mùa của sản xuất, của chiến đấu. “Lộc” là chỉ mầm non, là nói đến sự đâm chồi nảy lộc, căng tràn sức sống. Như vậy người lính ở đây đang mang vác trên vai những cành lá ngụy trang xanh biếc hay đang mang theo sứ mệnh về một đất nước được độc lập, tự do? Dù hiểu theo cách nào thì ý nghĩa của câu thơ vẫn mang những vẻ đẹp của nó. Cùng với sự gian khổ của người chiến sĩ, người nông dân cũng dùng mồ hôi, sức lao động của mình để tô điểm cho quê hương bằng màu vàng của nương mạ. Như vậy, máu và mồ hôi như đang cùng nhau lao động, cùng nhau chiến đấu để tô điểm, gìn giữ và bảo vệ quê hương, đất nước. Tất cả mọi người bước vào mùa xuân với khí thế vui tươi, phấn khởi và đầy náo nhiệt:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Hai từ láy “hối hả”, “xôn xao” khiến người đọc vừa thấy khẩn trương, gấp gáp lại vừa có cảm giác ồn ào, náo động. Hai câu thơ như bừng lên sức sống khiến cho cả bài thơ như khúc ca mùa xuân vui vẻ và hứng khởi.
Từ không khí đó, nhà thơ đã thể hiện tâm niệm tràn đầy nhiệt huyết nhưng cũng đầy triết lý nhân sinh của mình. Trước hết nhà thơ muốn hóa thân thành “con chim hót” để mang đến âm thanh trong trẻo, tươi vui. Rồi ông lại muốn thành “một cành hoa” để tô sắc thêm cho đời. Và cuối cùng ông muốn được trở thành “một nốt trầm”, nhập tâm hồn mình vào “bản hòa ca” tươi vui của đất nước. Có thể thấy cả ba ước nguyện của nhà thơ đều là những ước nguyện bình dị nhưng ẩn sâu trong nó là khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ. Để rồi từ khát vọng đó nhà thơ muốn hiến thân cho cuộc đời:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Nho nhỏ” và “lặng lẽ” ở đây là cách nói khiêm tốn ẩn chứa đầy chân thành. Tố Hữu từng viết “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” và “dâng cho đời” ở đây là lẽ sống cao cả như thế. Ông cống hiến cho Tổ quốc từ khi còn trẻ cho đến tận những ngày tháng cuối cùng trên giường bệnh. Nhà thơ dường như muốn dành cả đời mình để hiến dâng cho đất nước. Khổ thơ giống như một lời chiêm nghiệm nhà thơ dành cho chính mình
Ở khổ thơ cuối cùng, từ tình yêu thiên nhiên nhà thơ đã nâng lên thành khúc ca ca ngợi Tổ quốc:
“Mùa xuân tôi xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”
“Nam ai”, “Nam bình” là khúc hát quen thuộc của người dân xứ Huế còn “phách tiền” là một loại đạo cụ dân tộc để làm nhạc đệm cho khúc hát này. Như vậy, Thanh Hải đã sử dụng chất liệu dân gian quen thuộc để viết nên câu thơ nhẹ nhàng, tình cảm. Đoạn thơ đã diễn tả được tình cảm mà nhà thơ dành cho xứ Huế, đó là “ngàn dặm mình”, “ngàn dặm tình” dành cho xứ Huế thân thương.
Có thể nói, với “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải đã đóng góp một phần không nhỏ làm nên thành công của thơ ca dân tộc. Bài thơ không chỉ thể hiện được sự tinh tế cũng như những chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả mà còn truyền đến cho người đọc tình yêu quê hương đất nước mình.
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ - mẫu 3
Đề tài mùa xuân có lẽ là đề tài muôn thuở mà nhà thơ nào cũng ít nhất đã từng viết về. Viết về đề tài này, mỗi nhà thơ lại có những suy tưởng, những ý nghĩ riêng của mình. Nhiều nhà thơ cũng đã để lại dấu ấn của mình trên diễn đàn văn học Việt với những bài thơ xuân như “Vội vàng” – Xuân Diệu, “Mùa xuân chín” – Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” – Nguyễn Bính, … Nhưng có lẽ mùa xuân để lại trong lòng người đọc cảm xúc nhiều nhất là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Tác phẩm được viết lên khi nhà thơ đang ở những ngày cuối cùng của cuộc đời chứa đựng trong đó là tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước và khát vọng của tác giả.
“Mùa xuân nho nhỏ” có lẽ là bài thơ đặc biệt nhất trên diễn đàn thi ca Việt Nam. Cả bài thơ là nỗi lòng của tác giả, chứa đựng một tình yêu đời, yêu cuộc sống tha thiết, tấm lòng yêu đất nước non sông và ước nguyện được dâng hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc yêu thương của mình.
Mở đầu bài thơ, người đọc như được bước chân vào một miền quê hương quen thuộc:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lang rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Một không gian quen thuộc của miền quê Việt Nam hiện lên trước mắt người đọc chỉ bằng vài ba nét chấm phá. Một dòng sông xanh, một bông hoa tím, một vài chú chim nhỏ, chỉ bằng vài nét đơn sơ ấy thôi mà nhà thơ đã vẽ nên cho chúng ta thấy một không gian của một miền quê yên bình. Không gian thân thuộc ấy, chúng ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu trên mọi nẻo đường quê hương Việt Nam. Tác giả đã vẽ ra một dòng sông xanh biếc đang miệt mài trôi chảy. Và giữa dòng sông ấy, lại điểm xuyết một nét chấm phá nổi bật “một bông hoa tím biếc”.
Động từ “mọc” được nhà thơ sử dụng ở ngay đầu câu thơ gây nên ấn tượng mạnh, khiến người đọc cảm thấy bông hoa kia như đột ngột nhú lên bất ngờ từ dòng nước xanh. Màu tím có lẽ là màu sắc được người dân xứ Huế sử dụng nhiều nhất. Người ta vẫn ấn tượng với chiếc áo dài xứ Huế tím bay bay trong gió sông Hương thơ mộng. Vậy nên, ở đây, nhà thơ đã chọn màu tím để hình dung nên mùa xuân của quê hương mình. Khác với các nhà thơ khác, Thanh Hải ở đây không dùng tím nhạt, tím đậm, tím hồng để tả mà lại dùng “tím biếc”. Đọc câu thơ mà người đọc như ngỡ ngàng nhận ra màu sắc ấy hẳn đó là một đóa hoa lục bình đang dập dềnh trôi giữa dòng nước mênh mông. Ánh tím biếc của đóa hoa ấy như khiến cả mặt sông xanh rạng rỡ hơn, óng ánh hơn. Và không thể thiếu trong bức tranh quê hương thôn dã ấy, là những chú chim đang líu lo hót mừng.
Bằng một giọng nói tha thiết, nhà thơ cất tiếng gọi những chú chim ấy “Ơi con chim chiền chiện”. Không phải sơn ca, không phải chim yến mà lại là loài chiền chiện. Loài chim quen thuộc của nông thôn Việt Nam với giọng hót cao vút, thường bắt gặp ở đồng rộng hay những bãi quang đãng. Nhà thơ đã cất tiếng gọi “ơi” – một tiếng gọi như dành cho con người. Tiếng hót của chúng cất lên như để báo tin cho con người rằng mùa xuân đã về, đã đến thật rồi. Nghe tiếng hót ấy, nhà thơ dù đang trên giường bệnh nhưng cũng không thể không vui mừng, và Thanh Hải đã cất tiếng trách yêu “Hót chi mà vang trời”. Giọng nói ngọt ngào, giọng trách hờn dỗi của một người con xứ Huế sao mà đáng yêu, sao mà nhẹ nhàng đến thế! Tiếng hót ấy vang lên không trung cao xa như đang biến thành những giọt những hạt rơi xuống thế gian.
“Từng giọt long lanh rơi” là những giọt mưa xuân hay từng giọt ấy là tiếng chim hót, là từng giọt mật của mùa xuân đang dần rơi xuống để chào đón mùa xuân về? Ở đây, Thanh Hải đã sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, không phải dùng thính giác nữa mà là dùng xúc giác. Mùa xuân về đã khiến cho mọi giác quan trong cơ thể người bừng tỉnh. Nhà thơ đã không chỉ cảm nhận được mùa xuân kia mà còn có thể chạm tới nó nữa. Xuân Diệu cũng đã từng tỏ bày:
“Hỡi xuân hồng – ta muốn cắn vào ngươi”
Nếu ở Xuân Diệu, người ta thấy cái ngông cuồng khi muốn cắn, muốn ôm cả mùa xuân vào lòng để thưởng thức cho trọn vẹn thì ở Thanh Hải, người ta lại thấy cái ngọt ngào, cái dịu dàng như nét riêng của người Huế. Nhà thơ chỉ muốn được cảm nhận, muốn được tận tay chạm vào xuân, hứng lấy từng giọt mùa xuân đang trôi chảy kia để tận hưởng mà thôi chứ không muốn xuân là của riêng mình. Cả khổ thơ là một bức tranh quê hương thôn dã đầy rộn ràng. Đó là bức tranh chào xuân mà chỉ bằng vài nét chấm phá, Thanh Hải đã dựng lên một cách chân thực nhất của làng quê Việt Nam.
Bước sang khổ thơ thứ hai, khung cảnh xuân không còn chỉ có thiên nhiên mà đan xen vào đó là hình ảnh con người:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Hình ảnh con người hiện lên là hình ảnh của những người đang trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là hình ảnh của người lính cầm súng với quanh mình là lá ngụy trang. Mùa xuân của họ là những cành lộc non giắt trên lưng để che mắt quân thù. “Lộc” ấy đối với những người sản xuất hậu phương là những mầm cây ngô, cây sắn, cây lúa mới đang trải ra trên khắp ruộng đồng, nương rẫy. Mùa xuân của mỗi người tuy khác nhau nhưng đều góp phần dựng xây lên mùa xuân của đất nước. Cả Tổ quốc đang sục sôi, “hối hả” bước những bước chân đầu tiên đầy gian khổ để tiến lên xây dựng một đất nước mới mơ ước, hạnh phúc hơn. Điệp từ “tất cả” được lặp lại như một lời khẳng định của nhà thơ rằng cả nước, cả dân tộc đang rộn ràng, tươi vui, phấn đấu hết mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau bao năm đấu tranh vất vả. Tác giả cũng sử dụng ở đây nghệ thuật so sánh với những từ láy của chuyển động và âm thanh để miêu tả rõ hơn không khí rạo rực, rộn ràng ấy. Phải chăng, chính tác giả Thanh Hải cũng đang háo hức được hòa mình vào không khí nhộn nhịp, muốn góp một chút sức mọn của mình để dâng lên mùa xuân của dân tộc?
Nhịp thơ năm chữ vốn là một nhịp thơ khá nhanh, giàu cảm xúc và dồn dập. Thế nhưng, bước sang khổ thơ thứ ba, nhịp thơ ở đây lại trở lên trầm lắng:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Nhịp thơ chậm và trầm lắng hơn bởi ở đây tác giả đang suy tưởng lại bốn ngàn năm lịch sử của dân tộc. Trong bốn ngàn năm dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã phải trải qua biết bao khó khăn, bao gian khổ nhọc nhằn. Những cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc, chiến tranh chống quân Nguyên-Mông, chiến tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã gây nên bao mất mát đau thương cho dân tộc. Đó là những “vất vả và gian lao” mà cả dân tộc ta đã phải trải qua. Thế nhưng, vượt lên trên tất cả khó khăn ấy, chúng ta đã làm nên những chiến thắng vang dội với ba lần chiến thắng quân Nguyên – Mông hung hãn, chiến thắng cả hai kẻ thù là hai quốc gia mạnh nhất lúc bấy giờ là Pháp và Mỹ. Một dân tộc như thế, một đất nước như thế hỏi có ai không tự hào được chứ? Dân tộc ta như một vì sao rực sáng, tiến lên phía trước, mà “đạp quân thù xuống bùn sâu”. Một lần nữa, Thanh Hải lại sử dụng nghệ thuật so sánh khi so sánh hình ảnh “đất nước như vì sao” luôn luôn chiếu rạng, sáng soi, chỉ đường dẫn lối chúng ta tiến về phía trước của văn minh và hạnh phúc.
Đất nước ta đã trải qua những ngày gian khổ để tiến lên những ngày tháng tươi sáng hơn. Chính lúc này đây là lúc mà mỗi chúng ta cần góp một phần nhỏ sức lực của mình để dựng xây lên một mùa xuân tươi đẹp hơn của đất nước. Bởi vậy giờ đây, khi sức khỏe cũng đang yếu dần, dù đang trên giường bệnh, nhưng Thanh Hải vẫn cất lên lời nguyện ước của chính mình:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Không phải muốn trở thành điều gì to lớn, ước nguyện của Thanh Hải chỉ muốn được làm một chú chim nhỏ, một nhành hoa thắm, một nốt trầm giữa bản hòa ca bất tận. Tác giả chỉ muốn được trở thành một chú chim nhỏ cất tiếng hót vui cho đời hay một đóa hoa để khoe sắc thắm mang lại sắc hương cho cuộc đời này, hay chỉ là một nốt trầm lắng giữa bản nhạc của tháng năm, của cuộc đời, của đất nước. Tất cả nguyện vọng ấy của tác giả chỉ là những ước vọng nhỏ nhoi, vậy mà ông tha thiết mong mỏi được thực hiện. Điều đó được chứng tỏ qua điệp từ “ta làm” được lặp lại liên tiếp như một lời khẳng định. Chỉ một ước vọng nhỏ nhoi thế thôi mà cháy bỏng, mãnh liệt tới nhường nào. Nó đã thể hiện niềm khao khát yêu mến cuộc sống này, khao khát muốn được dâng hiến cho cuộc đời dù chỉ là một chút nhỏ bé mà thôi. Nhà thơ cũng muốn được góp phần vào bản hòa ca của đất nước chỉ để trở thành “một nốt trầm xao xuyến” – nốt trầm giữa bản hòa ca rộn rã của dân tộc. Nếu như để ý một chút ở đây, ta có thể nhận ra, tác giả không sử dụng từ “tôi” để thể hiện khát vọng của mình mà là từ “ta”. Nếu như “tôi” chỉ thể hiện cái tôi cá nhân của riêng mình thì “ta” lại là cái tôi chung của cả dân tộc. Nó đại diện cho cái tôi chung của bao con người Việt Nam muốn dâng hiến cho cuộc đời, cho sự nghiệp của dân tộc.
Cuối cùng, kết lại, nhà thơ chỉ muốn trở thành “một mùa xuân nho nhỏ”. Mùa xuân ấy sẽ để dâng cho đời, cho đất nước, cho cuộc sống dù ở trong hoàn cảnh nào, độ tuổi nào cũng muốn được dâng tặng hết mình. Điệp từ “dù là” lặp lại như một lời khẳng định sự chắc chắn rằng bất cứ khi nào, lúc nào tác giả cũng sẽ sẵn sàng để dâng hiến cả cuộc đời mình. Điệp từ ấy cũng làm nhịp thơ trở lên nhanh hơn, rộn ràng hơn, càng khẳng định hơn ý chí của tác giả. Và ước muốn của tác giả cũng là ước muốn chung của mỗi người con Việt Nam, muốn làm một mùa xuân nhỏ dâng hiến lên mùa xuân đại thắng của dân tộc, dù là bất kì ai, là cụ già hay thanh niên, trẻ nhỏ. Hai khổ thơ nhưng chung một niềm xúc cảm mong ước, đó là ước nguyện, là nỗi khát khao được cống hiến hết mình của tác giả, của mỗi con người dân tộc, cho sự nghiệp của Tổ quốc dù chỉ là những vật nhỏ bé, thường ngày.
Kết lại bài thơ, Thanh Hải lại trở về làm một người con của xứ Huế mộng mơ khi cất lên tiếng hát:
“Mùa xuân tôi xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế…”
Trở về với Huế thương, Thanh Hải xin được cất lên câu hát thân thương – câu hát đậm chất trữ tình của Huế: Nam ai, Nam bình. Hai điệu hát mà chỉ có ở đất Huế, chỉ có những người con của Huế mới có thể ca lên. Lời hát ấy xin dành tặng cho mùa xuân, cho đất nước, quê hương, con người Việt Nam. Từng nhịp phách tiền đệm cho tiếng hát ấy vang vọng lên, ngân dài lên trên xứ Huế như tiếng lòng của Thanh Hải chất chứa bao nỗi niềm.
“Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một áng thơ văn chứa đầy cảm xúc, chất trữ tình đúng như tình cảm dịu dàng, thấm đượm của người con xứ Huế. Sử dụng nhịp thơ năm chữ dồn dập nhưng không kém phần nhẹ nhàng, đằm thắm, tác giả đã viết lên nỗi lòng của mình. Đó là một tình yêu cuộc sống tha thiết, yêu đời tha thiết dù đang nằm trên giường bệnh, là tình yêu nước, ước vọng được cống hiến cho Tổ quốc dù là một chút nhỏ bé thôi.
Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” có lẽ là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất trong nền văn học Việt Nam khi được viết trong thời kì đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa cũng là lúc tác giả đang nằm trên giường bệnh. Nhưng có thể thấy ở trong đó chứa chan bao nhiêu cảm xúc, tình yêu, bao nhiêu nỗi lòng của một nhà thơ cả đời gắn bó, cống hiến cho sự nghiệp của đất nước. Bài thơ đã trở thành một tượng đài trong lòng người đọc về những tác phẩm viết về mùa xuân và sẽ luôn luôn còn nguyên giá trị cho đến mai sau.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
Dàn ý Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải (Dàn ý mẫu 2)
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải (Bài văn mẫu 1)
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Bài văn mẫu 2)
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Bài văn mẫu 3)
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Bài văn mẫu 4)
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều